Kutipan
Berita
Analisis
Pengguna
24/7
Kalender Ekonomi
Pendidikan
Data
- Nama
- Nilai Terbaru
- Sblm.
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S:--
P: --
S:--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
Tidak Ada Data Yang Cocok
Opini Terbaru
Opini Terbaru
Topik Populer
Untuk mempelajari dinamika pasar dengan cepat dan mengikuti fokus pasar dalam 15 menit.
Di dunia umat manusia, tidak akan ada pernyataan tanpa pendirian apa pun, dan tidak akan ada ucapan tanpa tujuan apa pun.
Inflasi, nilai tukar, dan perekonomian membentuk keputusan kebijakan bank sentral; Sikap dan perkataan pejabat bank sentral juga mempengaruhi tindakan para pedagang pasar.
Uang membuat dunia berputar dan mata uang adalah komoditas permanen. Pasar forex penuh dengan kejutan dan ekspektasi.
Kolumnis Teratas
Nikmati kegiatan menarik, di sini di FastBull.
Berita terbaru dan peristiwa keuangan global.
Saya memiliki pengalaman 5 tahun dalam analisis keuangan, terutama dalam aspek perkembangan makro dan penilaian tren jangka menengah dan panjang. Fokus saya terutama pada perkembangan Timur Tengah, pasar negara berkembang, batu bara, gandum, dan produk pertanian lainnya.
Saya bekerja sebagai analis di perusahaan broker forex ternama dan telah berkecimpung di industri keuangan selama 10 tahun, melibatkan forex, futures dan saham. Saya sangat ahli dalam menganalisis dan menginterpretasikan pasar menggunakan data fundamental.
Terbaru
Peringatan Risiko dalam Perdagangan Saham HK
Terlepas dari kerangka hukum dan peraturan Hong Kong yang kuat, pasar sahamnya masih menghadapi risiko dan tantangan yang unik, seperti fluktuasi mata uang karena patokan dolar Hong Kong terhadap dolar AS dan dampak perubahan kebijakan dan kondisi ekonomi Tiongkok daratan terhadap saham Hong Kong.
Biaya dan Pajak Perdagangan Saham HK
Biaya perdagangan di pasar saham Hong Kong meliputi biaya transaksi, bea materai, biaya penyelesaian, dan biaya konversi mata uang untuk investor asing. Selain itu, pajak mungkin berlaku berdasarkan peraturan setempat.
Industri Barang Konsumsi Non-Pokok HK
Pasar saham Hong Kong mencakup sektor konsumsi non-esensial seperti otomotif, pendidikan, pariwisata, katering, dan pakaian jadi. Dari 643 perusahaan yang terdaftar, 35% berasal dari Cina daratan, yang merupakan 65% dari total kapitalisasi pasar. Dengan demikian, pasar ini sangat dipengaruhi oleh ekonomi Tiongkok.
Industri Real Estat HK
Dalam beberapa tahun terakhir, pangsa sektor real estat dan konstruksi di indeks saham Hong Kong telah menurun. Namun demikian, pada tahun 2022, sektor ini masih memiliki sekitar 10% pangsa pasar, yang mencakup pengembangan real estat, teknik konstruksi, investasi, dan manajemen properti.
Hongkong, China
Vietnam Ho Chi Minh
Dubai, UAE
Nigeria Lagos
Kairo Mesir
Label putih
Data API
Web Plug-ins
Program Afiliasi
Lihat Semua
Tidak ada data
Tidak Masuk
Masuk untuk mengakses lebih banyak fitur
Anggota FastBull
Belum
Pembelian
Masuk
Daftar
Hongkong, China
Vietnam Ho Chi Minh
Dubai, UAE
Nigeria Lagos
Kairo Mesir
Label putih
Data API
Web Plug-ins
Program Afiliasi
'Bức tranh kinh doanh u ám', cổ phiếu xi măng khó làm nên chuyện
Trong bối cảnh thị trường bất động sản gặp nhiều khó khăn, khó thu hút nguồn vốn, nhiều doanh nghiệp trong các lĩnh vực liên quan cũng bị ảnh hưởng, đặc biệt phải kể đến xi măng.
Thị trường tiêu thụ khó khăn cùng nhiều yếu tố không thuận lợi đang làm cho “bệnh tình” của các doanh nghiệp xi măng khó có thể thuyên giảm trong một sớm một chiều. Cũng chính vì vậy, nhóm cổ phiếu này vẫn khó có thể làm nên chuyện trong giai đoạn cuối năm 2024.
Mùa báo cáo tài chính (BCTC) quý II/2024, nhiều doanh nghiệp xi măng báo lợi nhuận giảm, thậm chí có công ty còn thua lỗ. Có thể nói, gam màu xám đã bao trùm hầu hết các công ty xi măng trên sàn chứng khoán.
Gam màu xám của doanh nghiệp xi măng
Điển hình, quý II/2024, CTCP Xi măng Vicem Bút Sơn (BTS) báo lỗ 36,5 tỷ đồng, đánh dấu quý thứ 7 liên tiếp thua lỗ của doanh nghiệp xi măng này từ quý IV/2022.
Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024, Vicem Bút Sơn lỗ ròng 92 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ 32 tỷ đồng. Tính đến ngày ngày 30/06/2024, tổng tài sản của Vicem Bút Sơn giảm 3% so với đầu năm, còn gần 3.407 tỷ đồng.
Gam màu xám bao trùm hầu hết các công ty xi măng trên sàn chứng khoán
Hay như CTCP Xi măng Vicem Hoàng Mai (HOM) báo lãi ròng quý II/2024 đạt hơn 270 triệu đồng, xấp xỉ so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, bán niên, công ty lỗ gần 40 tỷ đồng. Tại thời điểm cuối quý II/2024, Vicem Hoàng Mai ghi nhận lỗ sau thuế chưa phân phối âm gần 65,3 tỷ đồng.
Chung cảnh ngộ, CTCP Xi măng Vicem Hà Tiên (HT1) với doanh thu thuần đạt 1.909 tỷ đồng, giảm gần 5% so với cùng kỳ. Sau khi trừ các khoản chi phí, Xi măng Hà Tiên báo lãi ròng gần 46 tỷ đồng, giảm 22% so với cùng kỳ.
Luỹ kế 6 tháng đầu năm 2024, Xi măng Hà Tiên ghi nhận 3.403 tỷ đồng doanh thu thuần, giảm 8% so với nửa đầu năm 2023. Công ty báo lãi sau thuế đạt 21 tỷ đồng do thua lỗ trong quý đầu năm, song đã cải thiện so với mức lỗ gần 27 tỷ đồng cùng kỳ năm ngoái.
Hiệp hội Xi măng Việt Nam cho biết, tổng sản lượng sản xuất xi măng 6 tháng đầu năm nay ước đạt 44 triệu tấn, tương đương cùng kỳ. Các nhà máy chỉ chạy 70 - 75% tổng công suất thiết kế, tồn kho lũy kế tới 5 triệu tấn.
Việc thị trường tiêu thụ khó khăn cùng nhiều yếu tố không thuận lợi càng làm cho mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xi măng càng trở nên gay gắt, đặc biệt ở thị trường miền Bắc và miền Trung, khu vực có hầu hết các dự án mới và có tỷ lệ xuất khẩu cao hơn.
Theo giới phân tích, trong bối cảnh thị trường bất động sản gặp nhiều khó khăn, khó thu hút nguồn vốn, nhiều doanh nghiệp trong các lĩnh vực liên quan cũng bị ảnh hưởng, đặc biệt phải kể đến xi măng.
Cùng với đó, thị trường bất động sản Trung Quốc chưa có dấu hiệu phục hồi, xi măng Trung Quốc dự báo sẽ dư thừa và cạnh tranh với xi măng Việt Nam vào các thị trường xuất khẩu ở Philippines, Trung Mỹ, Nam Phi…, thì việc “sức khỏe” doanh nghiệp nhóm xi măng suy giảm là khó tránh khỏi. Và tình trạng này có thể kéo dài tới hết năm 2024.
Khó có thể hồi phục “một sớm một chiều”
Trong bối cảnh bức tranh toàn ngành xi măng hiện vẫn còn thiếu những gam màu tươi sáng khi hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có phần đi lùi so với năm ngoái, tuy nhiên có thời điểm bộ đôi HT1 và BCC (Xi măng Bỉm Sơn) là một trong số ít cổ phiếu “vượt qua nghịch cảnh”, ghi nhận đà tăng vượt trội so với VN-Index.
Các chuyên gia cho rằng, đà tăng này “chạy trước” do kỳ vọng của dòng tiền vào việc cả 2 doanh nghiệp đã tạo đáy lợi nhuận, bởi thực tế “sức khỏe” của 2 doanh nghiệp này vẫn còn kém.
Trước khó khăn của toàn ngành, Xi măng Bỉm Sơn và Xi măng Vicem Hà Tiên đều lên kế hoạch kinh doanh một cách đầy thận trọng. Thậm chí, Xi măng Bỉm Sơn còn không dám "mơ" đến viễn cảnh có lãi mà chỉ hy vọng giảm lỗ: Doanh nghiệp đặt mục tiêu lỗ sau thuế 159 tỷ đồng.
Mặt khác, xét trên góc nhìn kỹ thuật, hai cổ phiếu HT1 và BCC đều đã xác nhận tạo đáy trên thị trường chứng khoán. Do đó, việc dòng tiền tìm đến giúp 2 cổ phiếu bật tăng tích cực dù kết quả kinh doanh vẫn kém cũng là điều dễ hiểu.
Tuy vậy, nhìn rộng hơn, nhóm cổ phiếu xi măng nói chung vẫn khó có thể làm nên chuyện trong giai đoạn cuối năm 2024.
Theo dự báo của Hiệp hội Xi măng Việt Nam, bên cạnh việc xuất khẩu xi măng và clinker sẽ gặp trở ngại do thị trường bất động sản Trung Quốc chưa phục hồi và nguồn cung xi măng Trung Quốc dư thừa như đã nêu trên, thì tại thị trường nội địa cũng ảm đạm với mức tiêu thụ khoảng 60 triệu tấn/năm, trong khi khả năng sản xuất thực tế có thể đạt tới 130 triệu tấn. Nếu không thể xuất khẩu, nguy cơ phá sản sẽ gia tăng. Ngược lại, khi kinh tế phục hồi và nhu cầu tăng, có thể xảy ra tình trạng thiếu xi măng như giai đoạn trước năm 2010.
Chủ tịch Hiệp hội Xi măng Việt Nam Nguyễn Quang Cung cho biết đầu ra của ngành xi măng tập trung chủ yếu vào đầu tư công, bất động sản và xây dựng dân dụng, trong đó đầu tư nhà nước đóng vai trò quan trọng, dẫn dắt các lĩnh vực khác cùng phát triển. Tuy nhiên, hai năm gần đây, không có nhiều dự án công nghiệp lớn được triển khai ngoài các dự án giao thông sử dụng xi măng không nhiều. Ngành xi măng đã đầu tư cho sản xuất theo quy hoạch được Chính phủ duyệt, trên cơ sở dự báo nhu cầu của các ngành, của đất nước, nhưng việc triển khai các dự án trên thực tế còn chậm, dẫn đến tiêu thụ xi măng thấp.
Nhiều ý kiến cho rằng ngành bất động sản vẫn còn nhiều thách thức, đó là nhu cầu ở các phân khúc cao cấp, nghỉ dưỡng chưa thực sự hồi phục; áp lực nợ trái phiếu tại một số doanh nghiệp còn lớn; hành lang pháp lý mới cần thời gian để “thẩm thấu” vào cuộc sống... Do đó, xi măng vẫn sẽ là nhóm ngành chịu ảnh hưởng đáng kể trong giai đoạn tới, gây tác động kém tích cực đến nhóm cổ phiếu xi măng nói chung.
Sau 3 quý liên tục thua lỗ, ngành xi măng đã trở lại “mặt đất” khi có lãi trong quý 2/2024. Liệu đây có phải khởi đầu chu kỳ tăng trưởng trở lại của ngành xi măng?
Theo số liệu thống kê từ VietstockFinance của 17 doanh nghiệp xi măng trên sàn chứng khoán đã công bố BCTC từ quý 1/2022 - 2/2024. Ngành xi măng có lãi trở lại sau 3 quý liên tục thua lỗ, đạt hơn 33 tỷ đồng, giảm 9% so với cùng kỳ; trong khi doanh thu đạt 5,935 tỷ đồng, tăng 4%.
Thời gian qua, do ảnh hưởng tình hình thế giới, chiến tranh Trung Đông ngày càng căng thẳng khó lường; trong khi thị trường bất động sản trong nước chưa thực sự khởi sắc, nguồn cung xi măng vượt xa so với nhu cầu; giá nguyên, nhiên liệu đầu vào vẫn ở mức cao. Tiêu thụ trong nước và xuất khẩu sụt giảm, tồn kho tăng cao, một số nhà máy phải giảm năng suất hoặc dừng lò đã khiến nhiều Doanh nghiệp mảng này lao đao, chìm trong thua lỗ.
Doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp xi măng từ quý 1/2022 - quý 2/2024Nguồn: VietstockFinance
Số doanh nghiệp báo lãi đã nhiều hơn
Theo thống kê, trong 17 doanh nghiệp xi măng đã công bố BCTC quý 2/2024, có 4 doanh nghiệp tăng lãi, 3 giảm, 2 lỗ chuyển lãi. Còn lại 8 doanh nghiệp đều thua lỗ với 2 doanh nghiệp lãi chuyển lỗ và 6 tiếp tục thua lỗ.
Tuy vẫn còn nhiều doanh nghiệp lỗ, nhưng số lượng doanh nghiệp báo lãi đã nhiều hơn quý đầu năm (chỉ duy nhất một doanh nghiệp báo lãi).
Dẫn đầu mức tăng trưởng là CTCP VICEM Thương mại Xi măng T với lãi ròng gần 2 tỷ đồng, tăng 30% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, lũy kế 6 tháng, lãi ròng TMX lại giảm 43%, còn hơn 1 tỷ đồng.
Xi măng Sài Sơn S cũng lãi hơn 2 tỷ đồng trong quý 2, tăng 24%, nhờ nhà máy hoạt động ổn định, chi phí nguyên vật liệu đầu vào và chi phí lãi vay giảm do SCJ đã trả vốn trung hạn. Tuy nhiên, giống TMX, lãi ròng 6 tháng SCJ chỉ hơn 2 tỷ đồng, giảm 9%.
Bất chấp nhu cầu xi măng giảm, lãi ròng quý 2 của Xi măng La Hiên VVMI C vẫn tăng 10%, đạt hơn 12 tỷ đồng, nhưng lũy kế 6 tháng, giảm 41% còn 12 tỷ đồng.
Trong bối cảnh các doanh nghiệp cùng ngành ít nhiều có vài quý thua lỗ thời gian qua, riêng CLH đã ngược dòng với duy nhất một lần báo lỗ vào quý 3/2017 (hơn 2 tỷ đồng). CLH cho biết, thị trường bất động sản quý 2/2024 trầm lắng, nhu cầu xi măng suy giảm, mặt khác mưa nhiều nên sản lượng tiêu thụ giảm, đặc biệt giá bán sản phẩm cũng giảm. Tuy nhiên, Công ty đã đưa ra các giải pháp như tăng năng suất thiết bị, tiết kiệm chi phí trong sản suất. Bên cạnh đó, việc sửa chữa các thiết bị chính chủ yếu tập trung trong quý 3/2024, Công ty cũng tiết giảm chi phí tài chính nên giúp lợi nhuận tăng.
Ngoài các doanh nghiệp có lợi nhuận tăng trưởng, còn có thêm 2 cái tên lỗ chuyển lãi là Xi măng Bỉm Sơn B gần 26 tỷ đồng (cùng kỳ lỗ hơn 5 tỷ đồng) và Xi măng Yên Bình V gần 9 tỷ đồng (cùng kỳ lỗ gần 3 tỷ đồng).
KQKD của doanh nghiệp xi măng trong quý 2/2024 (Đvt: Tỷ đồng)Nguồn: VietstockFinance
Nhưng phần lớn vẫn đang bế tắc
Việc tiếp tục lỗ hơn 36 tỷ đồng trong quý 2/2024, Xi măng VICEM Bút Sơn B nối dài chuỗi thua lỗ lên quý thứ 7 liên tiếp (từ quý 4/2022).
Không khá hơn, Xi măng VICEM Hải Vân H cũng 5 quý liên tiếp (từ quý 2/2023) với khoản lỗ ròng gần 10 tỷ đồng. HVX cho biết, sản lượng tiêu thụ xi măng quý 2 giảm gần 48 ngàn tấn (trong đó, clinker là 27.8 ngàn tấn), tương ứng giảm 31% so với cùng kỳ là nguyên nhân chính khiến lợi nhuận giảm.
Quý 2/2024 đánh dấu quý thứ 13 Xi măng Phú Thọ P thua lỗ (từ quý 1/2021), gần 9 tỷ đồng. Lũy kế 6 tháng lỗ 18 tỷ đồng. PTE cho biết, 2024 tiếp tục là một năm khó khăn đối với ngành xi măng, nhu cầu xi măng trên thị trường liên tục sụt giảm cùng với đó là sự cạnh tranh gây gắt đã khiến lợi nhuận giảm.
2 doanh nghiệp khác mới gia nhập nhóm là CTCP Khoáng sản FECON F lỗ ròng hơn 11 tỷ đồng và Xi măng Quán Triều VVMI C lỗ hơn 2 tỷ đồng; trong khi cùng kỳ năm trước lãi lần lượt hơn 5 tỷ đồng và hơn 8 tỷ đồng.
Ông trùm xi măng Hà Tiên có kết quả khả quan hơn khi lãi ròng gần 46 tỷ đồng, giảm 22%. Lãi ròng 6 tháng hơn 21 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ gần 27 tỷ đồng.
Tương tự, Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh Q cũng có lãi quý 2 hơn 27 tỷ đồng, giảm 23%. Nửa đầu năm, QNC lãi gần 33 tỷ đồng, giảm 41%.
KQKD của doanh nghiệp xi măng trong nửa đầu năm 2024 (Đvt: Tỷ đồng)Nguồn: VietstockFinance
Kết quả quý 2 và 6 tháng đầu năm 2024 đã nói lên phần nào các khó khăn, vướng mắc vẫn còn, tiếp tục bám lấy ngành xi măng. Điều này cũng không bất ngờ khi đã được các doanh nghiệp xi măng nhận định và dự báo trước với nhiều kế hoạch 2024 tiếp tục thua lỗ.
Điển hình như Xi măng Bỉm Sơn đưa kế hoạch 2024 lỗ sau thuế gần 159 tỷ đồng, Xi măng VICEM Hoàng Mai H có kế hoạch lỗ gần 104 tỷ đồng, BTS kế hoạch lỗ 111 tỷ đồng.
HT1 và SCJ có vẻ lạc quan hơn khi đặt mục tiêu lãi sau thuế lần lượt hơn 23 tỷ đồng, tăng 31% và hơn 11 tỷ đồng, tăng 42% so với năm 2023. QNC đặt lãi sau thuế đi lùi 57%, đạt 34 tỷ đồng.
Nguồn: VietstockFinance
Về sản lượng, phần lớn doanh nghiệp đều đặt kế hoạch sản xuất tăng trưởng. Trong đó, HT1 dự kiến sản xuất clinker gần 4.1 triệu tấn và xi măng 5.66 triệu tấn, lần lượt tăng 8% và 5% so với năm trước. Hay BCC đặt kế hoạch sản xuất clinker hơn 2.3 triệu tấn, tăng 35% và xi măng (bao gồm gia công) gần 3 triệu tấn, tăng 6%.
Nguồn: VietstockFinance
Chưa đủ để bắt đầu chu kỳ tăng trưởng mới
Theo Bộ Xây dựng, sản xuất clinker và xi măng sụt giảm lớn từ năm 2023 đến nay. Theo đó, tổng sản lượng sản xuất năm qua chỉ đạt 92.9 triệu tấn, tương ứng 75% tổng công suất thiết kế. Tổng sản lượng tiêu thụ 2023 đạt 87.8 triệu tấn, giảm 12% so với năm 2022.
Năm 2023, tiêu thụ xi măng trong nước chỉ đạt 56,6 triệu tấn, giảm hơn 16% năm 2022, đây là mức sụt giảm lớn nhất từ trước đến nay trong lĩnh vực xi măng.
6 tháng đầu năm 2024, tổng sản lượng tiêu thụ clinker và xi măng đạt khoảng 44 triệu tấn, tương đương cùng kỳ. Lượng clinker xuất khẩu cũng chỉ đạt khoảng 5.4 triệu tấn, gần bằng cùng kỳ năm 2023.
Sở dĩ, sản lượng xuất khẩu tiếp tục giảm là do thị trường bất động sản Trung Quốc chưa có dấu hiệu phục hồi, xi măng cũng bị dư thừa và dự báo sẽ cạnh tranh với xi măng Việt Nam vào các thị trường xuất khẩu như Philippines, Trung Mỹ, Nam Phi… Bên cạnh đó, chi phí cước vận tải biển tăng cao, cộng với các quy định về hàng rào kỹ thuật tại phần lớn thị trường xuất khẩu.
Ngoài ra, tình hình tài chính của ngành gặp khó do các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, đặc biệt các doanh nghiệp xi măng đầu tư vốn lớn. Giai đoạn đầu khi mới vận hành nhà máy, các doanh nghiệp phải trả nợ vốn vay, cộng với lãi vay cao, dẫn đến áp lực trả nợ cả gốc và lãi rất lớn. Tiêu thụ chậm, nhiều doanh nghiệp đã phải dừng một số dây chuyền sản xuất, khiến nhóm ngành xi măng sản xuất không hiệu quả, thua lỗ; chưa kể đến tình hình kinh tế thế giới đang khó lường, chiến tranh Trung Đông khắc nghiệt hơn.
Các thông tin trên cho thấy tương lai ngành xi măng vẫn đang bất định, là dấu chấm hỏi đang kiếm lời giải. Dù có nhiều doanh nghiệp có lãi hơn, nhưng như vậy là chưa đủ, chưa thể kết luận được là chu kỳ tăng trưởng mới cho triển vọng ngành xi măng thời gian tới.
Thanh Tú
FILI
Doanh nghiệp xi măng có lãi trở lại nhưng chưa đủ để khởi đầu chu kỳ tăng trưởng mới
Sau 3 quý liên tục thua lỗ, ngành xi măng đã trở lại “mặt đất” khi có lãi trong quý 2/2024. Liệu đây có phải khởi đầu chu kỳ tăng trưởng trở lại của ngành xi măng?
Theo số liệu thống kê từ VietstockFinance của 17 doanh nghiệp xi măng trên sàn chứng khoán đã công bố BCTC từ quý 1/2022 - 2/2024. Ngành xi măng có lãi trở lại sau 3 quý liên tục thua lỗ, đạt hơn 33 tỷ đồng, giảm 9% so với cùng kỳ; trong khi doanh thu đạt 5,935 tỷ đồng, tăng 4%.
Thời gian qua, do ảnh hưởng tình hình thế giới, chiến tranh Trung Đông ngày càng căng thẳng khó lường; trong khi thị trường bất động sản trong nước chưa thực sự khởi sắc, nguồn cung xi măng vượt xa so với nhu cầu; giá nguyên, nhiên liệu đầu vào vẫn ở mức cao. Tiêu thụ trong nước và xuất khẩu sụt giảm, tồn kho tăng cao, một số nhà máy phải giảm năng suất hoặc dừng lò đã khiến nhiều Doanh nghiệp mảng này lao đao, chìm trong thua lỗ.
Doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp xi măng từ quý 1/2022 - quý 2/2024
Nguồn: VietstockFinance
Số doanh nghiệp báo lãi đã nhiều hơn
Theo thống kê, trong 17 doanh nghiệp xi măng đã công bố BCTC quý 2/2024, có 4 doanh nghiệp tăng lãi, 3 giảm, 2 lỗ chuyển lãi. Còn lại 8 doanh nghiệp đều thua lỗ với 2 doanh nghiệp lãi chuyển lỗ và 6 tiếp tục thua lỗ.
Tuy vẫn còn nhiều doanh nghiệp lỗ, nhưng số lượng doanh nghiệp báo lãi đã nhiều hơn quý đầu năm (chỉ duy nhất một doanh nghiệp báo lãi).
Dẫn đầu mức tăng trưởng là CTCP VICEM Thương mại Xi măng (HNX: TMX) với lãi ròng gần 2 tỷ đồng, tăng 30% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, lũy kế 6 tháng, lãi ròng TMX lại giảm 43%, còn hơn 1 tỷ đồng.
Xi măng Sài Sơn (UPCoM: SCJ) cũng lãi hơn 2 tỷ đồng trong quý 2, tăng 24%, nhờ nhà máy hoạt động ổn định, chi phí nguyên vật liệu đầu vào và chi phí lãi vay giảm do SCJ đã trả vốn trung hạn. Tuy nhiên, giống TMX, lãi ròng 6 tháng SCJ chỉ hơn 2 tỷ đồng, giảm 9%.
Bất chấp nhu cầu xi măng giảm, lãi ròng quý 2 của Xi măng La Hiên VVMI (HNX: CLH) vẫn tăng 10%, đạt hơn 12 tỷ đồng, nhưng lũy kế 6 tháng, giảm 41% còn 12 tỷ đồng.
Trong bối cảnh các doanh nghiệp cùng ngành ít nhiều có vài quý thua lỗ thời gian qua, riêng CLH đã ngược dòng với duy nhất một lần báo lỗ vào quý 3/2017 (hơn 2 tỷ đồng). CLH cho biết, thị trường bất động sản quý 2/2024 trầm lắng, nhu cầu xi măng suy giảm, mặt khác mưa nhiều nên sản lượng tiêu thụ giảm, đặc biệt giá bán sản phẩm cũng giảm. Tuy nhiên, Công ty đã đưa ra các giải pháp như tăng năng suất thiết bị, tiết kiệm chi phí trong sản suất. Bên cạnh đó, việc sửa chữa các thiết bị chính chủ yếu tập trung trong quý 3/2024, Công ty cũng tiết giảm chi phí tài chính nên giúp lợi nhuận tăng.
Ngoài các doanh nghiệp có lợi nhuận tăng trưởng, còn có thêm 2 cái tên lỗ chuyển lãi là Xi măng Bỉm Sơn (HNX: BCC) gần 26 tỷ đồng (cùng kỳ lỗ hơn 5 tỷ đồng) và Xi măng Yên Bình (UPCoM: VCX) gần 9 tỷ đồng (cùng kỳ lỗ gần 3 tỷ đồng).
KQKD của doanh nghiệp xi măng trong quý 2/2024 (Đvt: Tỷ đồng)
Nguồn: VietstockFinance
Nhưng phần lớn vẫn đang bế tắc
Việc tiếp tục lỗ hơn 36 tỷ đồng trong quý 2/2024, Xi măng VICEM Bút Sơn (HNX: BTS) nối dài chuỗi thua lỗ lên quý thứ 7 liên tiếp (từ quý 4/2022).
Không khá hơn, Xi măng VICEM Hải Vân (HOSE: HVX) cũng 5 quý liên tiếp (từ quý 2/2023) với khoản lỗ ròng gần 10 tỷ đồng. HVX cho biết, sản lượng tiêu thụ xi măng quý 2 giảm gần 48 ngàn tấn (trong đó, clinker là 27.8 ngàn tấn), tương ứng giảm 31% so với cùng kỳ là nguyên nhân chính khiến lợi nhuận giảm.
Quý 2/2024 đánh dấu quý thứ 13 Xi măng Phú Thọ (UPCoM: PTE) thua lỗ (từ quý 1/2021), gần 9 tỷ đồng. Lũy kế 6 tháng lỗ 18 tỷ đồng. PTE cho biết, 2024 tiếp tục là một năm khó khăn đối với ngành xi măng, nhu cầu xi măng trên thị trường liên tục sụt giảm cùng với đó là sự cạnh tranh gây gắt đã khiến lợi nhuận giảm.
2 doanh nghiệp khác mới gia nhập nhóm là CTCP Khoáng sản FECON (HOSE: FCM) lỗ ròng hơn 11 tỷ đồng và Xi măng Quán Triều VVMI (UPCoM: CQT) lỗ hơn 2 tỷ đồng; trong khi cùng kỳ năm trước lãi lần lượt hơn 5 tỷ đồng và hơn 8 tỷ đồng.
Ông trùm xi măng Hà Tiên có kết quả khả quan hơn khi lãi ròng gần 46 tỷ đồng, giảm 22%. Lãi ròng 6 tháng hơn 21 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ gần 27 tỷ đồng.
Tương tự, Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh (UPCoM: QNC) cũng có lãi quý 2 hơn 27 tỷ đồng, giảm 23%. Nửa đầu năm, QNC lãi gần 33 tỷ đồng, giảm 41%.
KQKD của doanh nghiệp xi măng trong nửa đầu năm 2024 (Đvt: Tỷ đồng)
Nguồn: VietstockFinance
Kết quả quý 2 và 6 tháng đầu năm 2024 đã nói lên phần nào các khó khăn, vướng mắc vẫn còn, tiếp tục bám lấy ngành xi măng. Điều này cũng không bất ngờ khi đã được các doanh nghiệp xi măng nhận định và dự báo trước với nhiều kế hoạch 2024 tiếp tục thua lỗ.
Điển hình như Xi măng Bỉm Sơn đưa kế hoạch 2024 lỗ sau thuế gần 159 tỷ đồng, Xi măng VICEM Hoàng Mai (HNX: HOM) có kế hoạch lỗ gần 104 tỷ đồng, BTS kế hoạch lỗ 111 tỷ đồng.
HT1 và SCJ có vẻ lạc quan hơn khi đặt mục tiêu lãi sau thuế lần lượt hơn 23 tỷ đồng, tăng 31% và hơn 11 tỷ đồng, tăng 42% so với năm 2023. QNC đặt lãi sau thuế đi lùi 57%, đạt 34 tỷ đồng.
Nguồn: VietstockFinance
Về sản lượng, phần lớn doanh nghiệp đều đặt kế hoạch sản xuất tăng trưởng. Trong đó, HT1 dự kiến sản xuất clinker gần 4.1 triệu tấn và xi măng 5.66 triệu tấn, lần lượt tăng 8% và 5% so với năm trước. Hay BCC đặt kế hoạch sản xuất clinker hơn 2.3 triệu tấn, tăng 35% và xi măng (bao gồm gia công) gần 3 triệu tấn, tăng 6%.
Nguồn: VietstockFinance
Chưa đủ để bắt đầu chu kỳ tăng trưởng mới
Theo Bộ Xây dựng, sản xuất clinker và xi măng sụt giảm lớn từ năm 2023 đến nay. Theo đó, tổng sản lượng sản xuất năm qua chỉ đạt 92.9 triệu tấn, tương ứng 75% tổng công suất thiết kế. Tổng sản lượng tiêu thụ 2023 đạt 87.8 triệu tấn, giảm 12% so với năm 2022.
Năm 2023, tiêu thụ xi măng trong nước chỉ đạt 56,6 triệu tấn, giảm hơn 16% năm 2022, đây là mức sụt giảm lớn nhất từ trước đến nay trong lĩnh vực xi măng.
6 tháng đầu năm 2024, tổng sản lượng tiêu thụ clinker và xi măng đạt khoảng 44 triệu tấn, tương đương cùng kỳ. Lượng clinker xuất khẩu cũng chỉ đạt khoảng 5.4 triệu tấn, gần bằng cùng kỳ năm 2023.
Sở dĩ, sản lượng xuất khẩu tiếp tục giảm là do thị trường bất động sản Trung Quốc chưa có dấu hiệu phục hồi, xi măng cũng bị dư thừa và dự báo sẽ cạnh tranh với xi măng Việt Nam vào các thị trường xuất khẩu như Philippines, Trung Mỹ, Nam Phi… Bên cạnh đó, chi phí cước vận tải biển tăng cao, cộng với các quy định về hàng rào kỹ thuật tại phần lớn thị trường xuất khẩu.
Ngoài ra, tình hình tài chính của ngành gặp khó do các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, đặc biệt các doanh nghiệp xi măng đầu tư vốn lớn. Giai đoạn đầu khi mới vận hành nhà máy, các doanh nghiệp phải trả nợ vốn vay, cộng với lãi vay cao, dẫn đến áp lực trả nợ cả gốc và lãi rất lớn. Tiêu thụ chậm, nhiều doanh nghiệp đã phải dừng một số dây chuyền sản xuất, khiến nhóm ngành xi măng sản xuất không hiệu quả, thua lỗ; chưa kể đến tình hình kinh tế thế giới đang khó lường, chiến tranh Trung Đông khắc nghiệt hơn.
Các thông tin trên cho thấy tương lai ngành xi măng vẫn đang bất định, là dấu chấm hỏi đang kiếm lời giải. Dù có nhiều doanh nghiệp có lãi hơn, nhưng như vậy là chưa đủ, chưa thể kết luận được là chu kỳ tăng trưởng mới cho triển vọng ngành xi măng thời gian tới.
ĐHĐCĐ bất thường năm 2024 của CTCP Xi Măng Vicem Hà Tiên (HOSE: HT1) diễn ra sáng 02/08 đã thông qua miễn nhiệm chức vụ Thành viên HĐQT nhiệm kỳ 2023-2028 đối với ông Lưu Đình Cường.
HT1 tổ chức ĐHĐCĐ bất thường năm 2024 vào sáng ngày 02/08/2024. Ảnh: Thanh Tú
Đại hội thông qua việc miễn nhiệm ông Lưu Đình Cường thôi chức Thành viên HĐQT HT1. Thay vào đó ông Nguyễn Quốc Thắng được bổ sung vào vị trí này cho nhiệm kỳ 2023-2028.
Ngoài ra, ông Lưu Đình Cường cũng không còn đảm nhận chức Tổng Giám đốc do được Bộ Xây dựng bổ nhiệm làm Thành viên HĐTV Tổng Công ty Xi măng Việt Nam theo quyết định ngày 11/06/2024 của Bộ Xây dựng.
Ông Thắng giữ chức Tổng Giám đốc kiêm người đại diện pháp luật HT1 có hiệu lực từ ngày 30/07. Trước khi vào vị trí mới, ông Thắng giữ chức Phó Tổng Giám đốc Công ty.
Ông Thắng (cầm bông) được bầu làm Thành viên HĐQT HT1 nhiệm kỳ 2023-2028. Ảnh: Thanh Tú
Ông Thắng có trình độ chuyên môn là Kỹ sư cơ khí, Thạc sĩ Quản trị kinh doanh. Tân Tổng Giám đốc HT1 bắt đầu tham gia vào Công ty với vị trí nhân viên kỹ thuật từ năm 2002 và lên Phó Tổng Giám đốc vào cuối năm 2023 trước khi làm Tổng Giám đốc như hiện nay. Ngoài vị trí mới, ông Thắng hiện còn đang là Giám đốc tại Nhà máy xi măng Bình Phước, Ủy viên Ban thường vụ Đảng ủy.
Còn cựu Tổng Giám đốc HT1 Lưu Đình Cường giữ chức Thành viên HĐQT kiêm Tổng Giám đốc từ tháng 04/2018. Như vậy, ông Cường đã rời vị trí trên sau hơn 6 năm đảm nhận.
Về hoạt động kinh doanh, Xi Măng Hà Tiên đạt doanh thu thuần quý 2 gần 1,909 tỷ đồng, lãi ròng gần 46 tỷ đồng, lần lượt giảm 5% và 22% so với cùng kỳ năm trước.
Lãi sau thuế HT1 từ quý 1/2020 - quý 2/2024
Dù lãi giảm, nhưng kết quả này của HT1 được xem là khả quan trong bối cảnh ngành xi măng đang ở thời điểm khó khăn nhất khi nguồn cung xi măng trong nước vượt xa so với nhu cầu, chưa kể việc giá vật liệu tăng cao hay phải cạnh tranh với các xi măng giá rẻ từ Trung Quốc và là điểm sáng khi nhiều doanh nghiệp trong ngành vẫn đang tiếp tục thua lỗ.
Điển hình như Xi măng VICEM Bút Sơn B nối dài chuỗi thua lỗ lên quý thứ 7 liên tiếp trong quý 2 (lỗ ròng hơn 36 tỷ đồng). Hay không ghi nhận doanh thu từ bán clinker, Xi măng VICEM Hải Vân H vẫn tiếp tục thua lỗ quý thứ 5 liên tiếp trong quý 2 (lỗ gần 10 tỷ đồng).
Lũy kế 6 tháng đầu năm, HT1 mang về doanh thu hơn 3,403 tỷ đồng, giảm 8%; tuy nhiên, lãi ròng đạt hơn 21 tỷ đồng (cùng kỳ lỗ gần 27 tỷ đồng).
Năm 2024, HT1 lên kế hoạch sản xuất kinh doanh với tổng doanh thu 7,032 tỷ đồng, giảm nhẹ 0.3% so với năm 2023; lãi sau thuế hơn 23 tỷ đồng, tăng 29%. Trong đó, sản xuất, tiêu thụ và gia công xi măng đạt hơn 5.6 triệu tấn, tăng 5.4% so với 2023.
Như vậy, Doanh nghiệp đã thực hiện được 49% chỉ tiêu doanh thu, và gần hoàn thành mục tiêu lãi sau thuế khi đạt tới 92% sau 6 tháng.
Hầu hết lãnh đạo doanh nghiệp ngành xi măng nhận định sản lượng xuất khẩu xi măng của Việt Nam năm 2024 khó có khả năng tăng trưởng so với năm 2023, do cạnh tranh nguồn xuất từ Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và một số nước khác trong khu vực. Do đó, nhiều doanh nghiệp đặt kế hoạch bi quan.
Trong đó, Xi măng Bỉm Sơn B đưa kế hoạch 2024 với mức lỗ sau thuế gần 159 tỷ đồng; Xi măng VICEM Hoàng Mai H đặt kế hoạch lỗ gần 104 tỷ đồng; BTS có kế hoạch lỗ 111 tỷ đồng. Xi măng Hà Tiên là một trong số ít doanh nghiệp đặt kế hoạch lợi nhuận tăng trưởng trong năm 2024.
Ông Hà Quang Hiện - Chủ tịch HĐQT CTCP Logistics Vicem H đánh giá ngành xi măng trong hơn 120 năm qua chưa bao giờ khó khăn về công tác tiêu thụ như hiện nay. Hầu hết đơn vị xi măng đang rất khó khăn và đa phần kinh doanh thua lỗ. Ông Lưu Đình Cường – cựu Tổng Giám đốc HT1 cho rằng không thể đoán được khi nào ngành xi măng sẽ phục hồi, vì còn phụ thuộc rất lớn vào tình hình vĩ mô, kinh tế thế giới. Qua đó, cho thấy phía trước ngành xi măng đang còn rất mù mờ, bất định.
Thanh Tú
FILI
Báo cáo phân tích ngành xi măng 2024
Ở Việt Nam, xi măng là ngành công nghiệp phát triển sớm nhất( do người Pháp mang công nghệ và kĩ thuật sang đặt nền móng), từ năm 1900 tại Hải Phòng. Hải Phòng cũng là cái nôi của ngành xi măng Việt Nam hiện nay.
I. Lịch sử ngành xi măng ở Việt Nam
Hiện nay năng lực sản xuất xi măng trong nước của Việt Nam vào khoảng trên 100 triệu tấn. Một số nhà máy lớn:
Xi măng Long Sơn: 10.5 triệu tấn/năm ( Chưa lên sàn )
Xi măng The Vissai: 10 triệu tấn/năm ( Chưa lên sàn )
Xi măng Insee(Vicem Hà Tiên): 10,2 triệu tấn/năm ( Mã chứng khoán: HT1 )
Xi măng Vicem Hoàng Thạch: 6,2 triệu tấn/năm (Tx Kinh Môn, Hải Dương)
Xi măng Nghi Sơn: 4,3 triệu tấn/năm (Tĩnh Gia, Thanh Hóa)
Xi măng Bỉm Sơn: 3,8 triệu tấn/năm (Thanh Hóa) ( Mã chứng khoán:BCC )
Xi măng Lộc Sơn - Đài Loan (Ninh Bình): 3,6 triệu tấn/năm
Xi măng Vinaconex Yên Bình: 3,5 triệu tấn/năm (Yên Bình, Yên Bái) ( Mã chứng khoán: VCX )
Xi măng Cẩm Phả: 2,3 triệu tấn/năm ( Chưa niêm yết )
Xi măng Tân Thắng: 2 triệu tấn/năm ( Chưa niêm yết )
Xi măng Tam Điệp: 1,4 triệu tấn/năm ( Chưa niêm yết )
“… Khó khăn từ tình hình tiêu thụ bão hòa và dư thừa công suất trong thời gian gần đây dẫn tới áp lực cạnh tranh gay gắt trong ngành xi măng và buộc các doanh nghiệp phải đi sâu vào cải tiến về công nghệ & kỹ thuật sản xuất. Về dài hạn, tiêu thụ xi măng được dự báo sẽ tiếp tục phát triển ổn định vì đây vẫn là nhu cầu thiết yếu và khó thay thế đối với nền kinh thế giới. Tuy nhiên, mức độ phân hóa giữa các thị trường sẽ lớn hơn và thể hiện rõ hơn trong giai đoạn 2024– 2030….”
Hình thành các rào cản gia nhập ngành xi măng trong nước giúp giảm bớt áp lực cạnh tranh trong ngành. Chính phủ đang ngày càng siết chặt các điều kiện cấp phép đầu tư đối với các dự án xi măng mới và hạn chế nguồn cung thông qua việc tăng các loại thuế, phí trong ngành. Dự báo trong giai đoạn 2023E – 2030F, tăng trưởng về tiêu thụ và sản xuất xi măng ở Việt Nam lần lượt ở mức 2,4%/năm và 2,8%/năm, với công suất huy động toàn ngành duy trì trên mức 90%. Nguồn cung xi măng từ các dự án xi măng mới giảm dần và hiệu quả sản xuất trong ngành được cải thiện sẽ hỗ trợ tích cực cho các doanh nghiệp trong nước phát triển ổn định trong các năm tới.
1. Chuỗi giá trị ngành xi măng
2. Quy trình sản xuất xi măng
Quy trình sản xuất xi măng Công nghệ sản xuất chính Có 3 công nghệ sản xuất xi măng chính trên thế giới là công nghệ sản xuất lò đứng, lò quay ướt và lò quay khô. Tuy nhiên cho tới thời điểm hiện tại, ~92% số nhà máy đang hoạt động đã chuyển sang sử dụng hoàn toàn công nghệ lò quay khô, hiện là công nghệ sản xuất tối ưu và hiệu quả nhất trong ngành, với ~8% các nhà máy còn lại sử dụng công nghệ lò đứng. Riêng công nghệ sản xuất lò quay ướt có rất nhiều nhược điểm so với cả hai công nghệ kể trên nên đã sớm bị loại bỏ hoàn toàn ở các nước. Nhìn chung, công nghệ sản xuất hiện tại hầu hết đang tương đồng giữa các nhà máy xi măng trên thế giới.
Quy trình sản xuất Tất cả các công nghệ sản xuất xi măng đều có chung một quy trình sản xuất tương đối đơn giản và tương đồng với nhau, chủ yếu được phân thành 4 công đoạn chính: Trong 4 công đoạn sản xuất trên, công đoạn đốt nóng nguyên liệu là công đoạn tốn kém nhất về chi phí (chiếm khoảng 40 - 50% chi phí của cả 4 công đoạn) vì tiêu hao một lượng nhiệt rất lớn trong quá trình đốt và sử dụng đến những máy móc có giá trị chính trong nhà máy như lò nung và máy làm nguội clinker.
3. Các sản phẩm đầu ra
Phân loại xi măng trên thị trường: Sản phẩm đầu ra của ngành xi măng được phân ra làm 3 nhóm chính theo các tiêu chí: hình thức sản phẩm, thành phần cấu tạo và tiêu chuẩn chịu lực (chi tiết tại bảng dưới). Theo đó, cách gọi tên của mỗi sản phẩm xi măng sẽ theo thứ tự gồm: Hình thức sản phẩm + Thành phần cấu tạo + Tiêu chuẩn chịu lực (ví dụ: Xi măng bao Pốc-lăng hỗn hợp Mác 30 hoặc có thể viết tắt thành Xi măng bao PCB 30).
Phân loại các sản phẩm xi măng trong ngành
Ảnh các sản phẩm đầu ra trong ngành xi măng
II. Điểm lại Ngành Xi măng trong năm 2023
1. Tình hình nguồn cung và nhu cầu trong nước
Trong 10 tỉnh thành tiêu thụ xi măng lớn, khu vực miền Bắc và miền Trung đều nằm trong top đầu, cách biệt hơn hẳn so với các tỉnh thành còn lại. Điều đó cho thấy các khu vực đó có sản lượng tiêu thụ xi măng nội địa của nhà sản xuất lớn nhất cả nước.
Tìm hiểu chi tiết về sản lượng tiêu thụ và nguyên nhân Hà Nam, Thanh Hóa, Nghệ An có sản lượng tiêu thụ nội địa của nhà sản xuất lớn nhất.
Tình hình nguồn cung và nhu cầu của ngành xi măng trong năm 2023 đều chững lại khi sản xuất trong nước giảm 12.5% trong khi tổng cầu cũng giảm 5.8%.
2. Tình hình xuất khẩu:
Trong năm 2023, sản lượng xuất khẩu xi măng tại Việt Nam đạt 19,56 triệu tấn, tăng 22% so với tổng sản lượng xuất khẩu xi măng trong năm 2022.
Mặc dù vậy, tình hình xuất khẩu xi măng vẫn được đánh giá yếu do nhu cầu nhiều thị trường chưa hồi phục. Cụ thể tình hình xuất khẩu xi măng từ Việt Nam sang Trung Quốc giảm đến hơn 90%. Để hạn chế phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, Việt Nam đang chuyển dịch thị trường xuất khẩu xi măng sang Bangladesh, Philippines và các quốc gia khác.
Không chỉ hạn chế phụ thuộc xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc, Việt Nam còn phải cạnh tranh gay gắt với đất nước tỷ dân này khi Trung Quốc hiện nay cũng đẩy mạnh xuất khẩu xi măng sang các thị trường mua nhiều xi măng của Việt Nam. Làm cho cạnh tranh giá cả tại thị trường xuất khẩu xi măng trở nên khốc liệt hơn.
III. Triển vọng ngành xi măng năm 2024
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, quý 1/2024, toàn ngành Xi măng xuất khẩu khoảng 7,9 triệu tấn sản phẩm, thu về 298 triệu USD, sản lượng bằng với cùng kỳ năm trước nhưng trị giá giảm 11,7%. Đáng chú ý, đà giảm xuất khẩu của mặt hàng này đã kéo dài sang năm thứ 3.
Theo các bên, Hiệp hội Xi măng Việt Nam (VNCA) dự báo xuất khẩu Xi măng, clinker trong năm nay tiếp tục gặp khó, bởi thị trường Bất động sản Trung Quốc chưa có dấu hiệu phục hồi, Xi măng Trung Quốc cũng bị dư thừa và dự báo sẽ cạnh tranh với Xi măng Việt Nam vào các thị trường xuất khẩu như Philippines, Trung Mỹ, Nam Phi…
Trong khi đó, nguồn cung Xi măng tiếp tục vượt cao so với nhu cầu. Hiện công suất thiết kế của các nhà máy Xi măng ở Việt Nam lên đến 120 triệu tấn/năm, trong khi nhu cầu Xi măng chỉ khoảng 65 triệu tấn, điều này dẫn tới cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
Cùng với mức tăng trưởng trái chiều trên kênh xuất khẩu, điều này sẽ làm gia tăng cạnh tranh trong nước. Trình trạng này đặc biệt xảy ra tại thị trường miền Bắc và miền Trung, khu vực có hầu hết các dự án mới và có tỷ lệ xuất khẩu cao hơn.
Hiện, một số doanh nghiệp đang mở rộng thị trường, chuyển hướng sang các khu vực như Mỹ, Australia, Bắc Mỹ, Nam Mỹ và châu Phi nhằm giảm sự phụ thuộc vào một số thị trường truyền thống như Trung Quốc, Philippines...
Chúng tôi cho rằng sản lượng tiêu thụ sẽ chạm đáy trong quý đầu năm 2024 và dần phục hồi trở lại trong thời gian tới. Cụ thể, đơn vị này dự báo mức tiêu thụ Xi măng trong quý 1/2024 sẽ ở mức thấp kể từ quý 3/2021 do các yếu tố mùa vụ như nghỉ Tết Nguyên đán và nhu cầu vẫn ở mức yếu.Tuy nhiên, kể từ quý 2/2024, sản lượng Xi măng bán ra sẽ cải thiện so với cùng kỳ nhờ hoạt động xây dựng có dấu hiệu phục hồi. Ngoài ra, các dự án đầu tư công lớn như sân bay Long Thành và các dự án đường cao tốc ở miền Trung và miền Nam có thể bù đắp nhu cầu yếu trong năm 2024.
Về xuất khẩu: Chúng tôi cho rằng tăng trưởng ở thị trường xuất khẩu có phần hạn chế do Trung Quốc giảm nhập khẩu Xi măng của Việt Nam. Ngược lại, Bangladesh là thị trường ghi nhận tăng trưởng khi xuất khẩu Xi măng và clinker sang nước này tăng 40% so với cùng kỳ nhờ tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng.
Chúng tôi kỳ vọng biên lợi nhuận gộp của các doanh nghiệp sản xuất Xi măng sẽ chạm đáy trong quý 1/2024, sau đó cải thiện dần trong các quý tiếp theo. Tuy nhiên, lợi nhuận có thể sẽ vẫn yếu (thấp hơn năm 2022) do sản lượng tiêu thụ phục hồi chậm và chi phí quản lý và bán hàng không thay đổi.
Lỗ đậm, Vicem Hoàng Mai nói do 2 nguyên nhân này
Các yếu tố ngoại cảnh không thuận lợi đã khiến lợi nhuận của HOM lao dốc.
2023 là năm đầu tiên Vicem Hoàng Mai lỗ sau thuế kể từ năm 2016. Doanh nghiệp nói lỗ do nhu cầu tiêu thụ nội địa sụt giảm, giá bán giảm cùng với xuất khẩu gặp khó.
Công ty cổ phần Xi măng Vicem Hoàng Mai (mã chứng khoán: HOM) mới công bố báo cáo kiểm toán năm 2023. Số liệu cho thấy năm 2023 doanh nghiệp lỗ sau thuế 31,1 tỷ đồng, trong khi năm 2022 vẫn lãi 21,3 tỷ đồng.
Năm 2023, doanh thu thuần của doanh nghiệp ở mức 1.738,2 tỷ đồng, giảm 15,9% so với năm 2022. Giá vốn hàng bán trong năm 2023 ở mức 1.458 tỷ đồng, giảm 14,4% so với cùng kỳ. Điều này khiến lợi nhuận gộp của doanh nghiệp chỉ đạt 280,1 tỷ đồng, giảm tới 23%.
Các chi phí của doanh nghiệp như chi phí tài chính, chi phí bán hàng hầu như không đổi. Chỉ trừ chi phí quản lý doanh nghiệp giảm 16,2% so với năm 2022. Do vậy năm 2023, công ty xi măng này lỗ thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh 33,7 tỷ đồng, còn năm 2022 lãi 25,8 tỷ đồng.
Giải trình về việc chuyển từ lãi sang lỗ, nguyên nhân đầu tiên được Vicem Hoàng Mai nêu ra là kinh tế toàn cầu suy giảm khiến sản xuất, xuất khẩu gặp nhiều khó khăn.
Nguyên nhân thứ hai là nhu cầu thị trường xi măng trong nước suy giảm do thị trường bất động sản chưa có dấu hiệu phục hồi. Các công trình dự án chậm triển khai, thậm chí phải giãn. Bên cạnh đó nguồn cung vượt xa cầu làm cạnh tranh thị trường nội địa ngày càng gay gắt.
Yếu tố về thị trường làm sản lượng tiêu thụ năm 2023 giảm mạnh 136.00 tấn so với mức thực hiện năm 2022, dẫn đến lợi nhuận giảm 36,4 tỷ đồng.
Nhu cầu sản lượng tiêu thụ giảm làm sản lượng sản xuất xi măng năm 2023 giảm 118.000 tấn, sản lượng sản xuất clinker năm 2023 giảm 97.000 tấn so với cùng kỳ.
Không chỉ giảm về sản lượng, giá bán sản phẩm của doanh nghiệp cũng giảm so với năm trước. Theo đó, giá xi măng xuất khẩu năm 2023 bình quân giảm 50.938 đồng/tấn so với năm 2022. Giá thu về xi măng nội địa giảm 47.327 đồng/tấn.
Công ty giải thích thêm, giá chi phí nguyên liệu đầu vào như than, điện, phụ gia,… cũng tăng khiến giảm lợi nhuận so với năm trước đó. Chỉ tính riêng giá than tăng 15 đồng/kcal là lợi nhuận giảm 15,6 tỷ đồng so với cùng kỳ.
Đơn vị này còn nhấn mạnh EVN điều chỉnh tăng giá điện 2 lần, cụ thể giá điện bình quân tăng 3% từ ngày 4/5/2023 và tăng tiếp 4,5% từ ngày 9/11/2023 làm lợi nhuận giảm 3,2 tỷ đồng.
Tuy nhiên trước đó, trong báo cáo quý IV/2023, nói về tác động từ việc tăng giá điện, Vicem Hoàng Mai cho biết trong năm 2023, EVN tăng giá điện 2 lần, làm lợi nhuận giảm 2,8 tỷ đồng.
Dù đã có nhiều chính sách tháo gỡ vướng mắc cho thị trường bất động sản nhưng vẫn chưa tác động nhiều đến các doanh nghiệp ngành xi măng. Kết quả kinh doanh với gam màu tối trong quý 4/2023 cho thấy, nhiều doanh nghiệp xi măng vẫn loay hoay tìm lối thoát.
Đua nhau lập kỷ lục về đáy
Thống kê từ VietstockFinance, trong 17 doanh nghiệp xi măng trên sàn chứng khoán đã công bố BCTC quý 4/2023, chỉ có 3 doanh nghiệp lãi tăng và 1 doanh nghiệp lỗ chuyển lãi. Còn lại 13 doanh nghiệp (chiếm 76%) có kết quả kinh doanh không mấy khả quan, gồm: 3 giảm lãi, 5 lãi chuyển lỗ và 5 tiếp tục thua lỗ.
Tổng doanh thu của ngành trong quý 4 giảm 22% so với cùng kỳ, còn 5,484 tỷ đồng. Toàn bộ 17 doanh nghiệp đều giảm. Kết quả lợi nhuận ròng âm 124 tỷ đồng, cùng kỳ lãi 100 tỷ đồng.
Nguồn: VietstockFinance
2023 có lẽ là năm đáng buồn nhất của Xi măng Bỉm Sơn khi lỗ kỷ lục gần 194 tỷ đồng, cùng kỳ lãi 69 tỷ đồng. Tính riêng quý 4, BCC lỗ gần 86 tỷ đồng (chiếm 44% tổng thua lỗ năm 2023).
Lãi ròng BCC từ năm 2006 - 2023
Khó khăn tiếp tục bủa vây Xi măng VICEM Bút Sơn khi lỗ hơn 32 tỷ đồng trong quý 4/2023. Đây là quý thứ 5 liên tiếp doanh nghiệp này kinh doanh thua lỗ, tính từ quý 4/2022.
BTS cho biết, sản lượng tiêu thụ trong quý 4/2023 giảm gần 69 ngàn tấn so với cùng kỳ, khiến lợi nhuận Công ty giảm.
Với việc cả 4 quý không có lợi nhuận, lũy kế cả năm 2023, BTS lỗ hơn 96 tỷ đồng, cùng kỳ lãi gần 54 tỷ đồng. Đây cũng là kết quả kinh doanh tệ nhất của BTS từ năm 2014.
Lãi ròng BTS từ 2014 - 2023
Sau quý 2 và 3 đều thua lỗ, Xi măng VICEM Hải Vân tiếp tục lỗ trong quý 4/2023 với gần 30 tỷ đồng, cùng kỳ lãi gần 250 triệu đồng. Đây là quý HVX kinh doanh tệ nhất kể từ khi niêm yết trên sàn HOSE vào năm 2010.
Xi măng VICEM Hải Vân cho biết, do nhu cầu thị trường xây dựng về xi măng trên địa bàn miền Trung và Tây Nguyên thấp trong quý 4/2023, khiến tổng doanh thu chỉ đạt 56% so với cùng kỳ.
Lũy kế cả năm 2023, Xi măng VICEM Hải Vân đạt doanh thu 512 tỷ đồng, giảm 32%; lỗ hơn 64 tỷ đồng, cùng kỳ lãi gần 2 tỷ đồng. Với kết quả này, thêm một kỷ lục không đáng có nữa được thiết lập khi 2023 là năm HVX lỗ nặng nhất kể từ năm 2010.
Lãi ròng HVX từ 2010 - 2023
Không khá hơn các doanh nghiệp trong ngành, Xi măng VICEM Hoàng Mai cũng lỗ hơn 5 tỷ đồng, cùng kỳ lãi hơn 6 tỷ đồng. Đây cũng là quý thứ 2 liên tiếp HOM lỗ (quý 3/2023 lỗ hơn 26 tỷ đồng).
HOM cho biết, giá bán xi măng nội địa và xuất khẩu trong kỳ lần lượt giảm 72 ngàn đồng/tấn và 113 ngàn đồng/tấn so với cùng kỳ. Đồng thời, giá thu về clinker cũng giảm 135 ngàn đồng/tấn. Bên cạnh đó, giá điện năm 2023 tăng 2 lần (tăng 3% vào ngày 4/5 và 4.5% vào ngày 9/11) cũng làm thu hẹp lợi nhuận của HOM.
Khép lại năm 2023, HOM đạt doanh thu hơn 1,738 tỷ đồng, giảm 16% và lỗ hơn 31 tỷ đồng (cùng kỳ lãi trên 21 tỷ đồng). Kết quả này cũng tệ nhất và là lần đầu tiên HOM lỗ từ khi niêm yết trên HNX năm 2009.
Lãi ròng HOM từ 2009 - 2023
Rực sáng giữa vườn hoa đỏ
Mặc dù doanh thu thuần quý 4/2023 đạt gần 205 tỷ đồng, giảm 6% so với cùng kỳ, nhưng nhờ giá vốn và cắt giảm hầu hết chi phí nên Xi măng Quán Triều VVMI lãi quý 4 gần 18 tỷ đồng, gấp 2.6 lần cùng kỳ. Với kết quả này, CQT là doanh nghiệp có lợi nhuận tăng mạnh nhất ngành trong quý 4.
Tuy vậy, khép lại năm 2023, CQT chỉ đạt doanh thu 618 tỷ đồng và lãi ròng gần 28 tỷ đồng, lần lượt giảm 14% và 42%.
Xếp ngay sau là Xi măng Yên Bình với mức lãi hơn 12 tỷ đồng, tăng 12% so với cùng kỳ, nhờ phát sinh gần 16 tỷ đồng từ khoản thu nhập khác (phạt do vi phạm hợp đồng).
Quý 4, dù doanh thu giảm 11%, lợi nhuận ròng của Xi măng La Hiên VVMI vẫn tăng 11%, đạt hơn 17 tỷ đồng, nhờ giá vốn hàng bán giảm. Lũy kế cả năm, doanh thu của CLH hơn 659 tỷ đồng và lãi sau thuế hơn 47 tỷ đồng, lần lượt giảm 19% và 16% so với năm trước.
KQKD quý 4/2023 của các doanh nghiệp xi măngĐvt: Tỷ đồng
Nguồn: VietstockFinanceDoanh nghiệp đạt doanh thu ngàn tỷ trong năm 2023
Thống kê từ VietstockFinance, tổng doanh thu của 17 doanh nghiệp xi măng trong năm 2023 đạt 21,190 tỷ đồng, giảm 19% so với cùng kỳ năm 2022; kết quả cuối cùng đáng thất vọng với khoản lỗ 353 tỷ đồng, trong khi năm trước đó lãi 506 tỷ đồng.
Chỉ có 6/17 doanh nghiệp xi măng đạt doanh thu trên 1 ngàn tỷ đồng trong năm 2023, gồm: Xi Măng Vicem Hà Tiên (HOSE: HT1), BCC, BTS, HOM, Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh (UPCoM: QNC) và Xi măng Sài Sơn với tổng doanh thu đạt 17,040 tỷ đồng, chiếm 80%.
Nguồn: VietstockFinance
Doanh thu trên ngàn tỷ là vậy, nhưng năm 2023 khó khăn vừa qua khiến 6 doanh nghiệp này lỗ tới 221 tỷ đồng (chiếm 63% tổng thua lỗ ngành). Đáng nói, BCC lỗ nặng nhất với gần 194 tỷ đồng, chiếm hơn phân nửa tổng thua lỗ toàn ngành.
Nguồn: VietstockFinance
Ông lớn HT1 cũng không tránh khỏi quý ảm đạm khi doanh thu cả năm 2023 đạt 7,049 tỷ đồng, giảm 21%; lãi ròng vỏn vẹn 17 tỷ đồng, giảm mạnh 93%.
So với kế hoạch đề ra, HT1 mới hoàn thành được 78% chỉ tiêu doanh thu và 6% lãi sau thuế. 2023 cũng là năm ông lớn xi măng này có kết quả tệ nhất từ 2014.
KQKD năm 2023 của các doanh nghiệp xi măngĐvt: Tỷ đồng
Nguồn: VietstockFinanceLối đi nào cho ngành xi măng năm 2024?
Ông Lê Nam Khánh - Tổng Giám đốc VICEM nhận định, năm 2023 là năm khó khăn chưa từng có, ảnh hưởng bởi tình hình thế giới, thị trường bất động sản chưa có dấu hiệu phục hồi, nguồn cung xi măng vượt xa so với cầu; giá nguyên, nhiên liệu đầu vào cho sản xuất xi măng vẫn ở mức cao.
Cùng với đó, tiêu thụ xi măng trong nước và xuất khẩu sụt giảm, tồn kho tăng cao, một số nhà máy phải giảm năng suất hoặc dừng lò để hạn chế đổ clinker ra bãi, làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Xu hướng dịch chuyển nhu cầu từ xi măng bao sang xi măng rời tăng, giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của VICEM do giá trị thương hiệu gắn với xi măng bao.
Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, năm 2023, ngành xi măng đã xuất khẩu hơn 31.3 triệu tấn clinker và xi măng, tương đương hơn 1.32 tỷ USD, giảm hơn 1% về lượng, giảm hơn 4% về trị giá so với năm 2022.
Trong báo cáo triển vọng ngành xi măng năm 2024, SSI Research dự báo quý 1/2024, mức tiêu thụ xi măng trong nước sẽ ở mức thấp (chạm đáy) kể từ quý 3/2021, do vừa nghỉ tết Nguyên đán và nhu cầu vẫn ở mức yếu. Tuy nhiên, từ quý 2/2024, sản lượng xi măng bán ra được kỳ vọng sẽ cải thiện so với cùng kỳ, nhờ hoạt động xây dựng có dấu hiệu phục hồi.
Ngoài ra, các dự án đầu tư công lớn như sân bay Long Thành và các dự án đường cao tốc ở miền Trung và Nam có thể bù đắp nhu cầu yếu trong năm 2024.
Tăng trưởng ở thị trường xuất khẩu có phần hạn chế do Trung Quốc giảm nhập khẩu xi măng của Việt Nam. Năm 2023, xuất khẩu xi măng và clinker gần như đi ngang (giảm 1% so với cùng kỳ) do Trung Quốc giảm nhập khẩu 90% vì nhu cầu trên thị trường bất động sản yếu.
Ngược lại, Bangladesh là thị trường tăng trưởng khi xuất khẩu xi măng và clinker sang nước này tăng 40%, nhờ tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng.
Theo SSI Research, quý 4/2023, giá than trung bình ở châu Âu giảm hơn một nửa so với cùng kỳ, xuống 120 USD/tấn; giá than ở Úc giảm 65%, xuống 136 USD/tấn; giá than ở Trung Quốc giảm 35%, xuống 123 USD/tấn.
Trong nửa đầu năm 2024, SSI Research cho rằng, giá than sẽ duy trì ổn định như hiện tại khi mùa đông ở Bắc bán cầu đến gần (và các biện pháp trừng phạt đối với Nga vẫn có hiệu lực), giúp cân bằng với áp lực giảm từ giá dầu khí. Do đó, giá than đầu vào trung bình cho các doanh nghiệp sản xuất xi măng sẽ giảm trong năm 2024, do mức nền giá cao được thiết lập vào nửa đầu năm 2023. Vì vậy, biên lợi nhuận gộp của các doanh nghiệp sản xuất xi măng được kỳ vọng sẽ chạm đáy trong quý 1/2024, sau đó cải thiện ở các quý tiếp theo.
Thanh Tú
FILI
Label putih
Data API
Web Plug-ins
Pembuat Poster
Program Afiliasi
Berdagang Instrumen Keuangan Seperti Saham, Mata Uang, Komoditas, Kontrak Berjangka, Obligasi, Dana, Atau Mata Uang Kripto Adalah Perilaku Berisiko Tinggi, Termasuk Kehilangan Sebagian Atau Seluruh Jumlah Investasi Anda, Sehingga Perdagangan Tidak Cocok Untuk Semua Investor.
Anda Harus Melakukan Uji Tuntas Anda Sendiri, Menggunakan Penilaian Anda Sendiri, Dan Berkonsultasi Dengan Penasihat Yang Memenuhi Syarat Saat Membuat Keputusan Keuangan Apa Pun. Konten Situs Web Ini Tidak Ditujukan Kepada Anda, Situasi Keuangan Atau Kebutuhan Anda Juga Tidak Diperhitungkan. Informasi Yang Terdapat Di Situs Web Ini Belum Tentu Tersedia Secara Waktu Nyata, Juga Belum Tentu Akurat. Setiap Pesanan Atau Keputusan Keuangan Lainnya Yang Anda Buat Sepenuhnya Menjadi Tanggung Jawab Anda Dan Anda Tidak Boleh Bergantung Pada Informasi Apa Pun Yang Disediakan Melalui Situs Web. Kami Tidak Memberikan Jaminan Apa Pun Untuk Informasi Apa Pun Di Situs Web Dan Tidak Bertanggung Jawab Atas Kerugian Transaksi Apa Pun Yang Mungkin Timbul Dari Penggunaan Informasi Apa Pun Di Situs Web.
Dilarang Menggunakan, Menyimpan, Menggandakan, Menampilkan, Memodifikasi, Menyebarluaskan Atau Mendistribusikan Data Yang Terdapat Dalam Situs Web Ini Tanpa Izin Tertulis Dari Situs Web Ini. Semua Hak Kekayaan Intelektual Dilindungi Oleh Pemasok Dan Bursa Yang Menyediakan Data Yang Terdapat Di Situs Web Ini.