Petikan
Berita
Analisis
Pengguna
24/7
Kalendar Ekonomi
Pendidikan
Data
- Nama
- Terkini
- Sblm
S:--
R: --
S: --
S:--
R: --
S: --
S:--
R: --
S: --
S:--
R: --
S: --
S:--
R: --
S: --
S:--
R: --
S: --
S:--
R: --
S:--
R: --
S: --
S:--
R: --
S: --
S:--
R: --
S: --
S:--
R: --
S: --
S:--
R: --
S: --
S:--
R: --
S:--
R: --
S:--
R: --
S: --
S:--
R: --
S: --
S:--
R: --
S: --
S:--
R: --
S: --
S:--
R: --
S: --
S:--
R: --
S: --
S:--
R: --
S: --
S:--
R: --
S: --
S:--
R: --
S: --
S:--
R: --
S: --
S:--
R: --
S: --
S:--
R: --
S: --
S:--
R: --
S: --
S:--
R: --
S: --
S:--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
--
R: --
S: --
Tiada data yang sepadan
Aliran Pasaran
Indikator Teratas
Pandangan Terkini
Pandangan Terkini
Topik Trending
Untuk mempelajari dinamik pasaran dengan cepat dan mengikuti fokus pasaran dalam 15 minit.
Dalam dunia manusia, tidak akan ada kenyataan tanpa sebarang kedudukan, tidak akan ada kenyataan tanpa sebarang tujuan.
Inflasi, kadar pertukaran, dan ekonomi membentuk keputusan dasar bank pusat; sikap dan kata-kata pegawai bank pusat turut mempengaruhi tindakan peniaga pasaran.
Wang membuat dunia berputar dan mata wang adalah komoditi kekal. Pasaran forex penuh dengan kejutan dan jangkaan.
Kolumnis Top
Nikmati aktiviti menarik, di sini di FastBull.
Saya mempunyai 5 tahun pengalaman dalam analisis kewangan, terutamanya dalam aspek perkembangan makro dan pertimbangan arah aliran jangka sederhana dan panjang. Fokus saya adalah terutamanya pada perkembangan Timur Tengah, pasaran baru muncul, arang batu, gandum dan produk pertanian lain.
Berita terkini dan peristiwa kewangan global.
7 tahun pasaran saham, pertukaran asing, logam berharga dan pengalaman dagangan dan analisis lain, berdasarkan asas, sokongan teknikal, berat sebelah ke arah logik transaksi atas ke bawah, memfokuskan pada kitaran makro dan kawalan risiko, ramalan teoretikal bekalan dan permintaan pelbagai guna perubahan harga, mengimbangi kesan urus niaga, pengedaran cip dan sentimen pasaran, dan stabil.
Maklumat terkini
Risk Warning on Trading HK Stocks
Despite Hong Kong's robust legal and regulatory framework, its stock market still faces unique risks and challenges, such as currency fluctuations due to the Hong Kong dollar's peg to the US dollar and the impact of mainland China's policy changes and economic conditions on Hong Kong stocks.
HK Stock Trading Fees and Taxation
Trading costs in the Hong Kong stock market include transaction fees, stamp duty, settlement charges, and currency conversion fees for foreign investors. Additionally, taxes may apply based on local regulations.
HK Non-Essential Consumer Goods Industry
The Hong Kong stock market encompasses non-essential consumption sectors like automotive, education, tourism, catering, and apparel. Of the 643 listed companies, 35% are mainland Chinese, making up 65% of the total market capitalization. Thus, it's heavily influenced by the Chinese economy.
HK Real Estate Industry
In recent years, the real estate and construction sector's share in the Hong Kong stock index has notably decreased. Nevertheless, as of 2022, it retains around 10% market share, covering real estate development, construction engineering, investment, and property management.
Hongkong, China
Ho Chi Minh, Vietnam
Dubai, UAE
Lagos, Nigeria
Kaherah, Mesir
White Label
Data API
Web Plug-in
Program Afiliate
Lihat Semua
Tiada data
Tidak log masuk
Log masuk untuk mengakses lebih banyak ciri
Keahlian FastBull
Belum lagi
Belian
Log masuk
Daftar
Hongkong, China
Ho Chi Minh, Vietnam
Dubai, UAE
Lagos, Nigeria
Kaherah, Mesir
White Label
Data API
Web Plug-in
Program Afiliate
Nhu cầu nhà xưởng cao, doanh nghiệp BĐS công nghiệp hưởng lợi
CTCP Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) nhận định nhu cầu về nhà xưởng xây sẵn và nhà kho xây sẵn tại các khu công tăng trưởng ổn định trong thời gian tới.
Với cơ sở đó, VDSC nhận định CTCP Long Hậu (HoSE: LHG) và CTCP Đầu tư Sài Gòn VRG (HoSE: SIP) sẽ là những doanh nghiệp hưởng lợi do có kinh nghiệm cũng như chiến lược đầu tư phù hợp.
Long Hậu hiện đang khai thác 113.800m2 nhà xưởng xây sẵn với tỷ lệ lấp đầy trên 80%. Trong năm 2024, doanh nghiệp đã hoàn thành xây dựng và bắt đầu cho thuê các nhà xưởng tại lô 3A 26-19 (KCN Long Hậu 3), mỗi nhà xưởng có diện tích 3.000m2 với giá thuê khoảng 4,5 USD/m2/tháng.
VDSC kỳ vọng Long Hậu sẽ đẩy mạnh hoạt động cho thuê và thu hút thêm khách hàng mới trong nửa cuối năm 2024, qua đó thu về 108 tỷ đồng doanh thu, tăng 28% so với cùng kỳ.
Sang năm 2025, Long Hậu dự kiến xây dựng thêm nhà xưởng tại lô 3A với tổng diện tích 10.000m2 và nhà xưởng cao tầng tại KCN Long Hậu 1 với diện tích 13.000m2, nâng tổng diện tích khai thác lên 136.800m2, tăng 20% so với năm trước.
Nhu cầu nhà xưởng xây sẵn tăng cao tại khu công nghiệp. Ảnh minh họa.
Đối với Đầu tư Sài Gòn VRG, doanh nghiệp hiện khai thác 119.000m2 nhà xưởng xây sẵn với tỷ lệ lấp đầy 75%. So với quỹ đất thương phẩm gần 1.000ha, diện tích khai thác nhà xưởng này còn khá nhỏ.
Tuy nhiên, với nhu cầu cao về nhà xưởng xây sẵn, đặc biệt tại các thành phố lớn, Đầu tư Sài Gòn VRG có cơ hội khai thác hiệu quả hơn quỹ đất của mình, đặc biệt là tại TP.HCM.
Hiện tại, doanh nghiệp đang hợp tác với CBRE (công ty tư vấn bất động sản) để phát triển các nhà xưởng và trung tâm logistics tại KCN Lê Minh Xuân 03, VDSC kỳ vọng kế hoạch này sẽ cải thiện hiệu quả kinh doanh doanh nghiệp trong các năm tới.
Nhu cầu nhà xưởng xây sẵn cao, DN BĐS công nghiệp nào hưởng lợi?
CTCP Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) nhận định nhu cầu về nhà xưởng xây sẵn và nhà kho xây sẵn tại các khu công tăng trưởng ổn định trong thời gian tới.
Với cơ sở đó, VDSC nhận định CTCP Long Hậu (HoSE: LHG) và CTCP Đầu tư Sài Gòn VRG (HoSE: SIP) sẽ là những doanh nghiệp hưởng lợi do có kinh nghiệm cũng như chiến lược đầu tư phù hợp.
Long Hậu hiện đang khai thác 113.800m2 nhà xưởng xây sẵn với tỷ lệ lấp đầy trên 80%. Trong năm 2024, doanh nghiệp đã hoàn thành xây dựng và bắt đầu cho thuê các nhà xưởng tại lô 3A 26-19 (KCN Long Hậu 3), mỗi nhà xưởng có diện tích 3.000m2 với giá thuê khoảng 4,5 USD/m2/tháng.
VDSC kỳ vọng Long Hậu sẽ đẩy mạnh hoạt động cho thuê và thu hút thêm khách hàng mới trong nửa cuối năm 2024, qua đó thu về 108 tỷ đồng doanh thu, tăng 28% so với cùng kỳ.
Sang năm 2025, Long Hậu dự kiến xây dựng thêm nhà xưởng tại lô 3A với tổng diện tích 10.000m2 và nhà xưởng cao tầng tại KCN Long Hậu 1 với diện tích 13.000m2, nâng tổng diện tích khai thác lên 136.800m2, tăng 20% so với năm trước.
Đối với Đầu tư Sài Gòn VRG, doanh nghiệp hiện khai thác 119.000m2 nhà xưởng xây sẵn với tỷ lệ lấp đầy 75%. So với quỹ đất thương phẩm gần 1.000ha, diện tích khai thác nhà xưởng này còn khá nhỏ.
Tuy nhiên, với nhu cầu cao về nhà xưởng xây sẵn, đặc biệt tại các thành phố lớn, Đầu tư Sài Gòn VRG có cơ hội khai thác hiệu quả hơn quỹ đất của mình, đặc biệt là tại TP.HCM.
Hiện tại, doanh nghiệp đang hợp tác với CBRE (công ty tư vấn bất động sản) để phát triển các nhà xưởng và trung tâm logistics tại KCN Lê Minh Xuân 03, VDSC kỳ vọng kế hoạch này sẽ cải thiện hiệu quả kinh doanh doanh nghiệp trong các năm tới.
Cổ phiếu SIP: Quỹ đất hơn vốn hóa, doanh thu ẩn 11,000 tỷ, định giá bao nhiêu?
Theo dõi phân tích chi tiết tại youtube EZ Capital.
1, Chỉ số tài chính
- Hiện tại, giá cổ phiếu SIP đang dao động ở mức khoảng 75,000 VNĐ, tương đương với vốn hóa thị trường khoảng trên 15,000 tỷ VNĐ, với hệ số P/E là khoảng 15 lần và P/B là 4 lần. Mặc dù tỷ suất cổ tức của SIP không cao, dao động từ 1,600 đến 2,000 VNĐ, năm 2022 đã chứng kiến mức cổ tức tạm chấp nhận được là 4,000 VNĐ. Điều này cho thấy, từ góc độ định giá, cổ phiếu SIP không hẳn là quá rẻ, nhưng cũng không phải là quá đắt, đặc biệt khi xét đến mô hình kinh doanh và tiềm năng tăng trưởng của công ty.
2, Mô hình kinh doanh
- Khi phân tích kỹ hơn về mô hình kinh doanh của SIP, chúng ta có thể nhận thấy rằng công ty không chỉ dựa vào khu công nghiệp để tạo ra doanh thu. Thay vào đó, phần lớn doanh thu của SIP đến từ mảng tiện ích khu công nghiệp, trong đó nổi bật là kinh doanh điện. SIP sở hữu bốn trạm biến áp và tiến hành mua điện từ EVN, sau đó hạ áp và bán lại cho khách hàng. Mặc dù biên lợi nhuận của mảng này không quá cao, duy trì ở mức trên 7%, nhưng với đợt tăng giá điện trong năm 2023, doanh thu từ mảng này đã tăng trưởng đáng kể.
- Mảng KCN của SIP tuy đóng góp trong doanh thu không đáng kể nhưng lại có BLNG rất lớn (>55%). Doanh thu từ mảng này chủ yếu đến từ hoạt động cho thuê đất và cơ sở hạ tầng cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Doanh thu mảng KCN cũng sẽ ảnh hưởng đến doanh thu mảng tiện ích vì bên thuê đất cũng sẽ sử dụng tiện ích mà SIP cung cấp.
- Năm 2023, với tổng doanh thu khoảng 6,600 tỷ VNĐ, mảng tiện ích khu công nghiệp đã đóng góp hơn 6,000 tỷ VNĐ, tương đương với lợi nhuận gộp đạt 615 tỷ VNĐ trên tổng lợi nhuận gộp là 931 tỷ VNĐ. Điều này cho thấy rõ ràng rằng, mảng tiện ích khu công nghiệp chính là nguồn thu nhập chủ yếu của SIP, tuy nhiên với BLNG cao thì mảng KCN cũng là mảnh đất màu mỡ cho doanh nghiệp này.
3, Lưu ý khoản doanh thu chưa thực hiện
- Doanh thu mảng KCN thấp là do cách hạch toán của doanh nghiệp vào mục doanh thu chưa thực hiện. Đây là khoản doanh thu đã được công ty thu nhận từ trước, nhưng được hạch toán dần theo thời gian thuê đất của khách hàng, thường từ 30 đến 50 năm. Hiện tại, SIP có trên 11,000 tỷ VNĐ doanh thu chưa thực hiện dài hạn và khoảng 300 tỷ VNĐ doanh thu chưa thực hiện ngắn hạn mỗi năm. Điều này tạo nên một nguồn dòng tiền ổn định và liên tục tăng trưởng cho công ty.
4, Quỹ đất hơn vốn hóa
- Các khu công nghiệp của SIP nằm ở ba tỉnh: Tây Ninh, Hồ Chí Minh, và Đồng Nai, với vị trí địa lý thuận lợi, gần TP. Hồ Chí Minh. Quỹ đất đã giải phóng mặt bằng của SIP là khoảng 755 ha, với tổng diện tích thương phẩm có thể cho thuê lên đến 1.040 ha. Trong đó, khu Phước Đông là khu công nghiệp lớn nhất, với kỳ vọng trở thành yếu tố chính cho cổ phiếu của SIP trong vài năm tới. Hiện tại, khu Phước Đông đã bán được một phần, với khoảng 640 ha thương phẩm còn lại.
- Giá trị quỹ đất và lợi nhuận dự kiến từ các khu công nghiệp của SIP rất lớn, với biên lợi nhuận gộp cao, đặc biệt là ở khu công nghiệp Phước Đông với biên lợi nhuận gộp ước tính lên tới 80%. SIP cũng đang triển khai các dự án khác như Phước Đông giai đoạn 3 và khu công nghiệp Phạm Văn Hai, dự kiến mang lại thêm giá trị lớn trong tương lai. Tổng giá trị còn lại từ các khu công nghiệp của SIP ước tính khoảng 24.700 tỷ đồng, trong khi vốn hóa của cổ phiếu là khoảng 15.000 tỷ đồng.
Dòng tiền từ cho thuê khu công nghiệp dự kiến sẽ tăng trưởng mạnh mẽ từ năm 2024-2025 sau giai đoạn giảm tốc do COVID-19.
5, Kết luận
- Tóm lại, SIP là một cổ phiếu có mô hình kinh doanh bền vững, dựa trên mảng tiện ích khu công nghiệp và quỹ đất lớn. Với doanh thu ổn định từ mảng tiện ích và tiềm năng từ các dự án khu công nghiệp, SIP hứa hẹn sẽ tiếp tục tạo ra giá trị cho nhà đầu tư trong tương lai. Mặc dù cổ phiếu này không phải là quá rẻ, nhưng với mức định giá hiện tại, nó vẫn có thể là một cơ hội đầu tư hấp dẫn, đặc biệt nếu xem xét kỹ về tiềm năng tăng trưởng và cấu trúc tài chính của công ty.
Lợi nhuận nhóm BĐS khu công nghiệp tăng trưởng, riêng một ông lớn 'đi lùi'
Trong quý II/2024 và tính chung 6 tháng đầu năm, hầu hết doanh nghiệp bất động sản khu công nghiệp đều ghi nhận sự tăng trưởng khá tốt. Riêng "ông lớn" Kinh Bắc ghi nhận sự sụt giảm mạnh.
Số liệu từ Tổng cục thống kê cho hay, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam trong nửa đầu năm 2024 đạt gần 15,2 tỷ USD, tăng hơn 13% so với cùng kỳ và FDI giải ngân hơn 10,8 tỷ USD, tăng hơn 8%.
Trong đó, FDI vào bất động sản gần 2 tỷ USD, gấp 4,7 lần cùng kỳ và chiếm gần 20% tổng vốn đăng ký.
Triển vọng vốn đầu tư FDI tăng trưởng ổn định được dự báo sẽ tiếp tục hỗ trợ cho kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp bất động sản khu công nghiệp.
Trong quý II/2024, hầu hết các "đại gia" trong ngành bất động sản khu công nghiệp đều cho thấy sự tăng trưởng cả về doanh thu và lợi nhuận.
Dẫn đầu về doanh thu trong quý II là Tổng Công ty Idico - CTCP (mã: IDC, sàn HNX) với hơn 2.148 tỷ đồng, dù vậy vẫn giảm 11% so với cùng kỳ. Qua đó, kéo theo lãi ròng giảm 19%, gần 433 tỷ đồng. Nguyên nhân lợi nhuận giảm do doanh thu các hợp đồng cho thuê hạ tầng KCN đáp ứng điều kiện doanh thu một lần giảm so với cùng kỳ.
Tính chung 6 tháng đầu năm, doanh thu của IDC gần 4.616 tỷ đồng và lãi ròng gần 1.128 tỷ đồng, lần lượt tăng 30% và 65%. So với mục tiêu 2024, IDC thực hiện lần lượt 56% doanh thu và 69% lãi trước thuế.
Xếp thứ hai về doanh thu là CTCP Đầu tư Sài Gòn VRG (mã: SIP, sàn HoSE) đạt 1.937 tỷ đồng, tăng 16% nhờ doanh thu từ cung cấp dịch vụ tiện ích KCN và lãi bán các khoản đầu tư. Qua đó, lãi ròng quý II đạt gần 298 tỷ đồng, tăng 26%.
Lũy kế 6 tháng, doanh thu của SIP đạt hơn 3.763 tỷ đồng, tăng 23% và lãi ròng gần 544 tỷ đồng, tăng 29%. So với kế hoạch năm, doanh nghiệp này đã đi được 3/4 quãng đường doanh thu và lợi nhuận.
Còn tại Tổng CTCP Phát triển Khu Công nghiệp (Sonadezi, mã: SNZ, sàn UPCoM) ghi nhận doanh thu tăng 15% đạt gần 1.565 tỷ đồng, lãi ròng tăng gần 60% lên 325 tỷ đồng trong quý II/2024.
Tuy nhiên do áp lực lớn từ quý I nên lũy kế 6 tháng đầu năm, Sonadezi đạt doanh thu thuần hơn 193 tỷ đồng và lãi ròng 66 tỷ đồng, lần lượt giảm 23% và 36% so với cùng kỳ.
Trường hợp của "đại gia" khu công nghiệp Bình Dương Becamex IDC (mã: BCM, sàn HoSE) dù doanh thu giảm 10% còn gần 1.162 tỷ đồng nhưng lãi ròng tăng gấp 2,7 lần lên gần 381 tỷ đồng. Qua đó, lãi sau thuế 6 tháng BCM đạt hơn 513 tỷ đồng, gấp 10,5 lần cùng kỳ. Dù vậy, con số này mới chỉ đạt 22% so với mục tiêu lợi nhuận sau thuế 2024 ở mức 2.350 tỷ đồng.
Gây bất ngờ nhất trong số các "ông lớn" khu công nghiệp có lẽ là Tổng công ty Phát triển Đô thị Kinh Bắc (mã: KBC) khi chỉ mang về doanh thu gần 892 tỷ đồng, lãi ròng 237 tỷ đồng, lần lượt giảm 62% và 76%. Tính chung trong nửa đầu năm, KBC lãi hơn 151 tỷ đồng, giảm 92%, nguyên do hoạt động kinh doanh KCN giảm sút.
6 tháng đầu năm nay, tổng nợ vay của các doanh nghiệp bất động sản đã công bố BCTC quý 2/2024 tăng 7%, lên hơn 491 ngàn tỷ đồng. Nếu so với thời điểm đầu năm 2020, nợ vay của các doanh nghiệp mảng này tăng tới gần 60%.
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), tính đến 31/5/2024, dư nợ tín dụng đối với hoạt động kinh doanh bất động sản (BĐS) lên hơn 1.2 triệu tỷ đồng, tăng gần 4% so với thời điểm 31/3.
Dư nợ tín dụng hoạt động kinh doanh BĐS tính đến 31/5/2024 (Đvt: tỷ đồng)Nguồn: Bộ Xây dựng
NHNN cho biết, một trong những lĩnh vực cho vay chính của tăng trưởng tín dụng là BĐS thời gian qua giảm mạnh, nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp và người dân đều chậm lại vì giá nhà cao, chênh lệch lớn so với thu nhập của người dân trong bối cảnh kinh tế khó khăn.
Đối với thị trường trái phiếu doanh nghiệp, quý 2/2024, có 4 đợt phát hành trái phiếu ra công chúng, trị giá 2,500 tỷ đồng, chiếm gần 3% tổng giá trị phát hành; 84 đợt phát hành riêng lẻ trị giá 88,719 tỷ đồng, chiếm hơn 97%.
Trong đó, tổng giá trị phát hành trái phiếu của doanh nghiệp BĐS là 16,900 tỷ đồng, chiếm 19% tổng giá trị phát hành và gấp 2.6 lần cùng kỳ.
Mặt khác, giá trị trái phiếu sẽ đáo hạn trong nửa cuối năm nay rất lớn, lên tới 139,765 tỷ đồng; trong đó có 58,782 tỷ đồng là trái phiếu BĐS, chiếm 42%.
Nguồn: VBMA
Phần lớn nợ vay gia tăng
Theo thống kê từ VietstockFinance, 116 doanh nghiệp BĐS trên sàn chứng khoán (HOSE, HNX, UPCoM) đã công bố BCTC quý 2/2024 có tổng dư nợ vay tại ngày 30/6/2024 là hơn 491 ngàn tỷ đồng, tăng 7% so với đầu năm. Nếu so với đầu năm 2020, mức dư nợ vay này tăng tới gần 60%.
Nguồn: VietstockFinance
Trong đó, 4 doanh nghiệp đầu ngành cũng là những cái tên có nợ vay lớn nhất, gồm: Tập đoàn VINGROUP hơn 222.4 ngàn tỷ đồng, Vinhomes hơn 70.5 ngàn tỷ đồng, Novaland hơn 59.2 ngàn tỷ đồng và Becamex IDC gần 21.3 ngàn tỷ đồng. Chỉ tính riêng 4 ông lớn này đã chiếm tới 76% tổng nợ vay của nhóm doanh nghiệp BĐS trên sàn được thống kê.
Theo thống kê top 20 doanh nghiệp có dư nợ vay lớn nhất thị trường, chỉ có 7 doanh nghiệp giảm nợ vay, 13 cái tên tiếp tục tăng nợ sau nửa đầu năm. Trong nhóm 20 vừa nêu, dư nợ vay của CTCP Đầu tư Sài Gòn VRG S tăng 81%, lên 3,043 tỷ đồng, chiếm 13% tổng tài sản. Nguyên nhân do SIP phát sinh thêm khoản vay dài hạn tại Vietcombank (VCB) hơn 780 tỷ đồng ngày 28/6, kỳ hạn 84 tháng, nhằm chi trả bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án khu liên hợp công nghiệp - đô thị - dịch vụ Phước Đông Bời Lời (giai đoạn 3) và gần 600 tỷ đồng vay nợ ngắn hạn tại các ngân hàng khác.
Nợ vay của Nhà Khang Điền tăng 22%, lên 7,740 tỷ đồng, chiếm 27% tổng tài sản. KDH tăng vay dài hạn tại các ngân hàng từ hơn 4,900 tỷ đồng hồi đầu năm lên 6,070 tỷ đồng để tài trợ cho các dự án: khu nhà ở Bình Trưng Đông, khu trung tâm dân cư Tân Tạo - khu A và khu nhà ở Bình Hưng 11A.
Nguồn: VietstockFinance
Xét về mức tăng, ông trùm nhà ở xã hội - Địa Ốc Hoàng Quân H tăng nhiều nhất khi nợ vay vào cuối tháng 6 tăng gấp 22 lần so với đầu năm, lên 1,370 tỷ đồng và chiếm 13% tổng tài sản. Sở dĩ có khoản tăng đột biến này là do HQC mua cổ phần và hợp nhất BCTC CTCP Đầu tư Thành phố Vàng (HQC sở hữu 98.04%) trong quý 1/2024.
Trong đó, gần 1.3 ngàn tỷ đồng là khoản vay dài hạn tại HDBank, gồm 340 tỷ đồng để thanh toán hợp đồng hợp tác kinh doanh và thi công xây dựng với CTCP Đầu tư Xây dựng Phát triển nhà Bảo Linh, gần 450 tỷ đồng để bổ sung vốn thực hiện dự án chung cư nhà ở xã hội thành phố vàng (Golden City) và 500 tỷ đồng góp vốn hợp tác kinh doanh với CTCP Tư vấn - Thương mại - Dịch vụ Địa ốc Hoàng Quân Mê Kông.
Nguồn: VietstockFinance
4 doanh nghiệp sạch nợ
Ở chiều ngược lại, 4 doanh nghiệp sạch nợ vay tại thời điểm 30/6/2024, gồm: Sonadezi Giang Điền S, Đô thị Từ Liêm N, Xây dựng Số 3 Hải Phòng P.
Ngoài ra, một số doanh nghiệp giảm mạnh dư nợ vay có thể kể đến như Tập đoàn Nam Mê Kông (HNX: VC3) giảm 71%, còn 121 tỷ đồng, chỉ chiếm 4% tổng tài sản; nợ vay của Khu Công nghiệp Nam Tân Uyên (UPCoM: NTC) còn khoảng 90%, giảm 67% so với đầu năm và chiếm 2% tổng tài sản. Hay Tập đoàn C.E.O cũng giảm 32% nợ vay, còn 563 tỷ đồng, do Công ty trả nợ khoảng 300 tỷ đồng khoản vay ngắn hạn tại BIDV.
Nguồn: VietstockFinance
Tỷ lệ nợ vay trên tổng tài sản là một trong những chỉ số quan trọng để đánh giá sức khỏe tài chính của doanh nghiệp. Nếu nợ vay cao nhưng hoạt động không hiệu quả sẽ gánh thêm khoản lãi khổng lồ hàng năm, bào mòn lợi nhuận của doanh nghiệp.
Theo thống kê, tại ngày 30/6/2024, 3 cái tên có tỷ lệ nợ vay chiếm trên 50% tổng tài sản là Đầu tư Văn Phú - INVEST , ghi nhận con số 6,219 tỷ đồng nợ vay, tăng 16% và chiếm 53% tổng tài sản.
Nguồn: VietstockFinance
Chi phí lãi vay tăng mạnh
Tổng chi phí lãi vay của 116 doanh nghiệp BĐS trong quý 2/2024 ở mức 9,081 tỷ đồng, tăng 34% so với cùng kỳ năm 2023 và đang có xu hướng tăng dần đều qua các quý.
Nguồn: VietstockFinance
Với dư nợ cao nhất toàn ngành, VIC và VHM có chi phí lãi vay cao nhất, nhì lần lượt là hơn 5,490 tỷ đồng, tăng 54%, chiếm 61% chi phí tài chính và gần 1,465 tỷ đồng, tăng 87%, chiếm 60% chi phí tài chính.
Ông lớn khu công nghiệp Bình Dương (BCM) cũng tăng 39% chi phí lãi vay, lên 374 tỷ đồng và chiếm 100% chi phí tài chính.
Nguồn: VietstockFinance
Thanh Tú
FILI
Doanh nghiệp bất động sản công nghiệp khởi sắc nửa đầu năm 2024
Thị trường bất động sản khu công nghiệp vẫn tiếp tục là điểm sáng với tỉ lệ hấp thụ tốt và giá chào thuê tiếp tục ở mức cao.
Hầu hết các doanh nghiệp trong ngành bất động sản công nghiệp đều ghi nhận kết quả kinh doanh tích cực trong quý II, cũng như nửa đầu năm 2024.
Nhiều yếu tố hỗ trợ tích cực
Theo đánh giá của Chứng khoán Bảo Việt (BVSC), ngành bất động sản công nghiệp đang có nhiều yếu tố tích cực hỗ trợ cho tăng trưởng của ngành như: Nhiều địa phương trọng điểm hoàn tất Quy hoạch mới – Gỡ rối điều chỉnh quy hoạch dự án cũ; Thúc đẩy phát triển dự án mới; Thúc đẩy đầu tư hạ tầng lan tỏa tích cực tới ngành; Tiếp tục hưởng lợi từ xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng; Khách thuê tiếp tục mở rộng hoạt động tại Việt Nam giúp tỷ lệ hấp thụ và giá chào thuê tiếp tục tăng...
BVSC cho rằng, thị trường bất động sản khu công nghiệp vẫn tiếp tục là điểm sáng với tỷ lệ hấp thụ tốt và giá chào thuê tiếp tục ở mức cao.
Theo CBRE, đất khu công nghiệp tại thị trường cấp 1 miền Bắc giá chào thuê đạt 133 USD/m2/kỳ thuê, tăng 7,8% so với cùng kỳ. Với việc đầu tư FDI công nghệ cao thúc đẩy hoạt động tích cực; và không có dự án mới đi vào hoạt động trong quý; tỉ lệ lấp đầy tại miền Bắc đạt 83%.
Tại thị trường miền Nam duy trì tích cực trong nửa đầu 2024 nhờ vào xu hướng mở rộng của các nhà sản xuất. Theo CBRE, giá đất khu công nghiệp tại thị trường cấp 1 đạt 189 USD/m2/kỳ thuê, tăng 2,4% so với cùng kỳ. Quỹ đất khu công nghiệp còn lại ở miền Nam tương đối hạn chế, với tỷ lệ lấp đầy khoảng 92%.
“Với nhu cầu mở rộng sản xuất và xu hướng FDI dồi dào vẫn tiếp tục; cùng với nguồn cung hạn chế; chúng tôi dự báo giá chào thuê tại các khu công nghiệp sẽ duy trì ở mức cao và tiếp tục tăng trong thời gian tới”, BVSC nhận định.
Cũng theo BVSC, FDI vào Việt Nam vẫn duy trì xu hướng tích cực trong 4 tháng đầu năm khi vốn đăng ký mới và số dự án đầu tư tăng so với cùng kỳ. Cụ thể, 4 tháng đầu năm ghi nhận mức tăng 28,8% về số lượng dự án mới được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và tăng 73,2% về tổng vốn đăng ký đầu tư mới.
Việt Nam đang có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản và Úc, qua đó giúp tăng cường sức hấp dẫn đầu tư của Việt Nam. Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Vương quốc Anh (UKFTA)… cũng tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để Việt Nam có được lợi thế tương đối trong hoạt động thương mại và đầu tư.
“Các nhà sản xuất trong chuỗi cung ứng toàn cầu của những hãng lớn đang dần tập trung vào Việt Nam: Apple đã chuyển 11 nhà máy của các doanh nghiệp Đài Loan (Trung Quốc) trong chuỗi cung ứng của hãng này sang Việt Nam; nhiều hãng khác như Foxconn, Luxshare, Pegatron, Wistron cũng mở rộng cơ sở sản xuất sẵn có tại Việt Nam”, BVSC đánh giá.
Vốn đầu tư FDI vào Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2024.
Số liệu từ Cục Đầu tư Nước ngoài cũng cho thấy, trong 6 tháng đầu năm 2024, có tới 70,4% tổng vốn FDI tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo. Đồng thời, Việt Nam đang đứng trước cơ hội đón nhận làn sóng FDI lần thứ tư.
Làn sóng FDI lần này có thể tập trung vào lĩnh vực công nghệ cao như: điện tử, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo và năng lượng tái tạo. Sự phát triển của các lĩnh vực này tác động trực tiếp đến bất động sản công nghiệp nhờ việc gia tăng nhu cầu về nhà xưởng đáp ứng tốt yêu cầu cơ sở hạ tầng, dịch vụ.
Nhu cầu đa dạng hóa hóa chuỗi cung ứng của các nhà đầu tư trong bối cảnh việc đặt nhà máy ở Trung Quốc không còn là sự lựa chọn tối ưu về chi phí cũng giúp Việt Nam trở thành một điểm đến được nhiều nhà đầu tư cân nhắc. Mới đây tập đoàn Nvidia từ Hoa Kỳ cam kết đưa Việt Nam thành một trung tâm công nghệ mới với thỏa thuận trị giá 200 triệu USD; hay Hana Micron từ Hàn Quốc và Intel với những dự án có quy mô lên tới hàng tỷ USD.
Xét về khu vực phát triển, theo dữ liệu từ Cục Đầu tư Nước ngoài, Bắc Ninh vẫn là điểm đến được các nhà đầu tư ưa ái với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 2,58 tỷ chiếm 17% tổng của cả nước. Đứng thứ hai là Bà Rịa - Vũng Tàu với 1,54 tỷ USD, và Quảng Ninh xếp vị trí thứ 3 với 1,36 tỷ USD. Tiếp theo lần lượt là Hà Nội, Hải Phòng, TP HCM.
Kết quả kinh doanh tích cực
Hưởng lợi từ các yếu tố hỗ trợ của ngành, hầu hết các doanh nghiệp trong ngành bất động sản công nghiệp đều ghi nhận kết quả kinh doanh tích cực trong quý II, cũng như nửa đầu năm 2024.
Cụ thể, kết thúc quý II/2024, Công ty CP Đầu tư Sài Gòn VRG (HoSE: SIP) ghi nhận doanh thu đạt hơn 1.937 tỷ đồng, tăng 16,5% so với cùng kỳ. Lợi nhuận sau thuế đạt hơn 332,6 tỷ đồng, tăng 18,5% so với cùng kỳ năm trước.
Theo lãnh đạo doanh nghiệp, kết quả tăng trưởng trên là nhờ doanh thu từ cung cấp dịch vụ tiện ích khu công nghiệp và lãi bán các khoản đầu tư trong quý II tăng so với cùng kỳ.
Lũy kế nửa đầu năm 2024, SIP ghi nhận doanh thu đạt hơn 3.763 tỷ đồng, tăng 23,1% so với cùng kỳ năm trước. Lợi nhuận sau thuế đạt 590,5 tỷ đồng, tăng 28,3% so với cùng kỳ năm 2023. Với kết quả này, doanh nghiệp đã hoàn thành 74,5% với kế hoạch năm.
Một số chỉ tiêu tài chính của các công ty bất động sản khu công nghiệp.
Tương tự, Công ty CP Phát triển Đô thị và Khu công nghiệp Cao su Việt Nam (UpCOM: VRG) cũng ghi nhận doanh thu thuần quý II/2024 đạt gần 27 tỷ đồng, tăng gần gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái.
Nhờ được hoàn chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng khu công nghiệp hơn 28 tỷ đồng nên công ty có lợi nhuận gộp gần 54 tỷ đồng. Đây cũng là nguyên nhân khiến lãi sau thuế của VRG đạt hơn 38 tỷ đồng, tăng gấp 13 lần so với cùng kỳ năm ngoái.
Lũy kế 6 tháng đầu năm, doanh nghiệp mang về 31 tỷ đồng doanh thu thuần, tăng 63% so với nửa đầu năm ngoái. Lợi nhuận sau thuế đạt 36 tỷ đồng, tăng gấp 72 lần so với nửa đầu năm trước.
Cũng có mức tăng trưởng bằng lần là Công ty CP Long Hậu (HoSE: LHG) đạt 162 tỷ đồng doanh thu thuần trong quý II, tăng gấp gần 2,5 lần so với cùng kỳ năm trước. Lợi nhuận sau thuế đạt 67,8 tỷ đồng, tăng gấp 2,3 lần cùng kỳ năm 2023. Đây cũng là mức lãi cao nhất trong vòng 6 quý trở lại đây của doanh nghiệp này.
Xét về cơ cấu, doanh thu cho thuê đất khu công nghiệp chiếm tới hơn 50,8% tổng doanh thu quý II/2024 của LHG, trong khi cùng kỳ không ghi nhận khoản này. Theo sau là doanh thu cho thuê nhà xưởng, khu lưu trú, trung tâm thương mại với 45 tỷ đồng, chiếm 27,8% và doanh thu từ các hoạt động khác đạt 34,6 tỷ đồng, chiếm 21,4%.
Lũy kế 6 tháng đầu năm, doanh thu của LHG đạt 134 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế đạt 99 tỷ đồng, lần lượt tăng 45% và 31% so với cùng kỳ năm trước. Qua đó, hoàn thành 36% kế hoạch doanh thu và 76% kế hoạch lợi nhuận cả năm nay.
Mặc dù có doanh thu sụt giảm so với cùng kỳ, nhưng lợi nhuận của Tổng Công ty Đầu tư và Phát triển Công nghiệp (HoSE: BCM) cũng ghi nhận mức tăng trưởng bằng lần. Cụ thể, doanh thu quý II của BCM giảm 10% so với cùng kỳ, đạt 1.162 tỷ đồng, nhưng lợi nhuận sau thuế đạt 394 tỷ đồng, tăng gấp hơn 12 lần so với cùng kỳ năm 2023.
Lãnh đạo doanh nghiệp cho biết, lợi nhuận sau thuế trong kỳ tăng đột biến chủ yếu nhờ khoản lãi từ công ty liên doanh liên kết tăng tới 365 tỷ đồng so với cùng kỳ năm 2023.
Lũy kế 6 tháng đầu năm, doanh thu thuần của BCM đạt 1.973 tỷ đồng, tăng 5% so với cùng kỳ và lợi nhuận sau thuế cao gấp 10 lần, đạt 513 tỷ đồng. Qua đó, hoàn thành 26% kế hoạch doanh thu và 31% kế hoạch lợi nhuận cả năm nay.
Trong khi đó, Tổng Công ty IDICO CTCP (HNX: IDC) ghi nhận doanh thu thuần hợp nhất quý II/2024 đạt hơn 2.148 tỷ đồng, giảm 11% so với cùng kỳ năm trước; lợi nhuận gộp cũng giảm 9%, còn 810 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế đạt 584 tỷ đồng, giảm 12% so với cùng kỳ năm trước.
Ban lãnh đạo Tổng Công ty cho biết, lợi nhuận trong quý II/2024 suy giảm so với cùng kỳ năm trước chủ yếu do giảm doanh thu từ các hợp đồng cho thuê hạ tầng khu công nghiệp.
Lũy kế 6 tháng đầu năm, doanh thu của IDC đạt hơn 4.615 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế đạt 1.737 tỷ đồng, lần lượt tăng 30% và 67% so với cùng kỳ năm trước. Qua đó, hoàn thành 55% kế hoạch doanh thu và 69% kế hoạch lợi nhuận cả năm nay.
Đối với nhóm doanh nghiệp “họ Sonadezi” cũng góp mặt 3 cái tên với lợi nhuận tăng trưởng. Theo đó, Công ty CP Sonadezi Long Thành (HoSE: SZL) đạt lãi ròng tăng 57% so với cùng kỳ, lên gần 35 tỷ đồng; Công ty CP Sonadezi Châu Đức (HoSE: SZC) đạt hơn 102 tỷ đồng lãi ròng, tăng 7% so với cùng kỳ; Công ty CP Sonadezi Long Bình (HNX: SZB) đạt hơn 42 tỷ đồng lãi ròng, tăng 2% so với cùng kỳ; Trong khi, Công ty CP Sonadezi Giang Điền (UpCOM: SZG) ghi nhận lãi ròng “đi lùi” 57% so với cùng kỳ, còn 30 tỷ đồng.
Không được may mắn nhưng nhiều doanh nghiệp trong ngành khác, Công ty CP Phát triển Đô thị Công nghiệp số 2 (HoSE: D2D) là doanh nghiệp duy nhất trong ngành bất động sản khu công nghiệp ghi nhận kết quả kinh doanh thua lỗ trong quý II năm nay.
Cụ thể, mặc dù doanh thu thuần trong quý II/2024 của D2D tăng hơn 60% so với cùng kỳ, lên hơn 27 tỷ đồng, nhưng do doanh thu tài chính “bốc hơi” gần 98%, cùng với chi phí quản lý tăng mạnh gần 60% so với cùng kỳ, khiến lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp này ghi nhận lỗ hơn 6 tỷ đồng. Đây cũng là quý thua lỗ nặng nhất của D2D kể từ khi niêm yết cổ phiếu trên sàn HoSE vào tháng 8/2009.
Triển vọng vốn đầu tư FDI tăng trưởng ổn định trong các năm tới được dự báo sẽ tiếp tục hỗ trợ cho kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp bất động sản khu công nghiệp. Trong quý 2/2024, do sự đi lùi của một số ông lớn mà tổng lợi nhuận của các doanh nghiệp mảng này giảm 4% so cùng kỳ, tuy nhiên vẫn tăng 38% so với quý liền trước.
Bên cạnh biến động địa chính trị và hợp tác thương mại, bất động sản khu công nghiệp (BĐS KCN) tại Việt Nam vẫn đang hút dòng vốn FDI nhờ mức chi phí cạnh tranh so với nhiều nước trong khu vực, đến từ lực lượng lao động, giá thuê đất và chi phí điện.
Tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam trong nửa đầu năm 2024 đạt gần 15.2 tỷ USD, tăng hơn 13% so với cùng kỳ và FDI giải ngân hơn 10.8 tỷ USD, tăng hơn 8%. Trong đó, FDI vào BĐS gần 2 tỷ USD, gấp 4.7 lần cùng kỳ và chiếm gần 20% tổng vốn đăng ký.
Về tình hình kinh doanh, thống kê từ 27 doanh nghiệp BĐS KCN trên sàn chứng khoán (HOSE, HNX, UPCoM) đã công bố BCTC quý 2/2024, tổng doanh thu đạt 9,602 tỷ đồng, lãi ròng hơn 2,364 tỷ đồng, lần lượt giảm 12% và 4% so với cùng kỳ; tuy nhiên, so với quý liền trước (quý 1/2024), cả doanh thu và lãi ròng đều tăng 18% và 38%.
Biên lãi gộp của các doanh nghiệp mảng này tương đối cao, dao động từ 32-44% suốt 10 quý vừa qua (từ quý 1/2022), quý 2/2024 ghi nhận 40%.
Nguồn: VietstockFinance
Doanh nghiệp có doanh thu trên ngàn tỷ đồng
Quý 2/2024, chỉ có 4/27 doanh nghiệp đạt doanh thu trên ngàn tỷ đồng, cùng kỳ là 5 doanh nghiệp, do ông lớn Đô thị Kinh Bắc bị rớt lại phía sau khi chỉ mang về doanh thu gần 892 tỷ đồng, lãi ròng 237 tỷ đồng, lần lượt giảm 62% và 76%. Nửa đầu năm, KBC lãi hơn 151 tỷ đồng, giảm 92%, nguyên do hoạt động kinh doanh KCN giảm sút.
Tổng Công ty IDICO - CTCP tiếp tục đứng đầu về doanh thu quý 2 khi đạt hơn 2,148 tỷ đồng, giảm 11%; lãi ròng gần 433 tỷ đồng, giảm 19%. IDC giải thích rằng, lợi nhuận giảm do doanh thu các hợp đồng cho thuê hạ tầng KCN đáp ứng điều kiện doanh thu một lần giảm so với cùng kỳ. 6 tháng, doanh thu gần 4,616 tỷ đồng và lãi ròng gần 1,128 tỷ đồng, lần lượt tăng 30% và 65%. So với mục tiêu 2024, IDC thực hiện lần lượt 56% doanh thu và 69% lãi trước thuế.
Theo sau là CTCP Đầu tư Sài Gòn VRG S đạt doanh thu 1,937 tỷ đồng, tăng 16%; lãi ròng gần 298 tỷ đồng, tăng 26%. Kết quả nhờ doanh thu từ cung cấp dịch vụ tiện ích KCN và lãi bán các khoản đầu tư trong quý 2 tăng so với cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng, doanh thu hơn 3,763 tỷ đồng, tăng 23% và lãi ròng gần 544 tỷ đồng, tăng 29%. So với kế hoạch năm, SIP đi được 3/4 quãng đường doanh thu và lợi nhuận.
Doanh thu quý 2 của Tổng CTCP Phát triển Khu Công nghiệp (Sonadezi, UPCoM: SNZ) tăng 15% đạt gần 1,565 tỷ đồng, lãi ròng tăng gần 60% lên 325 tỷ đồng. Còn ông lớn Becamex IDC doanh thu gần 1,162 tỷ đồng, giảm 10%; trong khi lãi ròng gần 381 tỷ đồng, gấp 2.7 lần cùng kỳ. Qua đó, lãi sau thuế 6 tháng BCM đạt hơn 513 tỷ đồng, gấp 10.5 lần cùng kỳ. Tuy nhiên, với mục tiêu tham vọng lợi nhuận sau thuế 2024 ở mức 2,350 tỷ đồng, ông lớn KCN Bình Dương này mới thực hiện được 22% kế hoạch năm.
Nguồn: VietStockFinance
Gần 60% doanh nghiệp tăng trưởng lợi nhuận
Quý 2, có 16/27 doanh nghiệp lãi tăng trưởng (chiếm 59%), 10 doanh nghiệp giảm lãi và 1 doanh nghiệp lỗ chuyển lãi. Trong đó, 4 doanh nghiệp lãi tăng bằng lần.
CTCP Phát triển Đô thị và Khu công nghiệp Cao su Việt Nam (UPCoM: VRG) có mức tăng trưởng lợi nhuận quý 2 cao nhất, đạt hơn 38 tỷ đồng, gấp 11 lần cùng kỳ. Trong kỳ VRG ghi nhận 10% giá trị còn lại của hợp đồng năm 2023 theo phương pháp hạch toán doanh thu 1 lần và điều chỉnh giá vốn hạ tầng KCN đã hạch toán năm 2023 khiến lợi nhuận tăng.
Nhờ doanh thu tài chính, lãi ròng CTCP Phát triển Khu Công nghiệp Tín Nghĩa T gấp 5 lần cùng kỳ, đạt 68 tỷ đồng.
CTCP Long Hậu L lãi ròng gần 68 tỷ đồng, gấp 2.3 lần và là mức cao nhất từ quý 4/2022, nhờ phát sinh doanh thu từ cho thuê đất KCN đã phát triển cơ sở hạ tầng và xưởng xây sẵn theo yêu cầu (cùng kỳ không có khoản này).
Nguồn: VietstockFinance
Tuy không nằm trong nhóm có lãi tăng bằng lần, nhiều doanh nghiệp KCN khác cũng có mức tăng trưởng hai con số như CTCP Đầu tư và Công nghiệp Tân Tạo lãi ròng quý 2 gần 44 tỷ đồng, tăng 86%, nhờ khoản hoàn nhập dự phòng nợ phải thu khó đòi và giảm lãi vay ngân hàng.
Cùng với anh cả SNZ, họ Sonadezi còn góp mặt 3 cái tên khác tăng trưởng là Sonadezi Long Thành S lãi ròng gần 35 tỷ đồng, tăng 57%; Sonadezi Châu Đức hơn 102 tỷ đồng, tăng 7% và Sonadezi Long Bình S hơn 42 tỷ đồng, tăng 2%.
Duy nhất 1 doanh nghiệp lỗ
Trong khi hầu hết nhóm Sonadezi đều có lãi, công ty con của ông lớn KCN Đồng Nai SNZ là CTCP Phát triển Đô thị Công nghiệp số 2 (HOSE: D2D) lại có quý thua lỗ nhiều nhất từ khi niêm yết HOSE (tháng 8/2009), lỗ hơn 6 tỷ đồng, cùng kỳ lãi 1 tỷ đồng và là doanh nghiệp duy nhất mảng KCN lỗ trong quý 2/2024. Nguyên nhân chính từ việc hụt doanh thu tài chính gần 90%, trong khi chi phí quản lý lên 60%. Sau 6 tháng, D2D lỗ hơn 5 tỷ đồng, cùng kỳ lãi 7 tỷ đồng.
Trái ngược với 4 mã họ Sonadezi đều tăng trưởng, lãi ròng Sonadezi Giang Điền S giảm 57%, còn 30 tỷ đồng. Lũy kế 6 tháng, doanh thu hơn 193 tỷ đồng, lãi ròng gần 67 tỷ đồng, lần lượt giảm 23% và 36%.
VRG có mức tăng trưởng lợi nhuận 6 tháng cao nhất nhóm khu công nghiệp, gần 34 tỷ đồng, gấp 24 lần cùng kỳ. VRG cho biết, do hạch toán thiếu phần chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Tuy nhiên, so với kế hoạch lãi sau thuế gần 83 tỷ đồng, VRG mới thực hiện được 41%.
TIP cũng có lãi ròng 6 tháng ấn tượng gần 95 tỷ đồng, gấp 3.7 lần cùng kỳ. So với kế hoạch lãi sau thuế 2024 hơn 165 tỷ đồng, TIP thực hiện được 58%.
Lãi ròng 6 tháng của CTCP Đầu tư Phát triển Công nghiệp Thương mại Củ Chi C đạt hơn 26 tỷ đồng, gấp 2.5 lần cùng kỳ, là mức cao kỷ lục (lợi nhuận 6 tháng) từ khi niêm yết vào năm 2010, do hoàn nhập dự phòng khoản đầu tư chứng khoán dẫn đến chi phí tài chính giảm. So với kế hoạch 2024 lãi sau thuế 26.5 tỷ đồng, CCI đi được tới 98%.
Nguồn: VietstockFinance
Thanh Tú
FILI
White Label
Data API
Web Plug-in
Pembuat Poster
Program Afiliate
Risiko kerugian dalam perdagangan instrumen kewangan seperti saham, FX, komoditi, niaga hadapan, bon, ETF dan kripto boleh menjadi besar. Anda mungkin mengalami kerugian keseluruhan dana yang anda depositkan dengan broker anda. Oleh itu, anda harus mempertimbangkan dengan teliti sama ada perdagangan sedemikian sesuai untuk anda berdasarkan keadaan dan sumber kewangan anda.
Tiada keputusan untuk melabur harus dibuat tanpa menjalankan usaha wajar secara menyeluruh sendiri atau berunding dengan penasihat kewangan anda. Kandungan web kami mungkin tidak sesuai dengan anda kerana kami tidak mengetahui keadaan kewangan dan keperluan pelaburan anda. Maklumat kewangan kami mungkin mempunyai kependaman atau mengandungi ketidaktepatan, jadi anda harus bertanggungjawab sepenuhnya untuk sebarang keputusan perdagangan dan pelaburan anda. Syarikat tidak akan bertanggungjawab ke atas kehilangan modal anda.
Tanpa mendapat kebenaran daripada tapak web, anda tidak dibenarkan menyalin grafik, teks atau tanda dagangan tapak web. Hak harta intelek dalam kandungan atau data yang dimasukkan ke dalam laman web ini adalah milik pembekal dan pedagang pertukarannya.