أسعار السوق
أخبار
تحليل التداول
مستخدم
24/7
التقويم الاقتصادي
تعليم
البيانات
- الاسم
- أحدث قيمة
- السابق
ا:--
ا: --
ا: --
ا:--
ا: --
ا: --
ا:--
ا: --
ا: --
ا:--
ا: --
ا: --
ا:--
ا: --
ا: --
ا:--
ا: --
ا: --
ا:--
ا: --
ا: --
ا:--
ا: --
ا: --
ا:--
ا: --
ا: --
ا:--
ا: --
ا: --
ا:--
ا: --
ا: --
ا:--
ا: --
ا: --
ا:--
ا: --
ا: --
ا:--
ا: --
ا: --
ا:--
ا: --
ا: --
ا:--
ا: --
ا: --
ا:--
ا: --
ا: --
ا:--
ا: --
ا:--
ا: --
ا: --
ا:--
ا: --
ا: --
ا:--
ا: --
ا: --
ا:--
ا: --
ا:--
ا: --
ا:--
ا: --
ا:--
ا: --
ا: --
ا:--
ا: --
ا: --
ا:--
ا: --
ا: --
ا:--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
--
ا: --
ا: --
لا توجد البينات المعلقة
أحدث المشاهدات
أحدث المشاهدات
الموضوعات الشائعة
لتعلم ديناميكيات السوق بسرعة ومتابعة تركيزات السوق في 15 دقيقة.
في عالم البشر، لن يكون هناك قول بلا موقف، ولا قول بلا غرض.
ويشكل التضخم وأسعار الصرف والاقتصاد القرارات السياسية التي تتخذها البنوك المركزية؛ تؤثر مواقف وكلمات مسؤولي البنك المركزي أيضًا على تصرفات المتداولين في السوق.
المال يجعل العالم يدور، والعملة هي سلعة دائمة. سوق الفوركس مليء بالمفاجآت والتوقعات.
المؤلفون الشائعون
استمتع بالأنشطة المثيرة، هنا في FastBull.
لديّ 5 سنوات من الخبرة في التحليل المالي ، لا سيما في جوانب التطورات الكلية وحكم الاتجاهات على المدى المتوسط والطويل. ينصب تركيزي بشكل يومي على التطورات في الشرق الأوسط والأسواق الناشئة والفحم والقمح والمنتجات الزراعية الأخرى.
آخر الأخبار العاجلة والأحداث المالية العالمية.
10 سنوات من الخبرة في سوق الأوراق المالية والعملات الأجنبية والمعادن الثمينة وغيرها من الخبرة في التداول والتحليل ، بناءً على الدعم الفني الأساسي ، المنحاز نحو منطق المعاملات من أعلى إلى أسفل ، مع التركيز على الدورة الكلية والتحكم في المخاطر ، والتنبؤ النظري للعرض والطلب متعدد الأغراض تغيرات الأسعار ، وتوازن تأثير المعاملات ، وتوزيع الرقائق ومعنويات السوق ، وثابت.
أحدث
استراتيجية التداول لعقود خيارات الفوركس
عند الاستثمار في عقود خيارات الفوركس، هناك مجموعة متنوعة من استراتيجيات التداول التي يمكن استعمالها، ما هو خيار الشراء + خيار البقعة وعقود خيارات البيع + عقود السوق الفوري،وكيفهما يساعدين للمستثمرين في تقليل المخاطر ورفع الفوائد؟
تداول الخيارات
خيارات الفوركس، وتسمى أيضا خيارات العملات،وهي تمثل المستثمرين الذين لديهم خيار إجراء تداول الفوركس في وقت معين في المستقبل بعد شراء الخيارات، ويمكن تقسيمها إلى نوعين: خيارات الشراء وخيارات البيع.وكيف نتجنب عن المخاطر باستخدام تداول الخيارات
العقود المستقبلية للفوركس (الجزء الثاني)
لأن تقلبات السعر المتكررة، كيف نقلل المخاطر بسبب تقلبات السوق باستخدام العقود المستقبلية للفوركس؟<br>بينما كيف نفهم الخصائص للعقود المستقبلية للفوركس ، أي فوائد عالية و مخاطر عالية؟
العقود المستقبلية للفوركس (الجزء الاول)
العقود المستقبلية للفوركس، وهي عقود قياسية لشراء أو بيع العملات بحجم وسعر متفق عليه في وقت محدد في المستقبل. كيف نستخدم العقود المستقبلية في الفوركس للتحوط والمضاربة؟
هونغ كونغ، الصين
فيتنام هوشي منه
دبي
نيجيريا لاغوس
القاهرة، مصر
عرض جميع نتائج البحث
لا توجد بيانات
لم تسجّل الدخول
سجل الدخول لعرض المزيد من الميزات
عضوية FastBull
ليس بعد
شراء
تسجيل الدخول
الاشتراك
هونغ كونغ، الصين
فيتنام هوشي منه
دبي
نيجيريا لاغوس
القاهرة، مصر
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà vừa ký ban hành Chỉ thị 28/CT-TTg ngày 26/8/2024 của Thủ tướng Chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ xi măng, sắt thép và vật liệu xây dựng.
Tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ xi măng, sắt thép và vật liệu xây dựng.
Chỉ thị nêu rõ vật liệu xây dựng bao gồm ximăng, thép xây dựng, gạch ốp lát, sứ vệ sinh, kính xây dựng và các loại vật liệu xây dựng khác có vai trò rất quan trọng, phục vụ xây dựng cơ sở hạ tầng, đô thị, nhà ở trong thiết kế và phát triển đất nước.
Các hoạt động sản xuất, tiêu thụ vật liệu xây dựng tác động đến việc giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người lao động, bảo đảm an sinh xã hội.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, ngành vật liệu xây dựng nước ta gặp rất nhiều khó khăn, sản lượng sản xuất, tiêu thụ và doanh thu đều giảm sút, dẫn đến nguy cơ tác động đến nền kinh tế và ảnh hưởng đến tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Qua đánh giá của các bộ, ngành, hiệp hội và các doanh nghiệp trong ngành cho thấy khó khăn chủ yếu, bao gồm:
Một là cơ chế chính sách để phát triển bền vững ngành vật liệu xây dựng còn có khoảng cách so với thực tiễn; phản ứng chính sách còn chưa kịp thời với các vấn đề phát sinh, cam kết quốc tế trong các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam là thành viên và các diễn biến nhanh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ các sản phẩm vật liệu xây dựng. Cơ chế chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng ứng dụng khoa học công nghệ chưa được ban hành cụ thể.
Hai là chi phí nhiên liệu than, dầu FO, khí nén thiên nhiên (CNG), khí gas hóa lỏng (LPG) và điện tăng cao. Các nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng như đá vôi, đá sét, phụ gia làm ximăng; cát trắng silic, đá vôi, đolomit làm kính; cao lanh, felspat (tràng thạch) làm gạch ốp lát, sứ vệ sinh; cát để sản xuất vật liệu xây không nung, nguyên liệu đầu vào làm thép… vẫn còn gặp khó khăn, có lúc chưa bảo đảm đủ ổn định để sản xuất.
Ba là thị trường tiêu thụ vật liệu xây dựng trong nước và xuất khẩu gặp nhiều khó khăn do tổng cầu trong nước và thế giới đều giảm, chuỗi cung ứng bị đứt gãy, thị trường bất động sản trong nước tăng trưởng chậm, nhiều công trình xây dựng, dự án trọng điểm về kết cấu hạ tầng chậm triển khai, phải hoãn hoặc giãn tiến độ; chi phí vận tải tăng cao; xuất khẩu clanhke, các sản phẩm vật liệu xây dựng sụt giảm do cạnh tranh gay gắt về giá bán sản phẩm từ các nhà sản xuất lớn trên thế giới, cộng với các quy định về hàng rào kỹ thuật tại các thị trường xuất khẩu; thị trường nội địa cạnh tranh gay gắt do sản phẩm nhập ngoại tăng lên đáng kể trong thời gian qua.
Bốn là tình hình tài chính gặp khó khăn do các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, nhất là các doanh nghiệp ximăng có tỷ lệ vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng lớn. Giai đoạn đầu khi mới vận hành nhà máy, các doanh nghiệp phải trả nợ vốn vay, cộng với lãi vay cao, dẫn đến áp lực trả nợ cả gốc và lãi lớn. Do tiêu thụ sản phẩm rất chậm trong thời gian gần đây, nhiều doanh nghiệp đã phải dừng một số dây chuyền sản xuất, dẫn đến dòng tiền để trả nợ cho ngân hàng và chi phí nguyên, nhiên liệu phục vụ sản xuất rất khó khăn. Nhiều nhà máy vật liệu xây dựng, đặc biệt là nhóm ximăng, thép xây dựng sản xuất không hiệu quả, thua lỗ, dẫn đến nợ xấu.
Năm là tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng nhái liên quan đến vật liệu xây dựng vẫn chưa được giải quyết triệt để.
6 quan điểm chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ
Để khắc phục các khó khăn, vướng mắc nêu trên và thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng trong thời gian tới, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thủ trưởng các cơ quan có liên quan quán triệt 6 quan điểm chỉ đạo, gồm:
Bám sát thực tiễn, kịp thời phản ứng nhanh chính sách với những vấn đề khó khăn, vướng mắc nổi lên, tổ chức thực hiện quyết liệt, mạnh mẽ trong lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động sản xuất, tiêu thụ xi măng, thép xây dựng và các loại vật liệu xây dựng khác.
Phát triển ngành vật liệu xây dựng bảo đảm hiệu quả, bền vững, đáp ứng cơ bản nhu cầu trong nước, tăng cường xuất khẩu các sản phẩm vật liệu xây dựng có giá trị kinh tế cao, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội.
Tiếp cận và ứng dụng nhanh nhất các thành tựu khoa học, công nghệ, quản lý, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong sản xuất; nâng cao chất lượng sản phẩm; đa dạng hóa các chủng loại sản phẩm chất lượng cao, có giá trị kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu xây dựng.
Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu, nhiên liệu trong sản xuất; khai thác sử dụng tiết kiệm tài nguyên khoáng sản; sử dụng tối đa các chất thải, phế thải của các ngành công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng và chất thải sinh hoạt làm nguyên liệu, nhiên liệu, phụ gia cho quá trình sản xuất theo hướng kinh tế tuần hoàn; hạn chế tối đa ảnh hưởng tới môi trường trong quá trình khai thác, chế biến, sử dụng khoáng sản và sản xuất vật liệu xây dựng theo hướng sản xuất xanh.
Phát huy, khuyến khích các nhà đầu tư, các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, phát triển vật liệu xây dựng.
Phân bổ mạng lưới cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng trên toàn quốc phù hợp với điều kiện về tự nhiên, xã hội của từng vùng, miền.
4 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm
Các bộ, ngành, Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thủ trưởng các cơ quan có liên quan tập trung thực hiện 4 nhiệm vụ và giải pháp sau:
Về cơ chế chính sách phát triển ngành:
Cụ thể là rà soát các cơ chế, chính sách, thể chế để khuyến khích đầu tư phát triển ngành vật liệu xây dựng nhanh, bền vững, phục vụ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần vào phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Cơ cấu lại thời hạn trả nợ, điều chỉnh giảm mặt bằng lãi suất cho vay cho các khách hàng, trong đó có doanh nghiệp trong ngành vật liệu xây dựng theo quy định pháp luật.
Cùng với đó, ban hành các chính sách ưu đãi về sử dụng rác thải sinh hoạt, rác thải công nghiệp, phế thải một số ngành công nghiệp như tro xỉ, thạch cao… làm nhiên liệu, nguyên liệu thay thế trong sản xuất xi măng và các vật liệu xây dựng khác. Tăng cường công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực vật liệu xây dựng, nhất là trong hoạt động sản xuất, tiêu thụ ximăng, thép xây dựng.
Về áp dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi sản xuất của ngành, nhất là sản xuất xanh:
Chủ động đổi mới, áp dụng linh hoạt công nghệ cao, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn để giảm giá thành, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm.
Về thị trường:
Tăng cường dự báo diễn biến trong và ngoài nước để chủ động có các giải pháp ứng phó kịp thời, hiệu quả, giúp cho doanh nghiệp có các định hướng ổn định sản xuất, kinh doanh; chống buôn lậu, gian lận thương mại, chống hàng giả, hàng nhái; mở rộng thị trường cả trong và ngoài nước.
Về hợp tác quốc tế:
Đẩy mạnh đầu tư công, xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, đầu tư phát triển hạ tầng đô thị, nông thôn, các công trình quốc phòng, an ninh, công trình biển và hải đảo phục vụ dân sinh và phát triển kinh tế biển...
Hoàn thiện cơ chế, chính sách
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Xây dựng rà soát, đánh giá tình hình thực hiện Chiến lược phát triển vật liệu xây dựng thời kỳ 2021-2030, định hướng đến năm 2050 tại Quyết định số 1266/QĐ-TTg ngày 18 tháng 8 năm 2020; Chương trình phát triển vật liệu xây không nung tại Việt Nam đến năm 2030 tại Quyết định số 2171/QĐ-TTg ngày 23 tháng 12 năm 2021 và các văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, đề án liên quan đến vật liệu xây dựng để điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế xã hội...
Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tiêu chuẩn, quy chuẩn và triển khai các biện pháp về hàng rào kỹ thuật đối với các sản phẩm vật liệu xây dựng nhập khẩu, đặc biệt là gạch ốp lát, sứ vệ sinh và kính xây dựng, bảo đảm phù hợp với những quy định về Tự do thương mại của WTO; chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và địa phương tập trung tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản, đẩy mạnh triển khai Đề án đầu tư xây dựng ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp và các chương trình, dự án xây dựng nhà ở khác.
Bộ Công Thương khẩn trương trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển ngành thép Việt nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Trong đó, lĩnh vực thép xây dựng cần được bảo đảm cân đối cung cầu và đầu tư phát triển bền vững; phối hợp với Bộ Tài chính và các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển lĩnh vực thép xây dựng như: các chính sách về thuế các loại (thuế nhập khẩu, thu nhập doanh nghiệp,…), thu hút đầu tư, xây dựng tiêu chuẩn quốc gia; phân cấp, phân quyền trong công tác quản lý lĩnh vực thép xây dựng...
Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất vật liệu xây dựng
Bộ Tài chính chủ trì xây dựng Nghị định sửa đổi Nghị định số 26/2023/NĐ-CP ngày 31 tháng 5 năm 2023 về Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, Danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan; nghiên cứu, đề xuất điều chỉnh theo hướng áp dụng thuế suất thuế xuất khẩu mặt hàng clanhke xi măng ở mức phù hợp để tháo gỡ khó khăn về tiêu thụ sản phẩm hiện nay.
Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất các sản phẩm vật liệu xây dựng trong nước có chất lượng thay thế vật liệu xây dựng nhập khẩu, thân thiện môi trường, các sản phẩm vật liệu xây dựng chế biến sâu để xuất khẩu theo cơ chế, chính sách hiện hành; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư các trạm nghiền, trạm phân phối ximăng ở những địa phương không sản xuất được clanhke và có nguồn phụ gia, tận dụng được tro, xỉ, thạch cao của các nhà máy nhiệt điện.
Đồng thời, các địa phương đẩy mạnh các dự án đầu tư công, nhà ở xã hội, xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, đầu tư phát triển hạ tầng đô thị, nông thôn, phòng chống thiên tai trên địa bàn để tăng lượng sử dụng ximăng, sắt thép và các vật liệu xây dựng khác.
Cắt giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành sản phẩm
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp vật liệu xây dựng phải đổi mới, áp dụng công nghệ sản xuất và phương thức quản lý hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng, giảm giá thành sản phẩm; rà soát, cắt giảm chi phí sản xuất đối với nguyên liệu, nhiên liệu than, dầu, khí đốt và điện; áp dụng các giải pháp nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng trong sản xuất, tận dụng các nguồn nhiên liệu giá rẻ từ phế thải để giảm chi phí sản xuất.
Đa dạng hóa sản phẩm vật liệu xây dựng, phù hợp các loại hình công trình xây dựng, điều kiện khí hậu, vùng miền khác nhau; tăng cường sản xuất các sản phẩm vật liệu xây dựng thay thế nhập khẩu đáp ứng nhu cầu thị trường; tìm kiếm, mở rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm vật liệu xây dựng với nhiều nước trên thế giới.
Nhật Quang
FILI
Không có bất ngờ nào trong phiên chiều, VN-Index duy trì mức giảm gần 8 điểm cho tới cuối phiên, khép lại ở mức 1,208.3 điểm. HNX-Index giảm 1.2 điểm còn 226.73 điểm.
Tuy giảm điểm nhưng nhìn chung tương quan lực mua, bán lại khá cân bằng trong phiên hôm nay. Độ rộng thị trường bao gồm 370 mã tăng và 380 mã giảm.
Áp lực chính vẫn đến từ cổ phiếu tài chính (TCB, BID, VCB, MBB, VPB), nguyên vật liệu (HPG, DGC, HSG, DCM…) và bất động sản (VRE, PDR, HDG, VIC, DXG…). Một số cổ phiếu trụ duy trì sắc xanh cho tới cuối phiên. VHM, MSN, GAS, BSR, VCG đã giữ cho thị trường không giảm sâu hơn.
Top 10 cổ phiếu tác động tới VN-Index phiên 08/08/2024
Trong hôm nay, một số cổ phiếu bất ngờ giảm sàn có thể kể tới TCH, HHS, HAG, HVN…
Nhóm tiện tích có thành tích tốt nhất trong phiên với mức tăng chung 1.42%. GAS, POW, REE, SII, NQN, VLW… diễn biến tích cực về giá.
Giao dịch có phần tích cực hơn so với thanh khoản đạt 18.8 ngàn tỷ đồng. Khối ngoại bán ròng trên 1.1 ngàn tỷ đồng. Trong đó tập trung bán mạnh VJC và VHM. Ngược lại, mua ròng mạnh HDB.
Top 10 cổ phiếu khối ngoại mua - bán ròng phiên 08/08/2024
14h05: Lực bán mạnh ở nhóm tài chính, bất động sản
Áp lực bán gia tăng trở lại khiến VN-Index nhanh chóng tụt điểm trong nửa đầu phiên chiều. Tới 14h05, chỉ số giảm gần 8 điểm còn 1,208 điểm.
Các nhóm ngành có thể hiện tốt trong phiên sáng như dệt may, xây dựng hạ tầng tiếp tục duy trì phong độ.
Tuy nhiên, lực bán mạnh lấn át ở nhóm ngân hàng, bất động sản và nguyên vật liệu là tác nhận chính khiến thị trường quay lại với sắc đỏ. TCB giảm tới 4%, kết hợp với một số mã vốn hóa khác như VNM, VIC, GVR, HPG, HVN… tạo áp lực lên thị trường.
Ở nhóm bất động sản, sắc đỏ chiếm ưu thế. Đáng chú ý, TCH giảm sàn ngay đầu phiên chiều. Thanh khoản cổ phiếu đột biến lên gần 20 triệu cp. Tới 14h15, dư bán sàn của cổ phiếu ở mức 14 triệu cp.
Phiên sáng: Cổ phiếu hạ tầng xây dựng bật tăng trần
Mở cửa khá tiêu cực song thị trường đã dần lấy lại sự tự tin và hồi phục về mặt điểm số. Kết phiên sáng, VN-Index tăng 2.6 điểm lên mức 1,218.45 điểm, HNX-Index tăng gần 1 điểm lên 228.91 điểm.
Phe mua đã chiếm lại ưu thế khi số mã tăng đã vươn lên gần 400 mã, áp đảo so với gần 260 mã giảm. Sắc xanh ở nhóm tài chính, công nghiệp, tiêu dùng không thiết yếu, tiện ích đang là chủ đạo của thị trường phiên sáng nay.
Sau cú bứt phá của nhóm dệt may, tới lượt cổ phiếu xây dựng hạ tầng tăng tốc. HHV, LCG, VCG đồng loạt tăng trần.
Nhóm tiện ích đang thể hiện vai trò của nhóm cổ phiếu phòng thủ khi thị trường khó đoán. GAS, POW, REE, TTA, GEG, CNG… đều tăng tốt.
Nguồn: VietstockFinance
Sự tự tin của nhà đầu tư phiên sáng nay đang giúp dòng tiền tích cực hơn. Thanh khoản sáng này đạt giá trị 8.7 ngàn tỷ đồng, bắt đầu nhỉnh hơn so với cùng thời điểm phiên hôm qua.
10h40: Cổ phiếu dệt may bứt tăng
Thị trường đã dần ấp hơn so với đầu phiên, chỉ số VN-Index thu hẹp đà giảm về còn giảm 2.6 điểm (tính đến 10h40).
Sắc xanh đã dần trở lại ở nhóm cổ phiếu tài chính. EIB tăng nhẹ với thanh khoản dẫn đầu toàn nhóm đạt hơn 10 triệu cp. VND, SHS, BID, VIB cũng đang giữ sắc xanh. Cổ phiếu MSN cùng GAS và VHM đang các mã trụ cho thị trường với mức tăng tốt trên 2%.
Nhóm dệt may đang thể hiện diễn biến tích cực. TNG tăng 6%, TCM tăng hơn 4%, STK tăng 5%, VGT đạt mức tăng gần 7%. Một số mã khác bật tăng trần, bao gồm: SHN, ADS, MSH…
Nhịp đập Thị trường 08/08: Thiếu trụ kéo đầu phiên, VN-Index rớt xuống dưới tham chiếu
Nhóm tài chính nhuốm sắc đỏ từ sớm, VN-Index theo đó rớt xuống dưới tham chiếu. Đầu phiên, chỉ số liên tục giảm với mức giảm gần 6%, chạm mốc 1,210 điểm.
Cổ phiếu ngân hàng TCB, VCB, VPB, HDB cùng một số vốn hóa lớn như FPT, GVR, VIC, BCM, VNM… đang là những mã đè thị trường mạnh nhất. Góp hơn 3 điểm giảm cho VN-Index.
Ở chiều ngược lại, một mình VHM gánh chỉ số và kéo tăng chỉ số 1 điểm.
Top 10 cổ phiếu tác động tới VN-Index phiên sáng 08/08/2024 (tính đến 9h27)
Phe bán đang chiếm ưu thế đầu phiên. Độ rộng thị trường 9h20 ghi nhận chỉ 150 mã tăng so với 275 mã giảm.
Nhóm dược phẩm đang tạm tăng tốt nhất thị trường nhờ đà tăng của DHG, DVN, IMP. Cổ phiếu viễn thông đang không khỏe, VGI, FOX, CTR, SGT, ELC… đều giảm đầu phiên hôm nay.
Yến Chi
FILI
CNG Việt Nam (CNG): Lãi ròng quý 2/2024 tăng gấp 3,2 lần, đẩy mạnh kinh doanh ở miền Bắc
CNG Việt Nam dự kiến sẽ đẩy mạnh kinh doanh tại thị trường phía Bắc kể từ nửa cuối năm nay.
Công ty Cổ phần CNG Việt Nam (mã cổ phiếu CNG) vừa cho biết lãi ròng quý 2/2024 tăng gấp 3,2 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Công ty dự kiến sẽ đẩy mạnh kinh doanh ở miền Bắc trong nửa cuối năm nay.
Công ty Cổ phần CNG Việt Nam (mã cổ phiếu CNG - sàn HoSE) vừa công bố kết quả kinh doanh quý 2/2024 với doanh thu thuần đạt 840 tỷ đồng, tương đương với cùng kỳ năm trước. Giá vốn hàng bán trong kỳ giảm nhẹ 5%, qua đó giúp lợi nhuận gộp tăng 70%, lên 91 tỷ đồng.
Sau khi trừ các chi phí phát sinh trong hoạt động kinh doanh, CNG Việt Nam thu về 44,6 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế, tăng 221% so với cùng kỳ năm trước.
Lũy kế 6 tháng đầu năm, tổng sản lượng khí thực hiện của CNG Việt Nam đạt 112 triệu Sm3. Qua đó, giúp CNG Việt Nam thu về 1.472 tỷ đồng doanh thu, giảm 7% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, lợi nhuận sau thuế tăng tới 25%, đạt 46 tỷ đồng. Qua đó, hoàn thành 48% kế hoạch doanh thu và 52% kế hoạch lợi nhuận cả năm.
Trước đó, ban lãnh đạo CNG Việt Nam đã dự báo kết quả kinh doanh từ quý 2/2024 trở đi sẽ khởi sắc hơn khi sản lượng khí được cải thiện nhờ chủ mỏ tăng sản lượng cung cấp khí cho công ty; đồng thời, hiệu quả kinh doanh ở khu vực miền Bắc được cải thiện.
Theo đó, sản lượng CNG tại miền Bắc có thể đạt tới 60 triệu Sm3 khí, cao gấp đôi so với kế hoạch hiện tại. Bên cạnh đó, công ty cũng thay đổi cơ chế giá bán, kỳ vọng điều này sẽ thúc đẩy kết quả kinh doanh.
Về kế hoạch trong thời gian tới, CNG Việt Nam dự kiến sẽ triển khai hợp đồng mua khí LNG với công ty mẹ là Tổng Công ty Khí Việt Nam (PV Gas) với giá trị hợp đồng tạm tính là 10.000 tỷ đồng trong vòng 5 năm. Qua đó, kỳ vọng có thể triển khai kinh doanh tại thị trường trọng điểm là miền Bắc trong quý 3 - quý 4/2024.
Khối lượng giao dịch và xu hướng giá cổ phiếu CNG của CNG Việt Nam trong vòng 12 tháng qua.
Hiện CNG Việt Nam có kế hoạch đầu tư cơ sở hạ tầng kinh doanh LNG tại miền Bắc với giá trị ban đầu 46 tỷ đồng, tập trung chủ yếu tại các khu công nghiệp thuộc tỉnh Bắc Ninh, Hải Phòng, và Hưng Yên. CNG Việt Nam đánh giá đây là thị trường tiềm năng khi dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung ngày càng nhiều tại đây, giúp nhu cầu sử dụng khí ở các địa phương này tương đương với thị trường miền Nam.
Ước tính, nhu cầu khí tại thị trường miền Bắc là 1 tỷ m3 khí/năm và có tốc độ tăng trưởng cao hơn thị trường miền Nam. Trong khi đó, thị trường miền Nam có tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt khoảng 5 - 6%, theo CNG Việt Nam.
Tại thời điểm cuối quý 2/2024, tổng tài sản của CNG Việt Nam đạt 1.277 tỷ đồng, tăng 10% so với đầu năm. Trong đó, các khoản phải thu ngắn hạn đạt 607 tỷ đồng, tăng 28%; tiền và tương đương tiền đạt 378 tỷ đồng, tăng 19%.
Ở phía đối ứng, tính đến ngày 30/6/2024, nợ phải trả của CNG Việt Nam đạt 681 tỷ đồng, tăng 22% so với đầu năm. Trong đó, phải trả người bán ngắn hạn là 481 tỷ đồng, chiếm 73% tổng dư nợ.
Cổ phiếu CNG - Ông trùm của ngành khí
CNG được ví von con gà vàng trong thị trường khí tự nhiên hóa lỏng tương lai. Đây là công ty sở hữu rất nhiều lợi thế cạnh tranh mạnh, độc nhất, trong 1 ngành có tốc độ tăng trưởng vào hàng cao nhất.
Rất nhiều cơ hội đặt ra với sản phẩm LNG tại Việt Nam, các yếu tố vĩ mô phần lớn thuận lợi. Và cũng theo định hướng của ban lãnh đạo mới đây cũng sẽ dần thay thế mảng khí CNG thành LNG hoàn toàn trong 5 năm năm tới 2024-2029.
Về kinh tế: Giá dầu có tương lai sáng khi tồn kho OECD và Hoa kỳ vẫn chưa hồi phục về trước covid, trong 1 diễn biến thù địch còn dai dẳng nhiều năm tới giữa Nga và EU, và nền kinh tế thế giới đang dần hồi phục nhu cầu vận tải, sản xuất.
Xu hướng thế giới và cả Việt Nam cũng sẽ đẩy mạnh giải ngân đầu tư công kích thích nhu cầu khí để sản xuất các ngành vật liệu xây dựng như luyện kim, với giá rẻ hơn, sạch và bớt phát thải CO2.
Tình đến hiện tại đã có 13 dự án điện LNG được phê duyệt trong danh mục ưu tiên đầu tư ngành điện, tới 2030 dự kiến nguồn điện từ LNG chiếm tới 15-20% tổng nguồn điện cả nước.
Về môi trường: Khí LNG là quân chủ lực trong việc giúp Việt Nam thực hiện thành công cam kết COP26 đưa phát thải ròng khí nhà kính về 0 trước 2050, nên đâu phải tự nhiên mà chúng ta có 2 dự án nhiệt điện Nhơn Trạch 3&4 rất lớn sử dụng hoàn toàn bằng khí LNG.
Và cũng rất nhiều cơ hội về ngành, khi tính kinh tế theo quy mô rất cao (74% thị phần, hệ thống đường ống, bồn xe nhiều và sẵn sàng, hưởng lợi từ cơ sở hạ tầng đầu tư của GAS (công ty mẹ, chủ đầu tư các kho LNG cả nước), ngoài ra CNG gần như không có đối thủ trong mảng khí.
Các nguồn lực đặc biệt đảm bảo vị trí độc tôn và lợi thế cạnh tranh đặc biệt của DN trong mảng chiết nạp và phân phối khí (CNG, LPG, LNG):
- Thương hiệu: Nắm trong tay 74% thị phần khí CNG VN
- Vật chất: Xe bồn và đường ống sẵn sàng tới các khách hàng khu công nghiệp, đặc biệt phù hợp để cấp khí LNG từ kho LNG Thị Vải tới các KCN
=> CNG là ứng viên hàng đầu để phân phối LNG từ kho Thị Vải, khi đó sẽ chiếm khoảng 60% thị phần thị trường LNG.
- Quan hệ: là con của PV GAS, cùng phối hợp với GAS trong vận hành kho LNG Thị Vải
Doanh nghiệp có đặc thù công việc ổn định, được bảo kê trong 1 mặt hàng nhu cầu ngày càng gia tăng, vì thế có lợi nhuận ổn định và quy mô doanh thu khá lớn, dẫn đến dòng tiền mặt hàng năm rất lớn, nguồn vốn có tính tự chủ rất cao khi không có nợ vay. Những điều đó kết hợp với các lợi thế cạnh tranh nói trên trong tương lai cho thấy mức cổ tức tiền mặt tối thiểu hàng năm CNG cần chi trả là 2,000 đồng/cổ phiếu tương đương 7% thị giá hiện tại, 1 mức không thể ổn hơn.
CNG Việt Nam (CNG): Sản lượng tiêu thụ quý 2 ước cao gấp đôi, hé lộ chiến lược kinh doanh LNG
Ban lãnh đạo Công ty Cổ phần CNG Việt Nam (mã cổ phiếu CNG) vừa chia sẻ một số thông tin về chiến lược phát triển kinh doanh mảng LNG mới với kỳ vọng mảng này sẽ trở thành động lực tăng trưởng chính, dần thay thế mảng CNG.
Kết thúc quý 1/2024, Công ty Cổ phần CNG Việt Nam (mã cổ phiếu CNG - sàn HoSE) ghi nhận doanh thu thuần đạt 631 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế đạt 1,3 tỷ đồng, lần lượt giảm 15% và 94% so với cùng kỳ năm trước. Qua đó, hoàn thành được 21% kế hoạch doanh thu và 1,5% kế hoạch lợi nhuận cả năm nay.
Theo chia sẻ của ban lãnh đạo CNG Việt Nam, do đặc tính mùa vụ và nhu cầu yếu cùng với nguồn cung thấp tại miền Bắc, sản lượng tiêu thụ khí CNG trong quý 1/2024 chỉ đạt 47 triệu Sm3 khí so với mức trung bình hơn 60 triệu Sm3 khí/quý trong năm 2023. Do đó, dù có lợi thế giảm khấu hao 14 tỷ đồng nhưng công ty không ghi nhận phần lợi nhuận đột biến như năm ngoái.
Tuy nhiên, ban lãnh đạo CNG Việt Nam nhận định kết quả kinh doanh từ quý 2/2024 trở đi sẽ khởi sắc hơn khi sản lượng khí được cải thiện nhờ chủ mỏ tăng sản lượng cung cấp khí cho công ty; đồng thời, hiệu quả kinh doanh ở khu vực miền Bắc được cải thiện. Theo đó, sản lượng CNG tại miền Bắc có thể đạt tới 60 triệu Sm3 khí, cao gấp đôi so với kế hoạch hiện tại. Bên cạnh đó, công ty cũng thay đổi cơ chế giá bán, kỳ vọng điều này sẽ thúc đẩy kết quả kinh doanh.
Ban lãnh đạo CNG Việt Nam cũng cho biết, công ty sẽ đẩy mạnh kinh doanh LNG từ quý 3/2024. Tại Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2024 vừa qua, công ty đã trình cổ đông xem xét và thông qua các nội dung chính trong hợp đồng mua khí LNG với công ty mẹ - Tổng Công ty Khí Việt Nam (PV Gas) với giá trị hợp đồng tạm tính là 10.000 tỷ đồng và thời hạn hợp đồng là 5 năm.
Giá khí và thời hạn thanh toán sẽ theo thông báo của PV Gas và chốt khi ký hợp đồng chính thức. Hiện CNG Việt Nam kỳ vọng sẽ chốt các hợp đồng LNG trong tháng này và bắt đầu triển khai kinh doanh trong quý 3 - quý 4/2024 với thị trường trọng điểm là miền Bắc.
Diễn biến giá và khối lượng giao dịch cổ phiếu CNG của CNG Việt Nam trong 12 tháng qua. (Nguồn: TradingView)
Công ty đã lên kế hoạch đầu tư cơ sở hạ tầng kinh doanh LNG tại miền Bắc với giá trị bán đầu 46 tỷ đồng, tập trung chủ yếu tại các khu công nghiệp thuộc tỉnh Bắc Ninh, Hải Phòng, và Hưng Yên. CNG Việt Nam đánh giá đây là thị trường tiềm năng khi dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung ngày càng nhiều tại đây, giúp nhu cầu sử dụng khí ở các địa phương này tương đương với thị trường miền Nam.
Ước tính, nhu cầu khí tại thị trường miền Bắc là 1 tỷ m3 khí/năm và có tốc độ tăng trưởng cao hơn thị trường miền Nam. Hiện thị trường miền Nam có tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt khoảng 5 - 6%, theo CNG Việt Nam.
Hiện CNG Việt Nam xác định LNG sẽ là sản phẩm kinh doanh chiến lược trong giai đoạn 2024 – 2029. Sau năm 2029, công ty dự kiến sẽ thay thế hoàn toàn CNG bằng LNG. Đồng thời, công ty cũng đặt mục tiêu sẽ chiếm lĩnh 60% thị phần phân phối LNG thông qua xe bồn trên toàn quốc.
Với cả dự án LNG Tây Nguyên - Bình Thuận và LNG Mỹ Phước 3 tại thị thị trường miền Nam, CNG Việt Nam cho biết đang tạm dừng đầu tư do các vướng mắc về nhu cầu suy yếu tạm thời của khách hàng cũng như thủ tục thuê đất tại các khu công nghiệp.
Nhiều kiến nghị từ thực tế đã được các Hiệp hội, địa phương, doanh nghiệp gửi tới Chính phủ và các Bộ ngành liên quan nhằm tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất xi măng và tiêu thụ vật liệu xây dựng.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị trực tuyến về tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ xi măng, sắt thép và vật liệu xây dựng ngày 15/6 - Ảnh:VGP/Toàn Thắng
Tổng giá trị doanh thu ngành VLXD chiếm gần 6% GDP quốc gia
Theo Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Văn Sinh, ngành vật liệu xây dựng (VLXD) Việt Nam có vai trò rất quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. VLXD chủ yếu bao gồm xi măng, gạch ốp lát, sứ vệ sinh, kính xây dựng, vật liệu xây và thép xây dựng.
Trong 10 năm vừa qua, tổng năng lực sản xuất các VLXD chủ lực của Việt Nam đã tăng trưởng đạt khoảng 120 triệu tấn xi măng, 830 triệu m2 gạch ốp lát, 26 triệu sản phẩm sứ vệ sinh, 330 triệu m2 kính xây dựng, 20 tỷ viên gạch đất sét nung, 12 tỷ viên gạch không nung (quy tiêu chuẩn). Trong đó, sản lượng xi măng, gạch ốp lát thuộc nhóm tốp đầu trên thế giới. Chất lượng VLXD Việt Nam đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.
Trình độ công nghệ, tổ chức sản xuất, kinh doanh, môi trường của ngành công nghiệp VLXD Việt Nam đứng tốp đầu trong các nước ASEAN. Tổng giá trị doanh thu hàng năm ngành VLXD chưa bao gồm thép xây dựng ước đạt khoảng 600,000 tỷ đồng (tương đương hơn 24 tỷ USD), chiếm gần 6% GDP quốc gia, có đóng góp đáng kể vào nguồn thu nhà nước, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động.
Hiện nay, nhu cầu sử dụng VLXD trong xây dựng ở nước ta vẫn còn rất lớn vì diện tích nhà ở toàn quốc vẫn còn thấp, tỷ lệ đô thị hoá mới đạt khoảng 43%, hệ thống kết cấu hạ tầng về giao thông, năng lượng chưa hoàn thiện.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, ngành VLXD nước ta gặp nhiều khó khăn, sản lượng tiêu thụ và doanh thu đều giảm sút, dẫn đến đình trệ hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, mất việc làm của nhiều người lao động, tác động đến phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Văn Sinh trình bày báo cáo về tình hình sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng - Ảnh:VGP/Toàn Thắng
Còn khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu thụ xi măng, VLXD
Theo báo cáo của Bộ Xây dựng, hiện nay, tổng số dây chuyền sản xuất xi măng đã đầu tư trên toàn quốc là 92 dây chuyền với tổng công suất 122.34 triệu tấn/năm.
Đánh giá của Bộ Xây dựng cho biết, từ năm 2023 đến nay, sản xuất clanhke và xi măng sụt giảm lớn. Tổng sản lượng sản xuất năm 2023 chỉ đạt 92.9 triệu tấn, tương ứng 75% tổng công suất thiết kế (CSTK).
Trong năm 2023, có 42 dây chuyền dừng hoạt động từ 1 đến 6 tháng, một số dây chuyển dừng cả năm (khoảng 30% CSTK).
Ước tính đến hết tháng 6/2024, tổng sản lượng sản xuất clanhke và xi măng toàn quốc đạt khoảng 44 triệu tấn xi măng, tương đương cùng kỳ năm 2023 và dự kiến chỉ đạt khoảng 70- 75% tổng công suất thiết kế. Tồn kho lũy kế khoảng 5 triệu tấn xi măng và clanhke.
Từ năm 2023 đến nay, tiêu thụ clanhke và xi măng cũng đều sụt giảm. Tổng sản lượng tiêu thụ cả năm 2023 đạt 87.8 triệu tấn, bằng 88% so với năm 2022.
Năm 2023, tiêu thụ xi măng trong nước chỉ đạt 56.6 triệu tấn (bằng 83.5% năm 2022), đây là mức sụt giảm lớn nhất từ trước đến nay trong ngành xi măng.
Từ năm 2022, lượng clanhke xuất khẩu sụt giảm lớn, tổng lượng clanhke xuất khẩu cả năm 2022 chỉ đạt 15.2 triệu tấn, bằng 52.9% năm 2021 và tiếp tục sụt giảm xuống 10.9 triệu tấn năm 2023 và bằng 71.7% năm 2022.
Ước tính đến hết 6 tháng đầu năm 2024, lượng clanhke xuất khẩu cũng chỉ đạt khoảng 5.4 triệu tấn, gần bằng cùng kỳ năm 2023.
Báo cáo của Bộ Xây dựng cũng chỉ rõ nhóm VLXD khác như Gạch ốp lát, Sứ vệ sinh, Kính xây dựng và vật liệu xây không nung (VLXKN) cũng gặp không ít khó khăn
Từ năm 2020 đến nay, sản lượng sản xuất Gạch ốp lát chỉ đạt khoảng 50 – 60% tổng công suất thiết kế. Năm 2023, sản lượng sản xuất gạch ốp lát đạt khoảng 360 triệu m2, chỉ bằng khoảng 45% tổng công suất thiết kế và giảm khoảng 3.3% so với năm 2022.
Từ năm 2020 đến nay, sản lượng sản xuất và tiêu thụ gạch ốp lát giảm mạnh. Sản lượng tiêu thụ gạch ốp lát năm 2023 chỉ đạt khoảng 305 triệu m2 , bằng khoảng 85% sản lượng sản xuất. Ước tính đến hết tháng 6/2024, sản lượng sản xuất đạt khoảng 166 triệu m2, tương đương cùng kỳ năm 2023.
Đối với Sứ vệ sinh, theo đánh giá của Bộ Xây dựng, từ năm 2020 đến nay, sản lượng sản xuất sứ vệ sinh đã liên tục suy giảm. Năm 2023, sản lượng sản suất chỉ đạt khoảng 12.5 triệu sản phẩm bằng 48% so với tổng công suất thiết kế và giảm 13.8% so với năm 2022.
Đáng chú ý, từ năm 2020 tiêu thụ các sản phẩm sứ vệ sinh giảm mạnh. Trong năm 2023, sản lượng tiêu thụ chỉ đạt khoảng 11.5 triệu sản phẩm tương đương 92% sản lượng sản xuất và giảm 6.55% so với năm 2022.
Ông Nguyễn Quang Cung, Chủ tịch Hiệp hội xi măng Việt Nam nêu kiến nghị tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất tiêu thụ xi măng, vật liệu xây dựng- Ảnh: VGP/Toàn Thắng
Đối với Kính xây dựng, từ năm 2022 đến nay, sản lượng sản xuất kính đã liên tục suy giảm. Sản lượng sản xuất kính năm 2023 ước đạt khoảng 241 triệu m2 tương đương 72.8% công suất thiết kế.
Riêng kính xây dựng, sản lượng sản xuất năm 2023 khoảng 175 triệu m2 , sản lượng tiêu thụ nội địa khoảng 153 triệu m2 QTC bằng khoảng 87% sản lượng sản xuất và giảm khoảng 21% so với năm 2022. Từ năm 2023 đến nay, đã có 3 dây chuyền phải dừng hoạt động sản xuất trên 6 tháng.
Từ năm 2022 tiêu thụ các sản phẩm kính xây dựng cũng giảm mạnh. Năm 2023, sản lượng tiêu thụ chỉ đạt khoảng 153 triệu m2, giảm 33% so với năm 2022.
Tình hình sản xuất, kinh doanh của nhóm vật liệu xây không nung (VLXKN) cũng gặp nhiều khó khăn. Cụ thể, năm 2023, sản lượng sản xuất VLXKN chỉ đạt khoảng 4.9 tỷ viên quy tiêu chuẩn, chiếm khoảng 20% so với tổng sản lượng sản xuất vật liệu xây. Công suất khai thác đạt khoảng 40% tổng công suất thiết kế.
Năm 2023, sản lượng tiêu thụ VLXKN chỉ đạt khoảng 4.8 tỷ viên quy tiêu chuẩn, chiếm khoảng 20% so với tổng sản lượng tiêu thụ vật liệu xây.
Theo phân tích của Bộ Xây dựng nguyên nhân của những khó khăn này là do giá nhiên liệu đầu vào của ngành VLXD nói chung và xi măng nói riêng tăng cao, nguồn cung khan hiếm.
Đối với ngành xi măng, chi phí nhiên liệu than chiếm tỉ trọng đến 50% chi phí sản xuất clanhke. Năm 2022-2023, giá than trong nước tăng 3 lần, tăng khoảng 40-45% so với thời điểm tháng 12/2021. Giá than tăng đã dẫn đến làm tăng chi phí sản xuất là clanhke và xi măng thêm khoảng 11%.
Giá than tăng cũng dẫn đến tình trạng làm tăng chi phí sản xuất là gạch ốp lát thêm khoảng 5%.
Đối với sứ vệ sinh, nhiên liệu thường là khí hóa than, dầu FO, khí tự nhiên hóa lỏng (CNG) hoặc khí gas hóa lỏng (LPG), nhưng giá bán liên tục biến động theo thị trường thế giới. Việc giá dầu tăng đã dẫn đến làm tăng chi phí sản xuất sứ vệ sinh thêm khoảng 5%.
Với VLXKN, đa số người dân vẫn có thói quen sử dụng vật liệu xây truyền thống là gạch đất sét nung, đồng thời chất lượng một số sản phẩm VLXKN chưa đảm bảo về chống thấm, nứt, gây khó khăn trong tiêu thụ.
Theo Bộ Xây dựng, từ năm 2022 lượng clanhke xuất khẩu sụt giảm lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng về kinh doanh đối với các doanh nghiệp sản xuất.
Nguyên nhân sụt giảm xuất khẩu clanhke phần nhiều là do thuế xuất khẩu clanhke của Việt Nam tăng từ 5% lên 10% từ ngày 1/1/2023 làm cho giá clanhke kém cạnh tranh trên thị trường quốc tế so với các nước cùng xuất khẩu clanhke như Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ,…
Với việc thuế xuất khẩu clanhke của Việt Nam tăng (10%) và không được khấu trừ đầu vào thuế GTGT (10%), dẫn đến giá clanhke của Việt Nam mất lợi thế đến 20% so với giá clanhke của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Hệ quả là hiện nay nhiều doanh nghiệp xi măng không thể xuất khẩu được sản phẩm clanhke.
Theo Bộ Xây dựng, hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất VLXD, đặc biệt các doanh nghiệp xi măng đầu tư vốn rất lớn vào dự án sản xuất. Giai đoạn đầu khi mới vận hành nhà máy, các doanh nghiệp phải trả nợ vốn vay, cộng với lãi vay cao, dẫn đến áp lực trả nợ cả gốc và lãi rất lớn.
Do tiêu thụ sản phẩm rất chậm, nhiều doanh nghiệp đã phải dừng một số dây chuyền sản xuất, dẫn đến dòng tiền tài chính để trả nợ cho ngân hàng và chi phí nguyên, nhiên liệu phục vụ sản xuất rất khó khăn.
Điều đáng lo ngại, nhiều nhà máy VLXD, đặc biệt là nhóm xi măng sản xuất không hiệu quả, thua lỗ, dẫn đến nợ xấu.
Theo ông Lê Quang Hùng, Chủ tịch Hội Bê tông Việt Nam, giải pháp tăng tỷ lệ xây dựng cầu cạn trên các tuyến quốc lộ, cao tốc sẽ góp phần thúc đẩy tiêu thụ lượng tồn xi măng và vật liệu xây dựng -Ảnh:VGP/ Toàn Thắng
Những kiến nghị từ thực tế "gỡ vướng" cho ngành VLXD
Tham dự hội nghị trực tuyến về tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất tiêu thụ xia măng, sắt thép và vật liệu xây dựng ngay 15/6, ông Tống Văn Nga, Chủ tịch Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam đề nghị cần tập trung vào chương trình phát triển nhà ở xã hội.
Theo đó, về quy hoạch, khi lập quy hoạch các khu công nghiệp, khu chế xuất thì phải có khu đô thị, trong đó phải có khu nhà ở xã hội. Chủ doanh nghiệp là người sử dụng lao động phải có thiết kế căn hộ mẫu.
Đại diện Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam kiến nghị tăng cường sử dụng xi măng cho xây dựng đường giao thông, xây dựng cầu cạn ở vùng đồng bằng, nền đất yếu như Đồng bằng sông Cửu Long vì tiết kiệm đất, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, chi phí bảo dưỡng thấp.
Đại điện Hội Vật liệu Xây dựng Việt Nam bày tỏ rất tâm đắc với phương châm chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ là qua suối làm cầu, qua núi đào hầm và xin bổ sung thêm "qua đồng bằng xây cầu cạn".
Ông Nguyễn Quang Cung, Chủ tịch Hiệp hội xi măng Việt Nam cho biết thời gian qua đã có nhiều nỗ lực trong việc đầu tư vào các hệ thống xử lý môi trường, bảo đảm giảm phát thải, bảo vệ môi trường, giảm chi phí đầu tư sản xuất.
Đồng thời nhấn mạnh, những người sản xuất xi măng quan niệm, xuất khẩu xi măng chỉ là giải pháp tình thế trong khó khăn. Hiện nhiều doanh nghiệp xi măng bán xi măng dưới giá thành sản xuất.
Từ những khó khăn của ngành xi măng, đại diện Hiệp hội xi măng Việt Nam kiến nghị Thủ tướng Chính phủ, các bộ ngành có giải pháp để tăng lượng tiêu thụ xi măng nội địa.
Đề nghị sớm triển khai xây dựng các tuyến đường dạng cầu cạn ở những nơi thích hợp. Công nghệ này phù hợp với những nơi nền đất yếu và những nơi cần cho lũ thoát qua (miền Trung, thung lũng ở miền núi, Đồng bằng sông Cửu long). Đây là giải pháp mang lại rất nhiều lợi ích.
Đồng thời cần sử dụng công nghệ gia cố nền đường bằng xi măng – đất thay cho công nghệ truyền thống để nâng cao chất lượng và tuổi thọ công trình đường giao thông theo kịp các nước tiên tiến, khi đã có đủ xi măng trong nước.
Hiệp hội xi măng Việt Nam kiến nghị Chính phủ loại bỏ clanhke xi măng khỏi nhóm hàng hóa xuất khẩu số thứ tự 211 của Phụ lục I - Biểu thuế xuất khẩu theo danh mục hàng hóa chịu thuế của Nghị định 26/2023/NĐ-CP ngày 31/5/2023 khi sửa đổi Nghị định này,
Đồng thời, chỉ đạo các các ngân hàng giãn nợ vay đầu tư, giảm lãi suất cho các doanh nghiệp xi măng, tăng hạn mức vay vốn lưu động cho các doanh nghiệp sản xuất xi măng.
Chia sẻ thêm về những kiến nghị để tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất và tiêu thụ xi măng, theo ông Lê Quang Hùng, Chủ tịch Hội Bê tông Việt Nam, cần tập trung vào giải pháp tăng tiêu thụ nội địa ở hai điểm: Tăng diện tích xây dựng nhà ở, nhất là nhà ở xã hội và tăng tỷ lệ xây dựng cầu cạn đối với các công trình giao thông, trên các tuyến quốc lộ, cao tốc.
Đại diện Hội Bê tông Việt Nam nhấn mạnh cần tập trung thực hiện Đề án xây dựng 1 triệu căn nhà ở xã hội. Mỗi năm xây dựng 150 nghìn căn nhà ở xã hội sẽ tiêu thụ 4 triệu tấn xi măng, 1 triệu tấn sắt thép, từ đó sẽ góp phần kích cầu các sản phẩm khác như sứ vệ sinh, gạch ốp lát, kính xây dựng, đạt được nhiều mục đích.
Theo đại diện Hội Bê tông Việt Nam, hiện tử lệ sử dụng cầu cạn trên các tuyến quốc lộ, cao tốc còn khá khiêm tốn, chỉ dưới 10%. Tuy nhiên thực tế tuyến cao tốc Sài Gòn – Trung Lương đã lên tới 30% cầu cạn nên việc nâng tỷ lệ cầu cạn lên 20- 30% là hoàn toàn khả thi.
Ông Lê quang Hùng phân tích "Xây cầu cạn không phải mất thời gian chờ lún, vừa có thể chủ động ứng phó thiên tai, tăng độ bền công trình. Nếu làm tốt các vấn đề này thì có thể giải quyết 70 - 80% lượng xi măng tồn".
Dưới góc độ địa phương, lãnh đạo UBND tỉnh Đồng Nai cho biết, tỉnh Đồng Nai có sức tiêu thụ VLXD lớn, tổng đầu tư xã hội của địa phương này khoảng 100 nghìn tỷ đồng đã góp phần quan trọng thức đẩy sản xuất, tiêu thụ VLXD, rà soát đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, nhất là dự án Sân bay Long Thành và các tuyến cao tốc. Đồng thời đẩy nhanh phát triển các dự án nhà ở xã hội, hoàn thành 12 dự án với hơn 20,000 căn.
Từ thực tế của địa phương, tỉnh Đồng Nai kiến nghị Chính phủ có chính sách ưu đãi về thuế, đẩy mạnh ứng dụng về khoa học công nghệ vào sản xuất VLXD. Đồng thời kiến nghị Chính phủ có chính sách ưu đãi về tín dụng đối với các nhà đầu tư trong nước, giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Hàn Đông
FILI
Sáng 15/06/2024, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị trực tuyến về tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ xi măng, sắt thép và vật liệu xây dựng (VLXD).
Phát biểu kết luận, Thủ tướng Phạm Minh Chính cơ bản nhất trí với báo cáo, các đề xuất kiến nghị tại Hội nghị, giao VPCP phối hợp với Bộ Xây dựng, Bộ Công Thương tiếp thu những ý kiến của các đại biểu, sớm hoàn thiện và ban hành Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh ngành VLXD.
Theo Thủ tướng, hoạt động sản xuất, tiêu thụ xi măng, sắt thép, VLXD thời gian qua đã đạt những kết quả rất đáng trân trọng, mang lại hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Sản lượng xi măng, gạch ốp lát thuộc nhóm tốp đầu trên thế giới. Sản xuất thép thô của Việt Nam hiện đứng thứ 13 trên thế giới và đứng đầu khu vực ASEAN. Trình độ công nghệ, tổ chức sản xuất, kinh doanh, môi trường của ngành công nghiệp VLXD Việt Nam đứng tốp đầu trong các nước ASEAN. Chất lượng VLXD Việt Nam bảo đảm đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.
Tổng giá trị doanh thu hằng năm ngành VLXD xi măng, sắt thép ước đạt gần 47 tỷ USD, chiếm khoảng 11 % GDP quốc gia. Các nhà máy VLXD, xi măng, sắt thép Việt Nam ngày càng được đầu tư bài bản, đáp ứng nhu cầu xây dựng trong nước và một phần xuất khẩu, khắc phục tình trạng thiếu VLXD, xi măng, sắt thép trong xây dựng thời kỳ trước năm 2010.
Thủ tướng nêu rõ, đạt được những kết quả đáng ghi nhận đó là nhờ có sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự vào cuộc hiệu quả của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành; đặc biệt là các địa phương, các doanh nghiệp, đội ngũ nhân lực sáng tạo, những người hoạt động trong ngành xi măng, sắt thép, VLXD.
Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng đánh giá cao, biểu dương những nỗ lực, cố gắng và chúc mừng những kết quả đáng ghi nhận đã đạt được thời gian qua, nhất là Bộ Xây dựng, Bộ Công Thương với vai trò là cơ quan đầu mối thực hiện Chiến lược phát triển xi măng, sắt thép, VLXD của Việt Nam.
Theo Thủ tướng, hoạt động sản xuất, tiêu thụ xi măng, sắt thép, VLXD thời gian qua đã đạt những kết quả rất đáng trân trọng, mang lại hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế - xã hội - Ảnh: VGP
Bên cạnh đó, hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ xi măng, sắt thép, VLXD còn có những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc.
Cơ chế, chính sách còn khoảng cách so với thực tiễn, phản ứng chính sách có lúc, có nơi còn chậm. Chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất VLXD ứng dụng khoa học công nghệ chưa được ban hành kịp thời.
Đối với sản xuất, chi phí nhiên liệu than, điện tăng; khí hóa than tăng, dầu FO, khí tự nhiên hóa lỏng (CNG), khí gas hóa lỏng (LPG) trong thời gian qua có biến động. Nguồn cung nguyên liệu phục vụ sản xuất xi măng, VLXD còn có bất cập.
Ngành thép năng lực sản xuất còn hạn chế, Việt Nam tiếp tục là quốc gia nhập siêu về thép, phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu nước ngoài, đặc biệt trong sản xuất thép thô. Ngoại trừ một số khu liên hợp công nghệ khép kín, phần lớn các đơn vị sản xuất còn lại sử dụng công nghệ còn hạn chế.
Sức ép bảo vệ môi trường, biến đổi khí hậu tăng. Cam kết giảm phát thải tại Hội nghị COP26 dẫn đến yêu cầu các nhà sản xuất VLXD, đặc biệt là xi măng phải đầu tư các hạng mục liên quan đến xử lý khí thải, giảm thiểu CO2 làm tăng chi phí sản xuất.
Về thị trường, cả tiêu thụ trong nước và xuất khẩu đều gặp khó khăn. Tiêu thụ trong nước chậm do đầu tư xây dựng trong nước giảm sút; thị trường bất động sản trong nước trầm lắng; chí phí vận tải tăng cao;…
Xuất khẩu sụt giảm do lượng clinke xuất khẩu sụt giảm lớn; gặp cạnh tranh gay gắt về giá bán sản phẩm từ các nhà sản xuất lớn trên thế giới; chi phí cước vận tải biển tăng cao, cộng với các quy định về hàng rào kỹ thuật tại phần lớn thị trường xuất khẩu.
Tình hình tài chính của ngành gặp khó khăn do các doanh nghiệp sản xuất VLXD, đặc biệt các doanh nghiệp xi măng đầu tư vốn rất lớn vào dự án sản xuất; giai đoạn đầu khi mới vận hành nhà máy, các doanh nghiệp phải trả nợ vốn vay, cộng với lãi vay cao, dẫn đến áp lực trả nợ cả gốc và lãi rất lớn.
Do tiêu thụ sản phẩm chậm trong thời gian gần đây, nhiều doanh nghiệp đã phải dừng một số dây chuyền sản xuất sản phẩm, dẫn đến dòng tiền tài chính để trả nợ cho ngân hàng và chi phí nguyên, nhiên liệu phục vụ sản xuất rất khó khăn. Nhiều nhà máy VLXD, đặc biệt là nhóm xi măng sản xuất không hiệu quả, thua lỗ, dẫn đến nợ xấu.
Tình trạng buôn lậu, giân lận thương mại, hàng giả hàng nhái liên quan tới VLXD chưa được giải quyết triệt để.
Thủ tướng khẳng định thời gian tới, để ngành xi măng, sắt thép, VLXD phát triển bền vững, phát huy hiệu quả và đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm mục tiêu tăng trưởng năm 2024, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan liên quan thực hiện có hiệu quả Chiến lược phát triển VLXD Việt Nam thời kỳ 2021-2030, định hướng đến năm 2050 (Quyết định số 1266/QĐ-TTg), Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản làm VLXD thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định số 1626/QĐ-TTg), Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định số 866/QĐ-TTg), cũng như thúc đẩy tiến độ triển khai các dự án đầu tư công, các dự án hạ tầng; đề án đầu tư 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội…
Về quan điểm, Thủ tướng nêu rõ, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh vật liệu phát triển nhanh, bền vững, công tác lãnh đạo, chỉ đạo phải tôn trọng thực tiễn, bám sát thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo, kịp thời phản ứng chính sách với các vấn đề nổi lên, những khó khăn, vướng mắc, tổ chức thực hiện quyết liệt, mạnh mẽ, có trọng tâm, trọng điểm, làm việc nào dứt điểm việc đó.
Phát triển ngành xi măng, sắt thép, VLXD phải bảo đảm hiệu quả, bền vững, đáp ứng cơ bản nhu cầu trong nước, tăng cường xuất khẩu khi tiêu thụ trong nước giảm sút, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội.
Tiếp cận và ứng dụng nhanh nhất các thành tựu khoa học, công nghệ, quản lý nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong sản xuất; nâng cao chất lượng sản phẩm; đa dạng hóa các chủng loại sản phẩm chất lượng cao, có giá trị kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu xây dựng.
Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu, nhiên liệu trong sản xuất; khai thác sử dụng tiết kiệm khoáng sản; áp dụng kinh tế tuần hoàn, sử dụng tối đa các chất thải, phế thải của các ngành công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng và chất thải sinh hoạt làm nguyên liệu, nhiên liệu, phụ gia cho quá trình sản xuất; sản xuất xanh, hạn chế tối đa ảnh hưởng tới môi trường trong quá trình khai thác, chế biến khoáng sản và sản xuất VLXD, xi măng, sắt thép.
Phát huy, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, phát triển xi măng, sắt thép, VLXD; đẩy mạnh đầu tư công để tiêu thụ sản phẩm của các ngành VLXD.
Phân bổ mạng lưới cơ sở sản xuất xi măng, sắt thép, VLXD trên toàn quốc phù hợp với điều kiện về tự nhiên, xã hội của từng vùng miền.
Hàn Đông
FILI
البطاقة البيضاء
API البيانات
المكونات الإضافية للويب
صانع ملصقات مجاني قابل للتخصيص
برنامج التابعة لها
يمكن أن تكون مخاطر الخسارة كبيرة عند تداول الأصول المالية مثل الأسهم أو العملات الأجنبية أو السلع أو العقود الآجلة أو السندات أو صناديق الاستثمار المتداولة أو العملات المشفرة. قد تتعرض لخسارة كامل الأموال التي تودعها لدى شركة الوساطة. لذلك، يجب أن تفكر مليًا فيما إذا كانت هذه التجارة مناسبة لك في ضوء ظروفك ومواردك المالية.
لا ينبغي الاقدام على الاستثمار دون إجراء التدقيق و الأبحاث اللاّزمة أو التشاور مع مستشاريك الماليين. قد لا يناسبك محتوى موقعنا ، لأننا لا نعرف حالتك المالية واحتياجاتك الاستثمارية. من المحتمل أن معلوماتنا المالية قد يكون لها زمن انتقال أو تحتوي على معلومات غير دقيقة، لذلك يجب أن تكون مسؤولاً بالكامل عن أي من معاملاتك وقراراتك الاستثمارية. لن تكون الشركة مسؤولة عن خسارة أي من أموالك.
بدون الحصول على إذن من موقع الويب، لا يُسمح لك بنسخ رسومات الموقع أو النصوص أو العلامات التجارية. حقوق الملكية الفكرية في المحتوى أو البيانات المدرجة في هذا الموقع مملوكة لمزوديها و بورصات التداول.