行情
新聞
分析
使用者
快訊
財經日曆
學習
數據
- 名稱
- 最新值
- 前值
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
公:--
預: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
無匹配數據
最新觀點
最新觀點
最近更新
港股投資的風險預警
儘管香港法律體系和監管框架相對健全,但港股市場仍存在一些特定的風險和挑戰,如港幣與美元掛鉤,外地投資者可能會面臨匯率波動;中國內地的政策變化和經濟狀況對港股的影響等 。
投資港股費用架構與稅務
港股市場的交易成本包括總投資成本為買賣股票的交易費用、印花稅、結算費用等,對於外地投資者,可能會涉及兌換港幣所產生匯率轉換費用,以及依照所在地的相關法規需繳納的稅款。
港股產業分析:非必需消費產業
港股市場非必需消費產業涵蓋汽車、教育、旅遊、餐飲、服飾等多個領域,在643家上市公司中35%為中國內地公司,佔總市值的65%,因此受中國經濟影響深遠。
港股產業分析:地產建築業
地產建築業在港股指數中的份額近年來已明顯下降,但截至2022年,它依然在市場上佔有約10%的份額。 包含了房地產開發、建築工程、房地產投資和物業管理等各個方面。
中國·香港
越南·胡志明
杜拜
奈及利亞·拉各斯
埃及·開羅
查看所有搜尋結果
暫無數據
CPI cuối năm có thể giảm nhẹ do sự sụt giảm của giá xăng dầu
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong tháng 10 tăng 0,3% so với tháng trước và tăng 2,89% so với cùng kỳ.
Mức tăng của lạm phát được thúc đẩy chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm tăng cao tại các địa phương bị ảnh hưởng trực tiếp bởi bão. Tuy vậy, áp lực lạm phát phần nào được giảm bớt nhờ giá xăng dầu trong nước giảm trên mức nền cao của năm 2023.
Trung bình trong 10 tháng đầu năm 2024, CPI tăng 3,8% so với cùng kỳ, trong khi lạm phát cơ bản tăng 2,7%. Nhìn chung, lạm phát đang bắt đầu cho thấy những dấu hiệu tích cực, và CPI bình quân vẫn được kiểm soát dưới mức mục tiêu của Chính phủ là 4,5%.
Trong tháng 10, nhóm thực phẩm và dịch vụ ăn uống đóng góp lớn nhất vào sự tăng trưởng của chỉ số CPI, chủ yếu do nhóm lương thực tăng mạnh với mức tăng 8,23% so với cùng kỳ. Ngoài ra, đà tăng của nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng, nhóm thuốc và dịch vụ y tế cũng góp phần vào đà tăng của CPI.
Ở chiều ngược lại, việc giá dầu giảm mạnh trên mức nền cao của năm 2023 khi xung đột địa chính trị tại Trung Đông leo thang, đã khiến chỉ số nhóm giao thông tháng này giảm 3,3% so với cùng kỳ.
Công ty Chứng khoán MB (MBS) dự báo CPI đến cuối năm có thể giảm nhẹ nhờ sự sụt giảm của giá xăng dầu, qua đó kéo CPI bình quân năm 2024 về mức 3,9%, dưới mức mục tiêu của Chính phủ là 4,5%. Mặc dù OPEC+ đã quyết định duy trì cắt giảm sản lượng đến hết tháng 12, đà giảm của giá dầu được dự báo sẽ tiếp tục được duy trì, do nhu cầu tiêu thụ đang hồi phục khá chậm, đặc biệt ở thị trường Trung Quốc.
Tuy vậy, rủi ro tăng giá dầu vẫn còn nếu căng thẳng địa chính trị ở Trung Đông lan rộng hơn nữa. Theo đó, MBS cho rằng giá dầu trong năm 2024 sẽ dao động với biên độ hẹp quanh mức 80 USD/thùng, cao hơn so với giá dầu trung bình nửa cuối năm 2023.
Tuy vậy, áp lực lạm phát vẫn hiện hữu khi giá thép và vật liệu xây dựng nội địa dự kiến sẽ phục hồi lên mức 14 triệu đồng/tấn, tăng 4% so với cùng kỳ trong năm 2024, nhờ đà tăng của giá thép thế giới và nhu cầu ấm lên ở thị trường Việt Nam. Bên cạnh đó, việc xung đột địa chính trị lan rộng có thể gây đứt gãy chuỗi cung ứng và đẩy giá cả hàng hóa tăng cao, theo đó, sẽ gia tăng áp lực lên lạm phát.
Ở góc nhìn khác, Công ty Chứng khoán Vietcombank (VCBS) cho rằng lạm phát hoàn toàn nằm trong mục tiêu Chính phủ đề ra, là cơ sở và dự địa để Ngân hàng Nhà nước tiếp tục sử dụng hài hòa các công cụ trong thời gian tới.
“Trong bối cảnh lạm phát trong khả năng kiểm soát, xu hướng tăng của tỉ giá chững lại, chúng tôi cho rằng áp lực tăng lên mặt bằng lãi suất giảm bớt. Hiện nay, chúng tôi nghiêng về kịch bản lãi suất có thể ổn định, và đi ngang trong thời gian tới”, VCBS nhận định.
Có thể bạn quan tâm
Lạm phát ở Pennsylvania có thể quyết định kết quả bầu cử tổng thống Mỹ 2024 - Nhịp sống kinh tế Việt Nam & Thế giới
Quan điểm của cử tri về lạm phát đặc biệt quan trọng ở Pennsylvania - một tiểu bang mà giới chuyên gia cho là có khả năng phân định thắng thua giữa ông Trump và bà Harris...
Trong cuộc đua vào Nhà Trắng đang diễn ra gay cấn giữa hai ứng cử viên là ông Donald Trump của Đảng Cộng hòa và bà Kamala Harris của Đảng Dân chủ, các vấn đề kinh tế - nhất là lạm phát - thu hút sự quan tâm đặc biệt của cử tri. Quan trọng hơn nữa, cảm nhận của cử tri về lạm phát tại các bang chiến trường còn có thể quyết định kết quả cuối cùng của cuộc bầu cử.
Theo nhà kinh tế trưởng Bernard Yaros của công ty nghiên cứu Oxford Economics, quan điểm của cử tri về lạm phát đặc biệt quan trọng ở Pennsylvania - một tiểu bang mà giới chuyên gia cho là có khả năng phân định thắng thua giữa ông Trump và bà Harris. Người Pennslvania đã trở nên nhạy cảm với lạm phát hơn người dân ở nhiều bang khác: nghiên cứu của ông Yaros phát hiện thấy cứ 1 điểm phần trăm tăng thêm trong tỷ lệ lạm phát trước một cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, lại có hàng chục nghìn cử tri Pennsylvania bỏ phiếu chống lại ứng cử viên của đảng cầm quyền và thay vào đó, lựa chọn ứng cử viên của đảng kia.
MÔ HÌNH CÚ SỐC TEM GIÁ
Điều này có thể xuất phát từ việc thu nhập trung vị hàng năm của hộ gia đình ở Pennsylvania thấp hơn so với ở nhiều bang khác, chỉ đạt khoảng 73.000 USD. Con số toàn quốc là 75.000 USD. Bang này cũng có dân số già hơn, với tuổi bình quân của người dân toàn bang là 41 tuổi, so với mức 39 tuổi của toàn quốc - theo dữ liệu của Cục Thống kê dân số Mỹ.
“Những người có thu nhập thấp hơn phải dành một tỷ trọng lớn hơn trong thu nhập của họ để chi cho các hàng hóa và dịch vụ thiết yếu. Bởi vậy, họ sẽ có phản ứng tiêu cực hơn” với các cú sốc lạm phát - ông Yaros nhận định. Pennsylvania “cũng có dân số già hơn nên những người sống bằng thu nhập cố định thường có cảm nhận rõ ràng hơn về những tác động bất lợi của lạm phát cao”.
Theo thăm dò dư luận của CBS, việc cử tri Pennsylvania chọn ông Trump hay bà Harris đến thời điểm này vẫn còn là một điều rất khó đoán. Bởi vậy, con đường đi tới chiến thắng ở bang này sẽ tùy thuộc vào việc cử tri của bang cảm nhận lạm phát như thế nào.
Giá cả nói chung ở Mỹ đã tăng 22% trong thời gian từ tháng 1/2020 đến tháng 9 năm nay, khiến người tiêu dùng phải chi nhiều tiền hơn cho tất cả mọi thứ, từ thực phẩm tới bảo hiểm xe cộ. Nhưng tốc độ lạm phát ở nước này hàng năm ở nước này hiện đã giảm còn 2,4%, tiến gần tới mục tiêu 2% của Fed.
Với những xu hướng lạm phát như vậy, câu hỏi mấu chốt có thể làm dịch chuyển cán cân bầu cử ở Pennsylvania cũng như ở các bang chiến trường khác là liệu cử tri sẽ tập trung vào sự tăng giá tích lũy kể từ năm 2020 - một con số cho thấy hậu quả tồi tệ của những năm lạm phát cao, hay thay vào đó ăn mừng việc lạm phát đã giảm mạnh trong một năm qua, theo ông Yaros.
Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Mỹ qua các năm - Nguồn: Bộ Lao động Mỹ/CBS.
Nếu cử tri chú ý tới việc giá cả nhiều hàng hóa và dịch vụ còn cao hơn nhiều so với trước đại dịch - điều mà ông Yaros gọi là “mô hình cú sốc tem giá” - ông Trump được dự báo sẽ thắng ở Pennsylvania với chênh lệch hơn 90.000 phiếu. Cũng theo phân tích của ông Yaros, nếu cử tri quan tâm hơn tới sự xuống thang gần đây của lạm phát, bà Harris được dự báo sẽ thắng với chênh lệch 70.000 phiếu.
Từ năm 2020, một số bang chiến trường đã chứng kiến tỷ lệ lạm phát cao hơn so với các bang khác, nhất là những bang ở các bang vùng Vành đai Mặt trời (Sun Belt) như Arizona. Lạm phát ở hững bang đó hiện đang có xu hướng giảm nhanh, nhưng giá cả ở các bang vùng Trung Đại Tây Dương (Middle Atlantic), bao gồm các bang như Pennsylvania, New Jersey và New York - vẫn tăng 3,4% trong tháng 10 - cao hơn tròn 1 điểm phần trăm so với tỷ lệ lạm phát toàn quốc, theo số liệu thống kê chính thức.
Mô hình của ông Yaros cho thấy cử tri ở các bang chiến trường khác như Arizona, Georgia và Wisconsin - những bang mà ông Biden đã giành chiến thắng vào năm 2020 - cũng có thể ủng hộ ông Trump trong cuộc bầu cử năm nay nếu cử tri ở đó nhìn nhận lạm phát thông qua “mô hình cú sốc tem giá”. Thông thường, người Mỹ lo về lạm phát cao nhiều hơn là các cú sốc kinh tế khác như tỷ lệ thất nghiệp tăng - theo ông Yaros.
“Thất nghiệp chỉ ảnh hưởng đến một bộ phận trong nền kinh tế, nhưng lạm phát cao ảnh hưởng đến tất cả mọi người”, ông nói. Tuy nhiên, ông thừa nhận rằng rất khó để đoán xem cử tri ở các bang chiến trường như Pennsylvania sẽ nhìn nhận lạm phát ở góc độ nào.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), một thước đo lạm phát quan trọng, cho thấy tốc độ tăng giá hàng hóa và dịch vụ đã chậm lại. Nhưng nhiều người Mỹ có khuynh hướng gắn lạm phát với mức giá thực tế mà họ phải trả khi đi mua hàng, thay vì con số CPI là bao nhiêu.
MÔ HÌNH CHỈ SỐ KHỔ SỞ
Nói cách khác, dù tốc độ lạm phát giảm nhưng giá hàng hóa còn cao sau mấy năm lạm phát cao có thể khiến người Mỹ tiếp tục cảm nhận rõ áp lực của lạm phát đối với túi tiền của họ. Chưa kể, giá cả sẽ còn cao trừ phi xảy ra một thời kỳ giảm phát, mà giảm phát thường chỉ xuất hiện khi kinh tế suy thoái hoặc sụt tốc mạnh. Đó là lý do vì sao cứ 4 người ở Mỹ được tổ chức YouGov khảo sát vào tháng 8 lại có 1 người tin rằng tốc độ lạm phát đang là hơn 10%, cao gấp hơn 4 lần so với mức lạm phát thực tế.
“Người dân không phải là các chuyên gia kinh tế. Khi họ nghĩ về lạm phát, họ nghĩ về mức giá. Chẳng hạn, 1 gallon sữa bây giờ có giá 3 USD thay vì 2 USD như trước đây, và họ nghĩ đó là lạm phát”, ông nói.
Theo nhà kinh tế học này, những cử tri quan tâm nhiều hơn đến sự xuống thang của tốc độ lạm phát có thể sẽ nghiêng về ủng hộ bà Harris. Đây là mô hình mà ông Yaros gọi là “mô hình chỉ số khốn khổ”. Đó là một chỉ số không chính thức, được tính bằng tổng giữa tỷ lệ thất nghiệp toàn quốc và tỷ lệ thất nghiệp hàng năm ở Mỹ. Hiện tại chỉ số khốn khổ đang ở mức 6,5%, thấp hơn nhiều mức bình quân 9,1% từ năm 1947 đến nay.
Chỉ số khốn khổ của Mỹ qua các năm - Nguồn: CBS.
Lịch sử cho thấy chỉ số khổ sở ở Mỹ đã dự báo chính xác về kết quả các cuộc bầu cử tổng thống của nước này: khi chỉ số càng cao thì khả năng thất cử của ứng cử viên đảng cầm quyền càng lớn. Chẳng hạn, chỉ số khổ sở lên tới 15% vào năm 2020, cho thấy bất lợi của ông Trump trong cuộc đua vào Nhà Trắng năm đó.
Tuy nhiên, có nhiều vấn đề khác có thể ảnh hưởng tới quyết định của cử tri trong cuộc bầu cử năm nay, từ nhập cư tớ quyền nạo phá thai. Và dù bi quan về triển vọng nền kinh tế Mỹ, người Mỹ vẫn tiếp tục chi tiêu.
“Chúng ta đang chứng kiến một sự gián đoạn kết nối giữa các chỉ số đo lường tâm lý người tiêu dùng và chi tiêu thực tế của người tiêu dùng. Bởi vậy, mọi người có thể nói một đằng nhưng làm một nẻo. Tôi không cho là ai có để đoán chắc kết quả bầu cử như thế nào”, ông Yaros nhận xét.
Lạm phát ở Pennsylvania có thể quyết định kết quả bầu cử tổng thống Mỹ 2024
Quan điểm của cử tri về lạm phát đặc biệt quan trọng ở Pennsylvania - một tiểu bang mà giới chuyên gia cho là có khả năng phân định thắng thua giữa ông Trump và bà Harris...
Trong cuộc đua vào Nhà Trắng đang diễn ra gay cấn giữa hai ứng cử viên là ông Donald Trump của Đảng Cộng hòa và bà Kamala Harris của Đảng Dân chủ, các vấn đề kinh tế - nhất là lạm phát - thu hút sự quan tâm đặc biệt của cử tri. Quan trọng hơn nữa, cảm nhận của cử tri về lạm phát tại các bang chiến trường còn có thể quyết định kết quả cuối cùng của cuộc bầu cử.
Theo nhà kinh tế trưởng Bernard Yaros của công ty nghiên cứu Oxford Economics, quan điểm của cử tri về lạm phát đặc biệt quan trọng ở Pennsylvania - một tiểu bang mà giới chuyên gia cho là có khả năng phân định thắng thua giữa ông Trump và bà Harris. Người Pennslvania đã trở nên nhạy cảm với lạm phát hơn người dân ở nhiều bang khác: nghiên cứu của ông Yaros phát hiện thấy cứ 1 điểm phần trăm tăng thêm trong tỷ lệ lạm phát trước một cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, lại có hàng chục nghìn cử tri Pennsylvania bỏ phiếu chống lại ứng cử viên của đảng cầm quyền và thay vào đó, lựa chọn ứng cử viên của đảng kia.
MÔ HÌNH CÚ SỐC TEM GIÁ
Điều này có thể xuất phát từ việc thu nhập trung vị hàng năm của hộ gia đình ở Pennsylvania thấp hơn so với ở nhiều bang khác, chỉ đạt khoảng 73.000 USD. Con số toàn quốc là 75.000 USD. Bang này cũng có dân số già hơn, với tuổi bình quân của người dân toàn bang là 41 tuổi, so với mức 39 tuổi của toàn quốc - theo dữ liệu của Cục Thống kê dân số Mỹ.
“Những người có thu nhập thấp hơn phải dành một tỷ trọng lớn hơn trong thu nhập của họ để chi cho các hàng hóa và dịch vụ thiết yếu. Bởi vậy, họ sẽ có phản ứng tiêu cực hơn” với các cú sốc lạm phát - ông Yaros nhận định. Pennsylvania “cũng có dân số già hơn nên những người sống bằng thu nhập cố định thường có cảm nhận rõ ràng hơn về những tác động bất lợi của lạm phát cao”.
Theo thăm dò dư luận của CBS, việc cử tri Pennsylvania chọn ông Trump hay bà Harris đến thời điểm này vẫn còn là một điều rất khó đoán. Bởi vậy, con đường đi tới chiến thắng ở bang này sẽ tùy thuộc vào việc cử tri của bang cảm nhận lạm phát như thế nào.
Giá cả nói chung ở Mỹ đã tăng 22% trong thời gian từ tháng 1/2020 đến tháng 9 năm nay, khiến người tiêu dùng phải chi nhiều tiền hơn cho tất cả mọi thứ, từ thực phẩm tới bảo hiểm xe cộ. Nhưng tốc độ lạm phát ở nước này hàng năm ở nước này hiện đã giảm còn 2,4%, tiến gần tới mục tiêu 2% của Fed.
Với những xu hướng lạm phát như vậy, câu hỏi mấu chốt có thể làm dịch chuyển cán cân bầu cử ở Pennsylvania cũng như ở các bang chiến trường khác là liệu cử tri sẽ tập trung vào sự tăng giá tích lũy kể từ năm 2020 - một con số cho thấy hậu quả tồi tệ của những năm lạm phát cao, hay thay vào đó ăn mừng việc lạm phát đã giảm mạnh trong một năm qua, theo ông Yaros.
Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Mỹ qua các năm - Nguồn: Bộ Lao động Mỹ/CBS.
Nếu cử tri chú ý tới việc giá cả nhiều hàng hóa và dịch vụ còn cao hơn nhiều so với trước đại dịch - điều mà ông Yaros gọi là “mô hình cú sốc tem giá” - ông Trump được dự báo sẽ thắng ở Pennsylvania với chênh lệch hơn 90.000 phiếu. Cũng theo phân tích của ông Yaros, nếu cử tri quan tâm hơn tới sự xuống thang gần đây của lạm phát, bà Harris được dự báo sẽ thắng với chênh lệch 70.000 phiếu.
Từ năm 2020, một số bang chiến trường đã chứng kiến tỷ lệ lạm phát cao hơn so với các bang khác, nhất là những bang ở các bang vùng Vành đai Mặt trời (Sun Belt) như Arizona. Lạm phát ở hững bang đó hiện đang có xu hướng giảm nhanh, nhưng giá cả ở các bang vùng Trung Đại Tây Dương (Middle Atlantic), bao gồm các bang như Pennsylvania, New Jersey và New York - vẫn tăng 3,4% trong tháng 10 - cao hơn tròn 1 điểm phần trăm so với tỷ lệ lạm phát toàn quốc, theo số liệu thống kê chính thức.
Mô hình của ông Yaros cho thấy cử tri ở các bang chiến trường khác như Arizona, Georgia và Wisconsin - những bang mà ông Biden đã giành chiến thắng vào năm 2020 - cũng có thể ủng hộ ông Trump trong cuộc bầu cử năm nay nếu cử tri ở đó nhìn nhận lạm phát thông qua “mô hình cú sốc tem giá”. Thông thường, người Mỹ lo về lạm phát cao nhiều hơn là các cú sốc kinh tế khác như tỷ lệ thất nghiệp tăng - theo ông Yaros.
“Thất nghiệp chỉ ảnh hưởng đến một bộ phận trong nền kinh tế, nhưng lạm phát cao ảnh hưởng đến tất cả mọi người”, ông nói. Tuy nhiên, ông thừa nhận rằng rất khó để đoán xem cử tri ở các bang chiến trường như Pennsylvania sẽ nhìn nhận lạm phát ở góc độ nào.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), một thước đo lạm phát quan trọng, cho thấy tốc độ tăng giá hàng hóa và dịch vụ đã chậm lại. Nhưng nhiều người Mỹ có khuynh hướng gắn lạm phát với mức giá thực tế mà họ phải trả khi đi mua hàng, thay vì con số CPI là bao nhiêu.
MÔ HÌNH CHỈ SỐ KHỔ SỞ
Nói cách khác, dù tốc độ lạm phát giảm nhưng giá hàng hóa còn cao sau mấy năm lạm phát cao có thể khiến người Mỹ tiếp tục cảm nhận rõ áp lực của lạm phát đối với túi tiền của họ. Chưa kể, giá cả sẽ còn cao trừ phi xảy ra một thời kỳ giảm phát, mà giảm phát thường chỉ xuất hiện khi kinh tế suy thoái hoặc sụt tốc mạnh. Đó là lý do vì sao cứ 4 người ở Mỹ được tổ chức YouGov khảo sát vào tháng 8 lại có 1 người tin rằng tốc độ lạm phát đang là hơn 10%, cao gấp hơn 4 lần so với mức lạm phát thực tế.
“Người dân không phải là các chuyên gia kinh tế. Khi họ nghĩ về lạm phát, họ nghĩ về mức giá. Chẳng hạn, 1 gallon sữa bây giờ có giá 3 USD thay vì 2 USD như trước đây, và họ nghĩ đó là lạm phát”, ông nói.
Theo nhà kinh tế học này, những cử tri quan tâm nhiều hơn đến sự xuống thang của tốc độ lạm phát có thể sẽ nghiêng về ủng hộ bà Harris. Đây là mô hình mà ông Yaros gọi là “mô hình chỉ số khốn khổ”. Đó là một chỉ số không chính thức, được tính bằng tổng giữa tỷ lệ thất nghiệp toàn quốc và tỷ lệ thất nghiệp hàng năm ở Mỹ. Hiện tại chỉ số khốn khổ đang ở mức 6,5%, thấp hơn nhiều mức bình quân 9,1% từ năm 1947 đến nay.
Chỉ số khốn khổ của Mỹ qua các năm - Nguồn: CBS.
Lịch sử cho thấy chỉ số khổ sở ở Mỹ đã dự báo chính xác về kết quả các cuộc bầu cử tổng thống của nước này: khi chỉ số càng cao thì khả năng thất cử của ứng cử viên đảng cầm quyền càng lớn. Chẳng hạn, chỉ số khổ sở lên tới 15% vào năm 2020, cho thấy bất lợi của ông Trump trong cuộc đua vào Nhà Trắng năm đó.
Tuy nhiên, có nhiều vấn đề khác có thể ảnh hưởng tới quyết định của cử tri trong cuộc bầu cử năm nay, từ nhập cư tớ quyền nạo phá thai. Và dù bi quan về triển vọng nền kinh tế Mỹ, người Mỹ vẫn tiếp tục chi tiêu.
“Chúng ta đang chứng kiến một sự gián đoạn kết nối giữa các chỉ số đo lường tâm lý người tiêu dùng và chi tiêu thực tế của người tiêu dùng. Bởi vậy, mọi người có thể nói một đằng nhưng làm một nẻo. Tôi không cho là ai có để đoán chắc kết quả bầu cử như thế nào”, ông Yaros nhận xét.
Cẩn trọng rủi ro lạm phát cuối năm
Kinhtedothi- Diễn biến khó lường của tình hình thế giới cộng hưởng với những vấn đề nội tại của nền kinh tế sẽ tác động tới lạm phát.
Quy luật cuối năm giá cả tăng cao
Trong tháng 9, giá lương thực, thực phẩm tăng cao, giá thuê nhà ở tăng là những nguyên nhân chính làm cho CPI tháng 9/2024 tăng 0,29% so với tháng trước. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính, có 9 nhóm hàng tăng giá, 2 nhóm hàng giảm giá so với tháng trước.
Lạm phát thường tăng vào cuối năm. Ảnh minh hoạ
Theo Vụ trưởng Vụ Thống kê giá, giá nguyên vật liệu đầu vào thế giới đang ở mức cao trong khi tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới diễn biến theo chiều hướng ngày càng phức tạp, khó lường. Việt Nam là nước nhập khẩu nhiều nguyên liệu phục vụ sản xuất nên biến động của giá hàng hóa trên thế giới sẽ ảnh hưởng đến chi phí, giá thành, tạo áp lực cho sản xuất của DN và từ đó đẩy giá hàng hóa tiêu dùng trong nước tăng lên. Bên cạnh đó, đồng USD có mức giá cao làm tăng chi phí nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu, gây sức ép lên mặt bằng giá hàng hóa trong nước. Dự báo nhu cầu sử dụng điện cho sản xuất và tiêu dùng tăng mạnh trong thời gian tới cũng gây áp lực lên lạm phát. Thực hiện điều chỉnh giá dịch vụ do nhà nước quản lý theo hướng tính đúng, tính đủ các yếu tố, các chi phí cần được cân nhắc thận trọng, phù hợp về mức độ cũng như thời điểm tăng giá.
"Các gói kích cầu, hạ mặt bằng lãi suất cho vay, mở rộng tín dụng, đẩy mạnh đầu tư công giúp tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế nhưng cũng có thể tạo sức ép lên mặt bằng giá nếu nguồn cung tiền không được kiểm soát hợp lý" - bà Oanh cho biết thêm.
Điều hành giá các loại dịch vụ phù hợp, linh hoạt chính sách tiền tệ
Năm 2024, theo nghị quyết của Quốc hội, mục tiêu kiểm soát được đặt ra ở mức 4-4,5%. Tuy nhiên, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã chỉ đạo, mục tiêu tăng trưởng phải đạt ở ngưỡng trên (6-6,5%), còn lạm phát thì quyết tâm đạt ở ngưỡng thấp (4-4,5%).
CPI bình quân quý III/2024 tăng 3,48% so với quý III/2023. Tính chung 9 tháng năm nay, CPI tăng 3,88% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 2,69%. Theo Tổng cục Thống kê, lạm phát 9 tháng đầu năm ở mức 3,88%, dư địa để đạt được mức lạm phát cả năm nay theo mục tiêu Quốc hội đề ra vẫn còn. Tuy nhiên, nếu chỉ số tiêu dùng những tháng cuối năm liên tục tăng cao sẽ tạo ra lạm phát kỳ vọng lớn và tạo áp lực điều hành lạm phát cho năm 2025.
Xu hướng cuối năm thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, theo đó sẽ tác động đến lạm phát ở những khía cạnh như tiêu dùng, chi tiêu, đầu tư,... Tỷ giá VND/USD tăng từ đầu tháng 10 và có thể sẽ duy trì ở mức cao trong thời gian dài hơn.
Chính sách hiện tại của NHNN vẫn đang cố gắng duy trì nền lãi suất thấp để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, từ đó, tỷ giá USD/VND có thể sẽ vẫn neo cao. Bộ đôi lãi suất thấp và tỷ giá USDVND cao đều có thể dẫn tới nguy cơ gia tăng lạm phát"- khối phân tích ACBS nhận định.
Trong khi nhập khẩu tăng cao được xem là cơ sở sẵn sàng cho xuất khẩu trong quý tới đây, khi các thị trường lớn hồi phục nhu cầu và DN đã cạn hàng tồn kho, nhiều chuyên gia cũng có quan điểm khác nhau về khả năng nhập khẩu có chuyển thành nhập siêu kéo dài hơn trong thời gian tới, hay mang tính mùa vụ ngắn hạn, qua đó có tác động nhất định ngắn - dài đến tỷ giá. Điều này sẽ là ẩn số đối với tỷ giá và trong tính toán cán cân thanh toán tổng thể.
Cùng với đó, khi lãi suất khó có kỳ vọng tăng nhằm đảo bảo tiếp tục hỗ trợ phục hồi sản xuất, tăng trưởng kinh tế, rủi ro của lạm phát sẽ càng có áp lực cao hơn trong thời gian tới do giá lương thực, xăng dầu, điện và tiền lương tăng. Việc kiểm soát giá các mặt hàng trực tiếp trong rổ tính CPI hay có tác động đến nhiều nhóm hàng tính CPI có thể cũng sẽ là vấn đề trong thời gian tới.
Đó là lý do, Bộ KH&ĐT, trong các báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội kể từ cuối năm 2023, đều cảnh báo về áp lực điều hành giá cả thị trường, lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Nhiều chuyên gia kinh tế cả trong và ngoài nước cũng nhấn mạnh điều này. “Áp lực lạm phát còn lớn, trong khi lạm phát thường tăng vào cuối năm và có những yếu tố tác động rất khó dự báo, đặc biệt là biến động giá cả thế giới, tâm lý, kỳ vọng của người dân, DN…”- đại diện Bộ KH&ĐT nhấn mạnh
Chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long dự báo CPI năm nay tăng 4,2% - 4,5% với với năm ngoái. Nếu việc điều chỉnh giá được thực hiện nửa cuối năm với mức điều chỉnh không quá lớn, ông Long tin rằng mục tiêu kiểm soát lạm phát khoảng 4,5% như Quốc hội đề ra là khả thi. Ông Long nhấn mạnh Chính phủ thận trọng và chủ động trong điều hành giá cả thị trường và kiểm soát lạm phát, nhằm tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, tạo dư địa để đẩy mạnh thực hiện các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng.
Một số yếu tố như việc điều chỉnh giá dịch vụ, giá điện cũng có thể làm tăng chỉ số giá tiêu dùng CPI. Cuối năm cũng là thời điểm lễ tết do đó nếu hàng hóa không được chuẩn bị tốt có thể gây sức ép lên giá cả. Việc kiểm soát nguồn cung tiền một cách hợp lý từ các gói hỗ trợ, mở rộng tín dụng và đẩy mạnh đầu tư cũng cần được quan tâm để tránh gây áp lực lên việc kiểm soát lạm phát từ nay đến cuối năm. (Vụ trưởng Vụ Thống kê Giá - Tổng cục Thống kê Nguyễn Thu Oanh)
Mặt bằng lãi suất huy động dự báo sẽ ổn định ở vùng thấp
Diễn biến vĩ mô thuận lợi hơn là yếu tố quan trọng để hỗ trợ cho xu hướng hồi phục chung của thị trường chứng khoán.
Trong tháng 9, tỷ giá giảm mạnh sau động thái hạ lãi suất của Fed với mức 50 điểm cơ bản trong phiên họp chính sách vừa qua. Cụ thể, sau phiên họp tháng 9, chỉ số DXY đã giảm mạnh xuống gần ngưỡng 100, điều này cùng với sự cân bằng của cung cầu ngoại tệ đã giúp tỷ giá nhanh chóng hạ nhiệt từ mức nến cao. Theo công ty chứng khoán KB Việt Nam (KBSV), rủi ro tỷ giá trong quý IV đã được hạn chế do lạm phát trong nước duy trì ở mức ổn định.
KBSV cho rằng CPI bình quân cả năm 2024 sẽ ổn định dưới mức 4% so với cùng kỳ. Với áp lực tỷ giá và lạm phát không còn đáng lo ngại, Ngân hàng Nhà nước sẽ có thêm đủ địa để duy trì mức lãi suất thấp nhằm hỗ trợ kinh tế hồi phục. Điều này sẽ là yếu tố quan trọng để hỗ trợ cho xu hướng hồi phục chung của thị trường chứng khoán.
Lãi suất liên ngân hàng đã giảm mạnh trong hơn 2 tháng qua nhờ các động thái hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước bao gồm 2 lần hạ lãi suất OMO và tiếp tục bơm ròng 68.000 tỉ vào thị trường mở cuối quý III. KBSV dự đoán rằng mức lãi suất liên ngân hàng sẽ giảm thêm trong thời gian tới như một biện pháp hỗ trợ duy trì mức lãi suất tỷ thấp.
Đánh giá của KBSV cho thấy thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn linh hoạt, điều chỉnh trong quý IV, với dự báo tăng nhẹ lãi suất và ổn định mức lãi suất tiết kiệm đồng với sự hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước.
UOB: Dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2024 đạt 5,9%
Siêu bão Yagi đã đổ bộ vào châu Á từ ngày 31/8 - 8/9/2024. Tại Việt Nam, cơn bão đã gây thiệt hại trị giá 40 nghìn tỷ đồng (1,63 tỷ USD) ở các địa phương phía Bắc và ước tính sẽ làm giảm 0,15% GDP năm 2024. Cơn bão đã ảnh hưởng đến 26 địa phương, chiếm khoảng 41% GDP và 40% dân số của cả nước.
Sau khi tính đến những yếu tố ảnh hưởng từ bão Yagi, các nỗ lực tái thiết và nền cơ sở cao hơn trong nửa cuối năm 2023, Ngân hàng UOB đang điều chỉnh giảm mức dự báo tăng trưởng cho Việt Nam. UOB dự báo tăng trưởng cả năm hạ xuống còn 5,9%.
Đà tăng trưởng bị ảnh hưởng bởi thiên tai khắc nghiệt
Trước cơn bão, dữ liệu của Việt Nam cho đến tháng 8 vẫn cho thấy đà tăng trưởng mạnh mẽ. Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) của Việt Nam đã vượt trội hơn so với các nước lân cận trong khu vực ASEAN kể từ tháng 6/2024. Sản lượng sản xuất ghi nhận bốn tháng liên tiếp tăng trưởng hai chữ số (so với cùng kỳ năm trước) từ tháng 5 đến tháng 8.
Xuất khẩu ghi nhận mức tăng hai chữ số (so với cùng kỳ năm trước) trong 7 trên 8 tháng đầu năm, với thặng dư thương mại đạt 18,5 tỷ USD tính đến hết tháng 8, đang hướng tới mục tiêu vượt hoặc ít nhất là bằng mức thặng dư thương mại kỷ lục 28,4 tỷ USD vào năm 2023. Tính từ đầu năm đến hết tháng 8, doanh số bán lẻ đã duy trì tốc độ tăng trưởng trung bình hàng tháng là 8,8% so với cùng kỳ, mặc dù có mức cơ sở cao vào năm 2023.
Dữ liệu đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục phản ánh sự lạc quan của các nhà đầu tư nước ngoài đối với Việt Nam. Tính đến hết tháng 10, dòng vốn FDI thực hiện tăng 8% lên 14,2 tỷ USD và nếu đà tăng này tiếp tục, dòng vốn FDI cả năm có khả năng đạt trên 20 tỷ đô la Mỹ trong năm thứ ba liên tiếp (2023: 23,2 tỷ USD).
Triển vọng FDI cũng rất mạnh mẽ, với dòng vốn FDI đã đăng ký là 20,5 tỷ USD tính đến tháng 8 (cao hơn 7% so với mức 19,2 tỷ USD được ghi nhận trong cùng kỳ năm 2023), với gần 70% nằm trong lĩnh vực sản xuất. Tính đến hết tháng 10, khoảng 33% FDI đăng ký đến từ Singapore, tiếp theo là Nhật Bản (12%).
Về triển vọng tăng trưởng năm 2024, ảnh hưởng từ cơn bão Yagi sẽ được cảm nhận rõ hơn vào cuối quý 3/2024 và đầu quý 4/2024 ở các vùng phía bắc của đất nước. Tác động sẽ thể hiện qua việc sản lượng sụt giảm và các cơ sở bị hư hỏng ở nhiều lĩnh vực như sản xuất, nông nghiệp và các dịch vụ. Tuy nhiên, ngoài những gián đoạn tạm thời này, các yếu tố cơ bản dài hạn vẫn khá vững chắc.
Mặc dù Việt Nam đã tăng trưởng vượt trội ở mức 6,93% trong quý 2/2024, tốc độ nhanh nhất trong gần 2 năm, nhưng đà tăng trưởng mạnh mẽ này khó có thể tiếp tục trong nửa cuối năm 2024. Sau khi tính đến những yếu tố ảnh hưởng từ bão Yagi, các nỗ lực tái thiết và nền cơ sở cao hơn trong nửa cuối năm 2023, UOB đang điều chỉnh giảm mức dự báo tăng trưởng cho Việt Nam.
“Đối với quý 3/2024, UOB dự báo tốc độ tăng trưởng chậm lại ở mức 5,7% (giảm so với mức 6,0% trước đó) và đối với quý 4/2024 là 5,2% (giảm so với mức 5,4%). Do đó, dự báo tăng trưởng cả năm của chúng tôi cho năm 2024 được hạ xuống còn 5,9% (giảm khoảng 0,1% điểm phần trăm so với dự báo trước đó là 6%). Đây vẫn là sự phục hồi tích cực so với mức tăng trưởng 5% vào năm 2023.
Dự báo tăng trưởng GDP cho năm 2025 được điều chỉnh tăng ~0,2% điểm phần trăm lên 6,6%, phản ánh mức tăng dự kiến để bù đắp cho những khoản sụt giảm trước đó”, Báo cáo cho biết.
Ngân hàng Nhà nước giữ nguyên lãi suất đến hết năm
Bất chấp tác động từ cơn bão Yagi vừa qua và tỷ giá VND phục hồi đáng kể kể từ tháng 7, UOB vẫn kỳ vọng Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ duy trì lãi suất chính sách chủ chốt trong thời gian còn lại của năm 2024, đồng thời chú ý đến rủi ro lạm phát. Từ đầu năm đến hết tháng 8/2024, CPI toàn phần tăng 4% so với cùng kỳ năm trước, chỉ thấp hơn một chút so với mục tiêu 4,5%. Áp lực tăng giá có thể sẽ gia tăng sau sự gián đoạn trong sản lượng nông nghiệp, vì thực phẩm chiếm 34% trọng số CPI.
“NHNN có thể sẽ áp dụng cách tiếp cận hỗ trợ theo trọng tâm hơn để hỗ trợ các cá nhân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng trong khu vực của họ, thay vì triển khai một công cụ hỗ trợ rộng rãi trên toàn quốc như cắt giảm lãi suất. Do đó, chúng tôi dự đoán NHNN sẽ duy trì lãi suất tái cấp vốn ở mức hiện tại là 4,50% trong khi tập trung vào việc thúc đẩy tăng trưởng tín dụng và các biện pháp hỗ trợ khác.
Tuy nhiên, việc Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ công bố cắt giảm lãi suất 50 điểm cơ bản tại cuộc họp tháng 9 có thể làm tăng khả năng (và áp lực) đối với NHNN trong việc cân nhắc nới lỏng chính sách một cách tương tự”, UOB nhận định.
Đồng VND phục hồi mức thấp kỷ lục trong quý 3/2024
Cùng chung diễn biến với các đồng tiền trong khu vực, VND đã ghi nhận mức tăng theo quý lớn nhất kể từ năm 1993, phục hồi 3,2% đạt mức 24.630/USD. Áp lực bên ngoài từ sức mạnh của đồng USD đang bắt đầu giảm dần khi Fed bắt đầu chu kỳ nới lỏng như kỳ vọng, trong khi các yếu tố nội tại cho thấy sự ổn định hơn nữa của VND. Bất chấp ảnh hưởng của cơn bão, đà tăng trưởng mạnh mẽ được dự báo của Việt Nam, được thúc đẩy bởi cả hoạt động sản xuất và thương mại, cũng nhiều khả năng sẽ kéo dài sang năm 2025.
Kỳ vọng về chính sách tiền tệ ổn định từ NHNN với trọng tâm là thúc đẩy tăng trưởng tín dụng cũng hỗ trợ cho VND. Tuy nhiên, đà tăng thêm của VND từ đây khó có thể diễn ra với tốc độ tương tự như quý 3/2024. Nhìn chung, dự báo USD/VND cập nhật của UOB là 24.500 trong quý 4/2024, 24.300 trong quý 1/2025, 24.100 trong quý 2/2025 và 23.900 trong quý 3/2025.
Hoàng Yến
Theo
Link gốc:
Trump: 'Fed giảm lãi suất mạnh tay cho thấy kinh tế Mỹ rất tệ'
Cựu Tổng thống Mỹ cho rằng quyết định giảm lãi suất của Fed cho thấy kinh tế Mỹ rất tệ, hoặc Fed "đang có động cơ chính trị".
Ngày 18/9, sau phiên họp chính sách kéo dài 2 ngày, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) thông báo giảm lãi suất tham chiếu thêm 50 điểm cơ bản (0,5%). Đây là lần đầu tiên họ giảm lãi kể từ năm 2020.
Ngay sau thông báo của Fed, tại một sự kiện ở Manhattan, ứng cử viên Tổng thống Mỹ đảng Cộng hòa Donald Trump bình luận: "Tôi đoán điều này cho thấy nền kinh tế rất tệ, nên mới phải giảm lãi suất nhiều như thế. Hoặc là họ đang có động cơ chính trị. Dù sao, đây cũng là mức giảm lớn".
Trong khi đó, đối thủ của Trump trong cuộc đua vào Nhà Trắng - Phó tổng thống Mỹ Kamala Harris hôm qua chỉ bình luận: "Việc giảm lãi suất là tin mừng với những người Mỹ đang chịu sức ép vì giá cao". Bà nói thêm rằng trong vai trò ứng cử viên Tổng thống, mối quan tâm của bà vẫn là "làm thế nào để hạ nhiệt giá cả".
Đây cũng không phải lần đầu tiên Trump chỉ trích Chủ tịch Fed Jerome Powell hoặc cáo buộc Fed có động cơ chính trị.
Ông Donald Trump và Chủ tịch Fed Jerome Powell tại Nhà Trắng tháng 11/2017. Ảnh: Reuters
Hồi tháng 2, Trump ám chỉ trên Fox Business Network rằng sẽ thay thế Powell và cho rằng việc giảm lãi suất sẽ "có lợi cho đảng Dân chủ". Trong một cuộc phỏng vấn trên Bloomberg hè này, Trump tiếp tục cảnh báo Powell không nên giảm lãi suất trước cuộc bầu cử.
Tháng trước, tại dinh thự Mar-a-Lago (Florida), Trump lại tuyên bố muốn can thiệp vào các quyết định của Fed. "Tôi cảm thấy ít nhất thì tổng thống cũng nên có tiếng nói. Với trường hợp của mình, tôi rất thành công, kiếm được nhiều tiền nên trong nhiều tình huống sẽ có trực giác tốt hơn quan chức hoặc Chủ tịch Fed", ông nói.
Phát ngôn khi đó khiến giới phân tích lo ngại. Do Fed hoạt động độc lập với các chính trị gia. Sự độc lập của Fed đã giúp USD giữ vị trí là tiền tệ dự trữ của thế giới hàng thập kỷ qua.
Cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ sẽ diễn ra vào đầu tháng 11. Các cuộc khảo sát gần đây cho thấy phần lớn cử tri Mỹ vẫn lo ngại về lạm phát và chi phí sinh hoạt, dù chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã chậm lại nhiều tháng qua. Khảo sát mới nhất của Financial Times và Đại học Michigan cho thấy 80% cử tri được hỏi coi lạm phát là nguyên nhân lớn nhất khiến họ stress về tài chính
交易股票、貨幣、商品、期貨、債券、基金等金融工具或加密貨幣屬高風險行為,這些風險包括損失您的部分或全部投資金額,所以交易並非適合所有投資者。
做出任何財務決定時,應該進行自己的盡職調查,運用自己的判斷力,並諮詢合格的顧問。本網站的內容並非直接針對您,我們也未考慮您的財務狀況或需求。本網站所含資訊不一定是即時提供的,也不一定是準確的。本站提供的價格可能由造市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他財務決定均應完全由您負責,並且您不得依賴通過網站提供的任何資訊。我們不對網站中的任何資訊提供任何保證,並且對因使用網站中的任何資訊而可能造成的任何交易損失不承擔任何責任。
未經本站書面許可,禁止使用、儲存、複製、展現、修改、傳播或分發本網站所含數據。提供本網站所含數據的供應商及交易所保留其所有知識產權。