Kutipan
Berita
Analisis
Pengguna
24/7
Kalender Ekonomi
Pendidikan
Data
- Nama
- Nilai Terbaru
- Sblm.
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
S:--
P: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
S:--
P: --
--
P: --
S: --
S:--
P: --
--
P: --
S: --
S:--
P: --
S:--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
Tidak Ada Data Yang Cocok
Opini Terbaru
Opini Terbaru
Topik Populer
Untuk mempelajari dinamika pasar dengan cepat dan mengikuti fokus pasar dalam 15 menit.
Di dunia umat manusia, tidak akan ada pernyataan tanpa pendirian apa pun, dan tidak akan ada ucapan tanpa tujuan apa pun.
Inflasi, nilai tukar, dan perekonomian membentuk keputusan kebijakan bank sentral; Sikap dan perkataan pejabat bank sentral juga mempengaruhi tindakan para pedagang pasar.
Uang membuat dunia berputar dan mata uang adalah komoditas permanen. Pasar forex penuh dengan kejutan dan ekspektasi.
Kolumnis Teratas
Nikmati kegiatan menarik, di sini di FastBull.
Berita terbaru dan peristiwa keuangan global.
Saya memiliki pengalaman 5 tahun dalam analisis keuangan, terutama dalam aspek perkembangan makro dan penilaian tren jangka menengah dan panjang. Fokus saya terutama pada perkembangan Timur Tengah, pasar negara berkembang, batu bara, gandum, dan produk pertanian lainnya.
Saya bekerja sebagai analis di perusahaan broker forex ternama dan telah berkecimpung di industri keuangan selama 10 tahun, melibatkan forex, futures dan saham. Saya sangat ahli dalam menganalisis dan menginterpretasikan pasar menggunakan data fundamental.
Terbaru
Peringatan Risiko dalam Perdagangan Saham HK
Terlepas dari kerangka hukum dan peraturan Hong Kong yang kuat, pasar sahamnya masih menghadapi risiko dan tantangan yang unik, seperti fluktuasi mata uang karena patokan dolar Hong Kong terhadap dolar AS dan dampak perubahan kebijakan dan kondisi ekonomi Tiongkok daratan terhadap saham Hong Kong.
Biaya dan Pajak Perdagangan Saham HK
Biaya perdagangan di pasar saham Hong Kong meliputi biaya transaksi, bea materai, biaya penyelesaian, dan biaya konversi mata uang untuk investor asing. Selain itu, pajak mungkin berlaku berdasarkan peraturan setempat.
Industri Barang Konsumsi Non-Pokok HK
Pasar saham Hong Kong mencakup sektor konsumsi non-esensial seperti otomotif, pendidikan, pariwisata, katering, dan pakaian jadi. Dari 643 perusahaan yang terdaftar, 35% berasal dari Cina daratan, yang merupakan 65% dari total kapitalisasi pasar. Dengan demikian, pasar ini sangat dipengaruhi oleh ekonomi Tiongkok.
Industri Real Estat HK
Dalam beberapa tahun terakhir, pangsa sektor real estat dan konstruksi di indeks saham Hong Kong telah menurun. Namun demikian, pada tahun 2022, sektor ini masih memiliki sekitar 10% pangsa pasar, yang mencakup pengembangan real estat, teknik konstruksi, investasi, dan manajemen properti.
Hongkong, China
Vietnam Ho Chi Minh
Dubai, UAE
Nigeria Lagos
Kairo Mesir
Label putih
Data API
Web Plug-ins
Program Afiliasi
Lihat Semua
Tidak ada data
Tidak Masuk
Masuk untuk mengakses lebih banyak fitur
Anggota FastBull
Belum
Pembelian
Masuk
Daftar
Hongkong, China
Vietnam Ho Chi Minh
Dubai, UAE
Nigeria Lagos
Kairo Mesir
Label putih
Data API
Web Plug-ins
Program Afiliasi
Thách thức của Việt Nam hướng tới quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045
Để đạt được trạng thái thu nhập cao vào năm 2045, tỷ lệ tăng trưởng hàng năm của Việt Nam phải tăng lên 5,4%, yêu cầu phải nâng cao năng suất và cải tiến công nghiệp. Kinh tế Việt Nam cần chuyển đổi từ tăng trưởng dựa trên “đầu vào” sang tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo, nhấn mạnh vào vốn nhân lực, hiệu quả thị trường lao động và vốn, cạnh tranh và ứng dụng công nghệ...
Trong 02 ngày 24 và 25/10, tại Đà Nẵng, Viện Nghiên cứu kinh tế ASEAN và Đông Á (ERIA) cùng trường Đại học Đông Á đồng tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế “Thách thức của Việt Nam: Hướng tới quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045”
Phát biểu tại hội thảo, bà Nguyễn Thị Anh Thi, Phó Chủ tịch UBND TP. Đà Nẵng, nhận định những đóng góp học thuật và tư vấn chính sách từ các cơ quan nghiên cứu, đặc biệt là báo cáo “Việt Nam 2045 - Các vấn đề và thách thức đối với phát triển” của Viện Nghiên cứu Kinh tế ASEAN và Đông Á (ERIA), đã, đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng chiến lược phát triển của Việt Nam.
Thông tin tại hội thảo, Phó Chủ tịch UBND TP. Đà Nẵng Nguyễn Thị Anh Thi cho biết trong định hướng phát triển thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, thành phố sẽ tập trung phát triển ba trụ cột kinh tế chính gồm: du lịch, công nghiệp công nghệ cao và kinh tế biển. Đà Nẵng cũng đang triển khai các giải pháp phát triển đô thị thông minh, sáng tạo và bền vững nhằm trở thành một trung tâm kinh tế - xã hội quan trọng của miền Trung và cả nước.
Đà Nẵng cũng ghi nhận và đánh giá cao những đóng góp quan trọng của trường Đại học Đông Á đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng. Những nỗ lực của nhà trường trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là trong các lĩnh vực then chốt cho sự phát triển bền vững của thành phố và vai trò là đối tác chiến lược trong các hoạt động hợp tác quốc tế, tư vấn chính sách, góp phần giúp Đà Nẵng nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế.
Trong 2 ngày diễn ra hội thảo, có 04 phiên thảo luận và 01 diễn đàn, với 14 báo cáo chuyên đề là những góc nhìn sâu sắc về kinh tế của Việt Nam.
Phiên khai mạc tập trung đề cập về đường hướng phát triển với các tham luận: Việt Nam- Mô hình để theo đuổi trong phát triển cân bằng; Các vấn đề thay đổi mô hình tăng trưởng: Chính sách để tránh bẫy thu nhập trung bình; Làn sóng mới của Chuyển đổi số (DX), Cách mạng công nghiệp 4.0 (4IR), Internet vạn vật (IOT) và Trí tuệ nhân tạo (AI) như là động lực cho Việt Nam.
Các phiên tiếp theo gồm những tham luận bàn về tác động của môi trường bên ngoài, động lực để phát triển công nghiệp và các vấn đề mới liên quan mục tiêu phát triển của Việt Nam đến 2045 như: Chính sách tự chủ và thích ứng chiến lược để phát triển của Việt Nam trong thời kỳ mới; Làm thế nào để đối phó với căng thẳng địa chính trị? Từ quan điểm của Việt Nam và ASEAN; Sự gia tăng bất định và điều chỉnh FDI - tác động đối với Việt Nam; FDI và chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp Việt Nam; Biến đổi khí hậu và tăng trưởng kinh tế bền vững ở Việt Nam; Chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam; Cung cấp năng lượng và nền kinh tế xanh ở Việt Nam;…
HƯỚNG TỚI QUỐC GIA CÓ THU NHẬP CAO
Những tham luận chuyên sâu được các chuyên gia, nhà khoa học quan tâm như: “Mô hình Việt Nam: hướng đi cho sự phát triển cân bằng” của TS. Võ Trí Thành, Chủ tịch Ủy ban Hợp tác kinh tế Thái Bình Dương của Việt Nam, nguyên Phó viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, phản ánh quá trình chuyển đổi của Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tham luận nêu bật những cải cách quan trọng kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới; phân tích những hoàn cảnh đang thay đổi mà Việt Nam hiện phải đối mặt và những thách thức mà đất nước cần vượt qua để tiến xa hơn. Đồng thời, nghiên cứu cũng khám phá khái niệm mô hình Việt Nam của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công nhận vai trò của cạnh tranh lành mạnh và vai trò trung tâm của kinh tế nhà nước…
Dẫn số liệu Việt Nam đã bước vào nhóm thu nhập trung bình thấp vào năm 2008, với thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người đạt 3.560 USD vào năm 2021, tham luận “Về vấn đề thay đổi mô hình tăng trưởng: Chính sách tránh bẫy thu nhập trung bình” của GS. Trần Văn Thọ, Giáo sư danh dự Đại học Waseda, Nhật Bản, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chuyển đổi từ tăng trưởng dựa trên “đầu vào” sang tăng trưởng dựa trên năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) và vai trò của cải cách thể chế trong việc duy trì tăng trưởng.
Theo GS. Trần Văn Thọ, để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và đạt được tăng trưởng dài hạn, Việt Nam cần tập trung vào các chính sách thúc đẩy công nghiệp hóa, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs), cải thiện thị trường yếu tố sản xuất, nâng cao giáo dục và đào tạo, cũng như đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D).
PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn, Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương, phát biểu đề dẫn tại Phiên thứ 4 sáng ngày 25/10.
Phát biểu đề dẫn tại phiên thứ 4 vào sáng ngày 25/10, PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn, Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương, chia sẻ trong bối cảnh quốc tế và khu vực đang có nhiều thay đổi nhanh, mạnh và khó lường dưới tác động của cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư; các vấn đề an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh; hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng sâu và rộng…, chuyển đổi số gắn với chuyển đổi xanh là cuộc cách mạng về phát triển lực lượng sản xuất mới. Cuộc chuyển đổi này được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định là phương thức mới có tính đột phá để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; góp phần giúp Việt Nam đạt được mức thu nhập trung bình cao.
PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn đặt ra một số vấn đề để các chuyên gia, nhà khoa học cùng thảo luận tại Hội thảo hoặc tiếp tục nghiên cứu sau Hội thảo để làm rõ về các giải pháp giúp Việt Nam tăng trưởng nhanh hơn và bền vững hơn trung bình 5,98% giai đoạn 2011-2023 và tăng cao trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức.
Theo PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn để đạt được mục tiêu thu nhập trung bình cao (7,5-8,0%/năm trong giai đoạn 2026-2030), các nhà khoa học tập trung thảo luận và làm rõ việc làm thế nào để có thể đạt được mức tăng trưởng cao nhưng vẫn đảm bảo được các mục tiêu về xã hội và môi trường?...
Còn GS. Yasuhiro Yamada (Nhật Bản), thành viên cao cấp về chính sách ERIA nhìn nhận: Việt Nam đã duy trì tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao kể từ đầu những năm 1990 nhờ vào các cải cách kinh tế và sự mở cửa với thế giới. Tăng trưởng thu nhập quốc dân thực (GNI) bình quân đầu người hàng năm ở mức khoảng 5,0% (giai đoạn 1995 - 2019), vượt trội hơn nhiều so với các nền kinh tế phát triển.
Để đạt được trạng thái thu nhập cao vào năm 2045, tỷ lệ tăng trưởng hàng năm của Việt Nam phải tăng lên 5,4%, yêu cầu phải nâng cao năng suất và cải tiến công nghiệp. Kinh tế Việt Nam cần chuyển đổi từ tăng trưởng dựa trên “đầu vào” sang tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo, nhấn mạnh vào vốn nhân lực, hiệu quả thị trường lao động và vốn, cạnh tranh và ứng dụng công nghệ.
GS. Yasuhiro Yamada nhấn mạnh: "Công nghệ số đóng vai trò then chốt trong quá trình chuyển đổi này. Các ngành công nghiệp chính như điện tử, nông nghiệp tiên tiến, dệt may, các lĩnh vực liên quan đến chuyển đổi số (DX), ô tô, chăm sóc sức khỏe và năng lượng, dự kiến sẽ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế và nền kinh tế tuần hoàn".
Theo GS. Yasuhiro Yamada, hợp tác với Nhật Bản, đặc biệt trong lĩnh vực chuyển đổi số (DX), mang lại tiềm năng đáng kể để tiến gần hơn tới mục tiêu đạt được trạng thái quốc gia thu nhập cao vào năm 2045. Thêm vào đó, nên theo đuổi các sáng kiến hợp tác trong nhiều lĩnh vực, bao gồm ngành công nghiệp ô tô, nông nghiệp tiên tiến, giảm thiểu biến đổi khí hậu, nền kinh tế tuần hoàn, và giải quyết các thách thức do xã hội già hóa…
Gia tăng áp lực khi có bảng giá đất mới
Theo các chuyên gia, bảng giá đất mới từ 1/1/2026 tại một số địa phương dự kiến sẽ tăng từ 2-7 lần, thậm chí cao hơn 10 lần so với bảng giá đất hiện tại.
Việc xây dựng bảng giá đất hàng năm tiệm cận thị trường sẽ giúp sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai nhưng cũng gia tăng áp lực đối với địa phương, doanh nghiệp. Đồng thời, có thể làm tăng chi phí sử dụng đất, tăng giá đất và giá bán, giá cho thuê bất động sản.
Việc xây dựng bảng giá đất hàng năm tiệm cận thị trường sẽ giúp sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai nhưng cũng gia tăng áp lực đối với địa phương, doanh nghiệp. Ảnh minh họa: Tuấn Anh/TTXVN |
Tại Tp. Hồ Chí Minh, mới đây Hội đồng thẩm định bảng giá đất Tp. Hồ Chí Minh đã thống nhất bảng giá đất điều chỉnh theo đề xuất của Sở Tài nguyên và Môi trường. Theo đó, nếu bảng giá đất theo Quyết định 02/2020/QĐ-UBND ngày 16/1/2020 của UBND thành phố trước đó bằng khoảng 30% giá thị trường tại Tp. Hồ Chí Minh thì bảng giá đất mới được điều chỉnh sẽ bằng khoảng 50%. Qua các lần cân chỉnh, bảng giá lần này đã điều chỉnh giảm tại các tuyến đường, địa bàn quận huyện, thành phố Thủ Đức.
Đặc biệt, giá đất thương mại, dịch vụ đã được điều chỉnh giảm sâu. Ví dụ, giá đất thương mại, dịch vụ tại đường Đồng Khởi điều chỉnh mới có giá thuê là xấp xỉ 550.000 đồng/m2, trong khi so với bảng giá theo quyết định Quyết định 02/2020/QĐ-UBND thì có giá hơn 9 triệu đồng. Tương tự giá đất sản xuất kinh doanh (bao gồm cả đất khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khoáng sản; đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp); đất quốc phòng, an ninh; đất công cộng; đất xây dựng trụ sở cơ quan, đất công trình sự nghiệp; đất phi nông nghiệp khác... cũng được điều chỉnh giảm.
Tuy nhiên, dù có điều chỉnh giảm so với dự thảo cách đây hơn 2 tháng, bảng giá đất ở dự kiến tăng bình quân hơn 20% cũng vẫn tạo áp lực không nhỏ lên người dân, doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng và chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
Theo đánh giá từ Bộ Xây dựng, một trong những điểm quan trọng nhất của Luật Đất đai 2024 là bỏ khung giá đất cũ. Thay vào đó, bảng giá đất được xác định "sát với thị trường" căn cứ trên mục đích, thời hạn sử dụng đất, thông tin đầu vào, các yếu tố khác ảnh hưởng... Đây là căn cứ để tính tiền sử dụng, thuê, thuế sử dụng đất, thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tính lệ phí quản lý, tiền phạt, bồi thường khi vi phạm trong lĩnh vực đất đai và giá khởi điểm để đấu giá.
Bộ Xây dựng tính toán, bảng giá đất mới sẽ làm tăng chi phí đầu tư xây dựng, đẩy giá nhà tăng từ 15 - 20%. Đồng thời, chi phí sử dụng đất của các dự án bất động sản sẽ tăng lên khá nhiều khi áp dụng giá đất năm 2024.
PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ, Viện trưởng Viện chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết: Khi UBND các tỉnh xây dựng bảng giá đất, chắc chắn sẽ tiếp tục phải cân nhắc kỹ lưỡng giữa việc tăng giá đất để phù hợp với thị trường và việc kiểm soát giá đất để tăng khả năng tiếp cận đất đai, hỗ trợ doanh nghiệp và giảm chi phí cho người dân. Cùng đó, tìm ra điểm cân bằng hợp lý giữa hai yếu tố này là "chìa khóa" để hoàn thiện hệ thống định giá đất, góp phần phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Hiện doanh nghiệp bất động sản cũng đang đứng trước những thách thức mới, đặc biệt liên quan đến vấn đề đầu tư hạ tầng đi kèm dự án. Quy định về suất đầu tư, bao gồm cả chi phí lãi vay, đang tạo ra nhiều băn khoăn cho các doanh nghiệp. Việc cộng gộp lợi nhuận ước tính với lãi suất vay vào suất đầu tư (ví dụ 15%) hoặc tính riêng từng khoản, cùng với chi phí dự phòng, đang khiến việc định giá đất trở nên phức tạp và thiếu chính xác.
Điều này đặt ra gánh nặng rất lớn cho doanh nghiệp, nhất là khi họ phải chịu toàn bộ chi phí đầu tư hạ tầng cho những dự án có quy mô lớn. Đơn cử tình trạng nhiều dự án tại Hà Nội, dù diện tích đất chỉ khoảng 120.000 m2, nhưng doanh nghiệp vẫn phải gánh trên vai toàn bộ chi phí đầu tư hạ tầng. Tương tự, tại Tp. Hồ Chí Minh, có những trường hợp giá trị thửa đất dự án tăng vọt từ 70 tỷ đồng lên đến 700 tỷ đồng, chủ yếu do áp lực chi phí hạ tầng. Rõ ràng, việc kết hợp đầu tư hạ tầng với giá đất đang dẫn đến sự méo mó trong việc định giá đất, ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của thị trường bất động sản.
“Trong thời gian tới, UBND các tỉnh, đặc biệt là những địa phương đã có sẵn cơ sở dữ liệu về giá đất, sẽ sớm xây dựng được phương pháp định giá đất hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định bảng giá đất phù hợp với thực tế từng địa phương”, PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ kỳ vọng.
Cũng nêu cao quan điểm, TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ Quốc gia nhận định, Chính phủ đã ban hành Nghị định 71/2024/NĐ-CP ngày 27/6/2024 về việc "Quy định về giá đất"; trong đó, đã quy định các nguồn thông tin, dữ liệu đầu vào và thứ tự ưu tiên và trách nhiệm cung cấp thông tin, dữ liệu đất đai.
Theo đó, có 5 nguồn thông tin: Nguồn thông tin từ cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia, nhưng hiện chưa có, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ cùng xây dựng trong thời gian tới; thông tin từ các tổ chức, trung tâm định giá đất, đấu giá đất, văn phòng đăng ký đất đai; thông tin qua khảo sát, điều tra của các tổ chức, đơn vị nghiên cứu và thông tin từ doanh nghiệp bất động sản, sàn bất động sản.
"Các doanh nghiệp bất động sản cần đồng thuận, nhận thức được vai trò, nghĩa vụ trong việc cung cấp thông tin giao dịch bất động sản tới cơ quan quản lý, thì mới xây dựng được dữ liệu thông tin bất động sản quốc gia", ông Lực nói.
TS. Cấn Văn Lực cũng cho biết thêm, với những nguồn thông tin trên, tùy từng thời điểm, có nguồn nào thì sử dụng nguồn đó để xác định giá đất. Khi thanh kiểm tra, giải trình thì đã có căn cứ, chứ không lo ngại việc vi phạm pháp luật, hình sự hóa.
Đây cũng là tháo gỡ cho tâm lý "sợ sai" của tổ chức tư vấn định giá đất. Theo đó, Luật quy định rất rõ về quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của Tổ chức tư vấn định giá đất. Trách nhiệm của tổ chức tư vấn là đảm bảo theo nguồn thông tin đầu vào đã quy định, xác thực; phương pháp luận hợp lý; nhưng không phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của giá đất. HĐND cấp tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm cuối cùng. Còn cơ quan đề xuất bảng giá đất hàng năm đã chuyển từ Sở Tài chính sang Sở Tài nguyên và Môi trường địa phương.
Bên cạnh đó, TS. Cấn Văn Lực cũng cho biết, khi đi thực tế đã gặp một số địa phương vẫn đang nhầm lẫn, sử dụng Nghị định 12/2024/NĐ-CP để tính giá đất. Đây là Nghị định ban hành ngày 5/2/2024 để sửa Nghị định 44/2014/NĐ-CP và sau đó đã có Nghị định 71/2024/NĐ-CP bao trùm, thay thế các Nghị định cũ thì tất cả đều phải thực hiện theo hướng dẫn tại Nghị định 71/2024.
Theo Thu Hằng/(TTXVN)
Ngân hàng có dư nợ cao chính thức được nới room
Tổng hợp báo cáo tài chính quý II/2024 của các ngân hàng, top 8 ngân hàng nhỏ nhất có mức nợ xấu tăng vọt, gần 35.800 tỷ đồng, tương đương tăng 43% so với quý II/2023.
Tăng trưởng tín dụng của hệ thống không đều, Ngân hàng Nhà nước quyết định phân bổ lại chỉ tiêu tăng trưởng từ ngân hàng thừa sang nhà băng thiếu. Ngân hàng có quyết định, từ đầu năm đến nay ngân hàng nào đã cho vay trên 80% chỉ tiêu tín dụng sẽ được điều chỉnh tăng thêm dư nợ...
Tín dụng toàn hệ thống tăng trưởng chậm
Theo Ngân hàng Nhà nước thông báo đến ngày 26/8, tín dụng toàn hệ thống tăng 6,63% so với cuối năm 2023. Với mục tiêu của Chính phủ là 15%, vì vậy trong 4 tháng còn lại của năm, cần phải đẩy thêm 8,37%, tương đương 1.135.723 tỷ đồng vào nền kinh tế. Trong khi đó mức tăng trưởng tín dụng của các nhà băng không đồng đều, có đơn vị tăng thấp, thậm chí tăng trưởng âm trong khi một số tổ chức tín dụng tăng sát chỉ tiêu được giao. Do đó Ngân hàng Nhà nước quyết định phân bổ lại chỉ tiêu tăng trưởng từ ngân hàng thừa sang nhà băng thiếu, thông báo đã được gửi tới các tổ chức tín dụng vào ngày 28/8.
Tổng hợp số liệu báo cáo tài chính quý II/2024 của 27 ngân hàng thương mại niêm yết cho thấy: nhóm các ngân hàng quốc doanh gồm BIDV, Vietinbank và Vietcombank duy trì mức tăng trưởng tín dụng từ 6-8%, các ngân hàng tư nhân lớn có kết quả ấn tượng hơn, mức phổ biến nằm từ 10-14%. Trong khi đó, các ngân hàng tư nhân có quy mô vốn ở “top dưới” có mức tăng trưởng tín dụng từ 1,8% đến 4%. Một điểm đáng chú ý trong nhóm ngân hàng tư nhân nhỏ, Ngân hàng Quốc Dân (NCB) lại dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng tín dụng, tới 16%. Trong khi đó, các ngân hàng tư nhân lớn có kết quả ấn tượng hơn, mức phổ biến nằm từ 10-14%, như: LPBank 15,2%; Techcombank 14,2%; ABC 12,8%; HDBank 12,5%; MSB 11,6%...
Các ngân hàng tư nhân có quy mô vốn ở “top dưới” có mức tăng trưởng tín dụng từ 4% - 8% như: Eximbank 7,7%; PVCombank 5,5%; SHB 5,2%; TPBank 4%..., đặc biệt ABBank vẫn âm hơn 7%. Công thức tính chỉ tiêu tăng trưởng cho từng nhà băng được Ngân hàng Nhà nước dựa trên các yếu tố đầu vào gồm: dư nợ tín dụng năm 2023, điểm xếp hạng năm 2022, các khoản bán dư nợ tín dụng trong 2024 và chưa thu hồi được tiền.
Các tổ chức tín dụng, trừ ngân hàng 100% vốn nước ngoài và ngân hàng liên doanh, không được vượt quá mức dư nợ tín dụng quy định tại bất cứ thời điểm nào trong năm. Còn với các nhà băng 100% vốn nước ngoài và liên doanh, dư nợ tín dụng tại thời điểm cuối 2024 không được vượt quá mức được cấp.
Riêng nhóm 7 ngân hàng có quy mô tài sản lớn nhất (BIDV, Vietcombank, Vietinbank, MB, Techcombank, VPBank, ACB) đã chiếm hơn 65% thị phần tín dụng tương ứng gần gấp đôi quy mô của 20 ngân hàng còn lại. Sự chênh lệch về nguồn lực và thị phần này đã đặt các ngân hàng nhỏ vào thế yếu trong cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Đặc biệt, các ngân hàng nhỏ như Ngân hàng Bắc Á, Ngân hàng Bản Việt, Ngân hàng Kiên Long, Ngân hàng An Bình (ABBank)… việc thúc đẩy tăng trưởng tín dụng vẫn khá “chật vật”.
Áp lực lớn đối với các ngân hàng “top dưới” nếu quá chú trọng vào tốc độ tăng trưởng tín dụng. Vì tăng trưởng tín dụng của nhóm này lại tiềm ẩn nhiều rủi ro, tỷ lệ nợ xấu dao động từ 2,2% đến 3,5% so với mức phổ biến dưới 2% của nhóm ngân hàng lớn. Ngân hàng Quốc dân tăng trưởng tín dụng tốt nhưng tỷ lệ nợ xấu dẫn đầu ngành, nằm ở mức lo ngại hơn 35%.
Tổng hợp báo cáo tài chính quý II/2024 của các ngân hàng, top 8 ngân hàng nhỏ nhất có mức nợ xấu tăng vọt, gần 35.800 tỷ đồng, tương đương tăng 43% so với quý II/2023. Điều này đặt ra vấn đề không chỉ thách thức lớn trong việc kiểm soát chất lượng tín dụng mà còn là khả năng chọn lọc khách hàng cho vay còn bị hạn chế của các ngân hàng nhỏ.
4 ngân hàng sẽ được nới "room" tín dụng
NHNN, các ngân hàng tiếp tục được yêu cầu cấp tín dụng an toàn, lành mạnh, hỗ trợ DN, đảm bảo tăng trưởng tín dụng phù hợp với năng lực quản lý rủi ro. Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục bám sát diễn biến thị trường trong nước và quốc tế, sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản tạo điều kiện cho các TCTD cung ứng tín dụng cho nền kinh tế và kịp thời có giải pháp điều hành chính sách tiền tệ phù hợp.
Báo cáo mới nhất, Chứng khoán VPBankS đã công bố thống kê về các ngân hàng đã hoàn thành khoảng 80% chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng trở lên bao gồm HDBank (HDB), Techcombank (TCB), LPBank (LPB) và ACB. Mức tăng thêm sẽ dao động từ 2% - 2,5% tùy từng ngân hàng. Sau khi tăng, "room" tín dụng mới của 4 ngân hàng này nằm trong khoảng 18% - 18,7%.
VPBankS Research đánh giá, chính sách này sẽ là động lực cho các ngân hàng cạnh tranh mạnh mẽ hơn trong việc giành room tín dụng và thị phần. Do đó, chính sách lãi suất sẽ có xu hướng ưu đãi hơn, có lợi cho người vay nhưng có thể dẫn đến NIM giảm nhẹ. Một trong những yếu tố được cơ quan quản lý đề cập trong văn bản gửi các tổ chức tín dụng là sẽ tiếp tục triển khai chủ trương của Quốc hội, Chính phủ về dỡ bỏ dần biện pháp giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng.
Theo PGS-TS Nguyễn Đức Trung, Hiệu trưởng Trường ĐH Ngân hàng TP HCM chia se4r: Trong bối cảnh của nền kinh tế hiện tại là chưa thể "tháo van" hoàn toàn room tín dụng, nhất là NHNN đang điều hành chính sách tiền tệ gắn với kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô… NH cũng là một DN đặc thù, nếu bỏ room tín dụng, thiếu sự kiểm soát bằng công cụ này của cơ quan quản lý, sẽ gia tăng rủi ro. Khi đó nền kinh tế có thể bị ảnh hưởng, nên các chính sách cần hài hòa. Tuy nhiên, nếu kinh tế Việt Nam đủ lớn thì nên bỏ room tín dụng.
Nhiều tổ chức, cá nhân "dở khóc dở cười" khi muốn ghi chính xác nước xuất xứ, nguồn gốc trên nhãn sản phẩm, hàng hóa lưu thông trong nước vì thiếu cơ sở pháp lý.
Mới đây Bộ Công thương gửi Chính phủ dự thảo Tờ trình đề nghị xây dựng Nghị định quy định cách xác định hàng hoá sản xuất tại Việt Nam (Nghị định).
Như thế nào là “Sản xuất tại Việt Nam”?
Theo Bộ Công thương, đối với hàng hóa sản xuất trong nước, gồm cả hàng hóa sản xuất từ nguyên liệu nhập khẩu và sau đó lưu thông trong nước, hiện chưa có quy định như thế nào thì được thể hiện “Sản phẩm của Việt Nam” hay “Sản xuất tại Việt Nam”.
Điều này khiến nhiều tổ chức, cá nhân lúng túng khi muốn ghi chính xác nước xuất xứ, nguồn gốc trên nhãn sản phẩm, hàng hóa lưu thông trong nước. Đồng thời cũng không có cơ sở pháp lý để hướng dẫn việc xác định hàng hóa của DN có được phép dán nhãn hàng hóa sản xuất tại Việt Nam hay không.
Đại diện Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa cho biết, trước đây công ty có nhập khẩu một số sản phẩm từ Hàn Quốc, Ấn Độ về để xử lý hoàn thiện, đóng gói bao bì nhưng không biết nên ghi “Made in Vietnam” hay không. Do đó, công ty có công văn gửi Sở Công thương TP.HCM và các đơn vị liên quan nhờ hướng dẫn.
Theo đại diện công ty Kềm Nghĩa, trước năm 2019 Bộ Công thương đã có dự thảo Thông tư quy định về cách xác định sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam. Tuy nhiên, tới năm 2023 văn bản vẫn chưa được ban hành chính thức.
Trong thời gian chờ hướng dẫn chính thức, công ty tham khảo Nghị định 31/2018, Thông tư 05/2018. Sau đó, Bộ Công thương có công văn trả lời DN là đối với Nghị định 31/2018, Thông tư 05/2018 quy định về xuất xứ hàng hóa có phạm vi điều chỉnh đối với hàng hóa xuất nhập khẩu.
Còn Thông tư quy định cách xác định hàng hóa sản xuất tại Việt Nam, Bộ Công thương đang xây dựng, chưa được ban hành chính thức... Việc xác định và ghi xuất xứ hàng hóa sẽ do DN tự xác định căn cứ các quy định hiện hành về xuất xứ hàng hóa.
Bà Phạm Thị Ngọc, Phó Tổng thư ký Hiệp hội Sữa Việt Nam cho biết, từ năm 2019 ngành sữa đã góp ý dự thảo Thông tư quy định về cách xác định sản phẩm, hàng hóa là sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam, do Bộ Công thương biên soạn.
Theo nội dung tại Dự thảo thì việc ghi “Made in Vietnam” trên sản phẩm sữa sản xuất tại Việt Nam khiến DN có rất nhiều băn khoăn.
Bởi các sản phẩm sữa được sản xuất hiện nay tại Việt Nam chủ yếu ở dạng sữa bột và sữa dạng lỏng. Đối với sữa bột, nguyên liệu thường được các DN nhập khẩu từ Newzeland, Mỹ, Úc, Pháp,…về Việt Nam.
Tuy nhiên, để tạo ra ra các dòng sản phẩm dinh dưỡng phù hợp với tình trạng dinh dưỡng của trẻ em Việt Nam cũng như tình trạng sức khỏe của các đối tượng người dân, DN ngành sữa phải nghiên cứu công thức. Thậm chí DN thuê các chuyên gia trong nước và quốc tế đầu tư hàm lượng chất xám cao. Như vậy sản phẩm có được ghi là “Made in Vietnam” hay không?
Bên cạnh đó, đối với sữa dạng lỏng như sữa tươi thanh trùng, tiệt trùng,… một số DN đã đầu tư trang trại chăn nuôi bò sữa tại các quốc gia xung quanh Việt Nam như Campuchia, Lào, Úc,… Sau đó DN đưa nguyên liệu về Việt Nam hoặc DN nhập khẩu bò sữa Mỹ về Việt Nam để chăn nuôi.
"Như vậy, sản phẩm sữa cuối cùng sản xuất tại Việt Nam được ghi là “Made in Vietnam, Lào, Campuchia, hay Mỹ, Úc,…?", nên ngành sữa chúng tôi đang rất quan ngại về những nội dung này"- bà Ngọc nêu.
"Chúng tôi rất mong nếu Bộ Công thương tiếp tục đề nghị Chính phủ xây dựng nghị định về vấn đề này và những nội dung mà ngành sữa đang quan ngại sẽ được tháo gỡ. Qua đó, giúp ngành sữa tiếp tục phát triển bền vững, có nhiều cơ hội trên thị trường quốc tế"- bà Ngọc chia sẻ.
Bộ Công thương cho rằng, từ thực tế trên yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định bộ tiêu chí để các DN có thể căn cứ vào đó xác định chính xác hàng hóa sản xuất tại Việt Nam.
Vì vậy, Nghị định Chính phủ ban hành sẽ quy định cụ thể hàng hóa được coi là sản xuất tại Việt Nam khi đáp ứng một trong các tiêu chí: Hàng hóa có xuất xứ thuần túy Việt Nam, hàng hóa được sản xuất tại Việt Nam từ toàn bộ nguyên liệu có xuất xứ Việt Nam. Hàng hóa trải qua công đoạn gia công, chế biến cuối cùng tại Việt Nam làm thay đổi cơ bản tính chất của hàng hóa.
Quy định các tiêu chí cụ thể trong trường hợp hàng hóa trải qua công đoạn gia công, chế biến cơ bản cuối cùng tại Việt Nam: chuyển đổi mã số hàng hóa, tỉ lệ phần trăm giá trị hay công đoạn gia công cụ thể....
Cần nhanh chóng ban hành tiêu chí
Luật sư Nguyễn Minh Hương, Trưởng Văn phòng Luật sư A Hòa, Phó Chủ tịch Hội Sở hữu trí tuệ Việt Nam cho biết, các quy định về xuất xứ hàng hóa hiện nay của Việt Nam còn một số bất cập.
“Chúng tôi gặp trường hợp có DN nhập khẩu bao bì, nguyên liệu hóa mỹ phẩm từ Trung Quốc về, sau đó đóng gói tại Việt Nam. Toàn bộ nhãn hiệu đều là tiếng nước ngoài được DN đăng ký với cơ quan chức năng Việt Nam.
Tiếp đến họ quảng cáo là hàng nhập khẩu từ nước ngoài, trong khi người tiêu dùng ngộ nhận nhãn hiệu có chữ nước ngoài nghĩ ngay là sản phẩm ngoại, chấp nhận trả giá cao. Dẫn đến các DN sản xuất chân chính gặp nhiều khó khăn”- LS Hương kể
Theo Luật sư Hương, Nghị định 43/2017 và Nghị định 111/2021 đưa ra quy định DN bắt buộc phải ghi xuất xứ hàng hóa, tự xác định và cần trung thực, chính xác ghi xuất xứ hàng hóa. Tuy nhiên, khi nào thì ghi “sản xuất tại”; “chế tạo tại”; “đóng gói tại”; “dán nhãn tại”… nhiều DN không biết nên ghi như thế nào.
Chuyên gia kinh tế, PGS TS Đặng Trọng Thịnh kể cách đây khoảng 5 năm ông cũng nêu ý kiến cần có những quy định cụ thể hàng hóa nào sẽ được ghi là “Made in Vietnam” khi tiêu thụ nội địa. Chẳng hạn, nếu quy định tỉ lệ nội địa 40% hay 100% DN được ghi “Sản xuất tại Việt Nam” nhưng có những hàng hóa của DN đầu tư nước ngoài chỉ lắp ráp ở Việt Nam, giá trị tăng ở Việt Nam thấp có phải ghi “ Made in... ” không?, rất khó khăn.
"Ngược lại nếu tỉ lệ nội địa thấp hơn, lo ngại hàng hóa nước ngoài đội lốt hàng Việt Nam và thực tế đã xảy ra. Do đó, chúng ta cần có quy định rõ và hiện nay Bộ Công thương đề nghị xây dựng văn bản pháp luật là cấp thiết”- TS Thịnh nói.
Chỉ cần thông tư , không cần xây dựng nghị định riêng
Luật sư Hương cho rằng, hơn 5 năm qua Bộ Công thương chưa ban hành tiêu chí xác định hàng hóa "Sản xuất tại Việt Nam" cho thị trường nội địa, vì vậy cần nhanh chóng có định nghĩa, từ đó đưa ra các tiêu chí.
Đặc biệt, khi đã ban hành tiêu chí, Nhà nước cần đưa ra mức thuế phù hợp. Chẳng hạn, những sản phẩm nào đầu tư hàm lượng công nghệ, sáng tạo sẽ ưu đãi thuế hơn so với sản phẩm chỉ lắp ráp đơn giản. Như vậy, sẽ khuyến khích các DN có động lực sáng tạo, đầu tư vào công nghệ...
Cũng theo Luật sư Hương, Luật Bảo vệ quyền lợi 2023 cho phép người tiêu dùng được quyền biết nguồn gốc xuất xứ hàng hóa nhưng thực tế người dân rất khó tiếp cận.
Tuy nhiên, Bộ Công thương chỉ cần làm thông tư bổ sung cho Nghị định 43/2017 trong đó có các tiêu chí “sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam” và “Sản xuất tại Việt Nam” không cần xây dựng một nghị định riêng tốn chi phí ngân sách.
Cùng quan điểm, chuyên gia kinh tế, PGS TS Đinh Trọng Thịnh cho biết, xây dựng hẳn một Nghị định riêng là không cần thiết, tránh lãng phí nguồn lực Nhà nước. Bộ Công thương chỉ cần xây dựng một thông tư mang tính bổ sung các Nghị định 43/2017, Nghị định 111/2021 để cụ thể hóa việc ghi “Made in Vietnam”. Trong những điều cụ thể khi thực thi, nếu sửa đổi bổ sung thì ở cấp Bộ dễ dàng hơn so với Nghị định ở cấp Chính phủ.
Năm 2023, Bộ Công thương báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, về quy định hàng hóa “made in Vietnam” được Bộ đề xuất Chính phủ xây dựng từ năm 2018, nhưng sau 5 năm vẫn chưa thể ban hành.
Một trong những nguyên nhân là chưa đủ căn cứ pháp lý về thẩm quyền để Bộ Công thương ban hành Thông tư “Sản xuất tại Việt Nam”.
TÚ UYÊN
Pháp luật TPHCM
Hà Nội liên tục đấu giá đất, chuyên gia cảnh báo rủi ro
Thời gian qua, nhiều huyện ngoại thành Hà Nội rôm rả đấu giá đất và có nơi thu hàng nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên, chuyên gia cảnh báo về khả năng xuất hiện các nhà đầu tư thông đồng đẩy giá những khu đất xung quanh nhằm trục lợi.
Liên tục đấu giá đất
Mới đây, Công ty đấu giá hợp danh Đấu giá Việt Nam vừa ra thông báo đấu giá tài sản của Trung tâm Phát triển Quỹ đất huyện Thanh Oai .
Cụ thể, đơn vị này đấu giá quyền sử dụng đất đối với 68 thửa đất tại Khu Ngõ Ba, thôn Thanh Thần, xã Thanh Cao, huyện Thanh Oai. Các thửa đất có diện tích từ 60 - 85 m2/thửa đất với giá khởi điểm từ 8,6 - 12,5 triệu đồng/m2.
Trước đó, Công ty đấu giá hợp danh Thanh Xuân vừa ra thông báo đấu giá tài sản của Trung tâm phát triển quỹ đất huyện Thường Tín. Cụ thể là quyền sử dụng 13 thửa đất ở vị trí tại các xã: Dũng Tiến, Tô Hiệu, huyện Thường Tín. Các thửa đất có diện tích 90 - 177 m2/thửa với giá khởi điểm 14,4 - 15,6 triệu đồng/m2.
Huyện ngoại thành Hà Nội liên tục đấu giá đất thời gian gần đây.
Ở huyện Phú Xuyên, Công ty Đấu giá Hợp danh Nhất An Phú vừa ra thông báo đấu giá tài sản của UBND huyện. Theo đó, là quyền sử dụng đất đối với 13 thửa đất tại khu Thùng Lò Gạch, thôn Bái Đô, xã Tri Thủy. Các thửa đất có diện tích từ 137 - 176 m2/thửa với mức giá khởi điểm từ 14 - 15 triệu đồng/m2.
Cũng tại Hà Nội, Công ty đấu giá hợp danh Số 5 Quốc gia thông báo đấu giá tài sản của Trung tâm Phát triển Quỹ đất huyện Đan Phượng. Cụ thể là 85 lô đất ở tại khu Đồng Sậy – Trẫm Sau, xã Đan Phượng; khu Đệ Nhị, xã Phương Đình và khu Trục đường N1, xã Hạ Mỗ, có diện tích 61 - 101 m2/lô với giá khởi điểm từ 35 triệu đồng/m2.
Trước đó, UBND huyện Chương Mỹ cũng thông báo đấu giá quyền sử dụng đất ở đối với 51 thửa đất tại 7 dự án trên địa bàn thị trấn Chúc Sơn, Văn Võ, Thượng Vực, Hữu Văn, Nam Phương Tiến thuộc huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội sẽ được đem ra đấu giá. Các thửa đất có diện tích từ 77,91 - 208,65 m2, có mức giá khởi điểm từ 5,6 - 44,2 triệu đồng/m2.
Hồi cuối tháng 6, Trung tâm Phát triển quỹ đất huyện Mê Linh cũng tổ chức đấu giá 51 thửa đất tại Khu Đồng Trước xóm 4, thôn Xa Mạc, xã Liên Mạc (đợt 8). Đáng chú ý, tổng số tiền trúng đấu giá thu về cho ngân sách là 169 tỷ đồng, chênh 47 tỷ so với giá khởi điểm.
Theo tìm hiểu, đó là phiên đấu giá thứ 10 của huyện Mê Linh tính từ đầu năm đến ngày 28/6. Bởi ngày 14/6, huyện Mê Linh cũng tổ chức đấu giá thành công 30 thửa đất tại thôn Bạch Đa, xã Kim Hoa, thu về ngân sách hơn 100 tỷ đồng, chênh gần 30 tỷ đồng so với giá khởi điểm. Còn ở xã Tam Đồng và xã Tiến Thịnh, ngày 7/6, huyện Mê Linh cũng thu về ngân sách 186,5 tỷ đồng từ đấu giá quyền sử dụng đất, chênh 52,4 tỷ đồng so với giá khởi điểm.
Chia sẻ với truyền thông, Giám đốc Trung tâm Phát triển quỹ đất huyện Mê Linh Đinh Ngọc Thức cho biết, 6 tháng đầu năm 2024, huyện này đã tổ chức thành công 10 phiên đấu giá quyền sử dụng đất, thu ngân sách 1.062 tỷ đồng.
Nhiều môi giới và chuyên gia nhận định, nhu cầu mua bất động sản ở Hà Nội vẫn hiện hữu và duy trì ở mức cao.
Cẩn trọng với hiện tượng đẩy giá
Theo nhiều môi giới và chuyên gia, nhu cầu mua bất động sản ở Hà Nội vẫn hiện hữu và duy trì ở mức cao.
Khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu thị trường & Am hiểu khách hàng One Mount Real Estate gần đây, trong số 1.400 người tham gia khảo sát về nhu cầu mua bất động sản ở Hà Nội cho thấy, 63% người phản hồi có nhu cầu và có thể cân nhắc mua bất động sản, trong số đó 72% khách hàng có dự định mua vào 1 - 2 năm tới và đất nền là loại hình được người mua quan tâm nhiều nhất, chiếm tỷ lệ 48%.
Chuyên gia kinh tế, PGS.TS Đinh Trọng Thịnh cho rằng, về cơ bản, giá bất động sản sau khi neo ở mức cao trong thời gian dài thì giai đoạn qua đã đồng loạt đi xuống. Đà giảm giá diễn ra ở cả các tỉnh lẻ lẫn những thành phố lớn như Hà Nội hay TP HCM.
Còn các chuyên gia bất động sản nhìn nhận, cùng với những thay đổi về Luật mới đây, thị trường sẽ dần ấm lên trong những tháng cuối năm 2024. Nhờ đó, tâm lý của nhà đầu tư sẽ phần nào được kích thích.
Tuy nhiên, chuyên gia cảnh báo, Hà Nội vốn là thị trường bất động sản tiềm năng nhất cả nước vì dân cư tập trung đông đúc, cung nhà ở không đủ cầu do đó không chỉ hút người mua có nhu cầu thực, các phiên đấu giá còn hút cả đầu cơ. Do đó, không loại trừ khả năng trong nhiều phiên đấu giá đất vẫn xuất hiện các nhà đầu tư thông đồng đẩy giá nhưng chưa chắc đã mua, hoặc làm vậy để nâng giá những khu đất xung quanh hòng trục lợi...
3 Luật mới sẽ tạo hành lang pháp lý mới, gỡ “nút thắt” cho thị trường bất động sản
Thời gian tới, khi Luật Đất đai năm 2024, Luật Nhà ở năm 2023, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2023 sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 1/8/2024, sớm hơn 5 tháng so với quyết định trước đó, các chuyên gia nhận định thị trường bất động sản sẽ được thúc đẩy, phát triển hơn, nhiều “nút thắt” cũng sẽ được gỡ bỏ.
Các bộ Luật liên quan tới bất động sản chính thức có hiệu lực từ 1/8/2024 sẽ là cơ sở để thúc đẩy thị trường bất động sản phục hồi và phát triển.
Hành lang pháp lý mới gỡ nút thắt cho thị trường
Đánh giá về các tác động của các bộ Luật liên quan tới bất động sản vừa được Quốc hội thông qua chính thức có hiệu lực từ 1/8/2024, PGS.TS Trần Đình Thiên, thành viên Tổ tư vấn Kinh tế của Thủ tướng cho biết, các bộ Luật mới chắc chắn sẽ có tác động tích cực, góp phần thúc đẩy sự phục hồi và phát triển của thị trường. Bởi lẽ các bộ Luật được soạn thảo trong bối cảnh thị trường đang gặp khó khăn, vướng mắc có mục tiêu hướng đến nhằm giải quyết triệt để các khó khăn, vướng mắc này.
Đồng quan điểm, TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV kiêm Giám đốc Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV nhận định, việc đẩy nhanh thời hạn có hiệu lực chính thức của 3 bộ Luật trên 5 tháng so với quy định sẽ góp phần tích cực tới thị trường bất động sản. Điều này giúp nhanh chóng tháo gỡ các vướng mắc liên quan tới định giá đất, giải phóng mặt bằng, tái định cư, thực hiện Đề án nhà ở xã hội. Từ đó, góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường.
Dưới góc nhìn kinh tế, TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh nhìn nhận, các bộ Luật khi có hiệu lực sớm về mặt thời gian sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bởi đóng góp từ 12-14% GDP quốc gia. Việc tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản là cho cả quá trình phục hồi kinh tế.
“Cả 3 bộ Luật khi chính thức có hiệu lực sẽ tạo hành lang pháp lý mới, giải tỏa hầu hết các "nút thắt" cho thị trường khi 70-80% các vướng mắc đang tồn tại là do pháp lý. Đồng thời tạo nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển theo hướng an toàn, lành mạnh, bền vững. Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu quả trong quá trình thực thi, cần đẩy nhanh việc hoàn thành các Nghị định trên cơ sở đảm bảo nội dung chất lượng, bám sát thị trường”, TS. Võ Trí Thành nhấn mạnh.
Cần thêm trợ lực nào để thị trường thực sự ổn định và phát triển trở lại?
Theo PGS. TS Trần Đình Thiên, để thị trường bất động sản Việt Nam thực sự ổn định và phát triển trở lại, rất cần một chữ “thông” trong đó đặc biệt cần thiết phải “thông cầu, thông cung” - để cung và cầu bất động sản bị tắc nghẽn hiện nay có thể gặp nhau, thị trường mới “đổi sắc”. Trong đó, có mấy việc cần phải làm, cấp bách đúng nghĩa.
Thứ nhất, các vướng mắc thể chế phải được giải quyết nhanh và dứt điểm, để không kìm hãm nhịp phục hồi của thị trường. Thứ hai, thông các nguồn lực và có biện pháp thúc đẩy, tạo cơ hội để cả doanh nghiệp kinh doanh bất động sản và khách hàng/nhà đầu tư có cơ hội tiếp cận nguồn vốn thuận lợi với mức lãi suất thật sự hỗ trợ, tạo động cơ tăng trưởng và phát triển mới. Thứ ba, xem xét các giải pháp cải thiện mức lương tối thiểu để người dân có cơ hội tăng thu nhập, từ đó cầu cũng tăng lên. Thứ tư, tiếp tục thực hiện các giải pháp thu hút dòng đầu tư để duy trì và thúc đẩy phân khúc bất động sản công nghiệp, thương mại và du lịch, nghỉ dưỡng.
Quan trọng nhất, cần lưu ý các giải pháp cần được thực hiện một cách đồng bộ, nút thắt nào có cơ hội được giải tỏa thì giải tỏa ngay để tránh mất đà phục hồi của thị trường. Khơi thông vốn cho thị trường bất động sản chính là khâu trọng yếu đó.
Theo chuyên gia, cần tiếp tục thực hiện các giải pháp thu hút dòng đầu tư để duy trì và thúc đẩy thị trường bất động sản.
Theo ý kiến của TS. Cấn Văn Lực, cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết luật để đảm bảo các quy định này sớm đi vào thực tế, có như vậy việc đẩy sớm thời gian có hiệu lực của các bộ Luật mới thực sự có ý nghĩa; sớm có giải pháp phục hồi thị trường trái phiếu doanh nghiệp nhằm giảm áp lực về tài chính cho các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản; sớm có giải pháp phát triển nhà ở xã hội như chỉ đạo của Ban Bí thư; sớm bắt tay xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin để đảm bảo có đủ căn cứ định giá đất và các hoạt động liên quan khác...
Về vấn đề này, TS Võ Trí Thành cũng cho rằng, cần phải hoàn thiện pháp lý với quy trình, thủ tục tinh giản, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể hoạt động trên thị trường tiếp cận nhưng vẫn đảm bảo là công cụ để quản lý, giám sát hoạt động của thị trường.
Đối với các chính sách hỗ trợ tài khóa, tiền tệ đang chưa được như kỳ vọng, đặc biệt, hỗ trợ chương trình phục hồi phát triển kinh tế - xã hội cần được phân bổ công bằng cho các lĩnh vực kinh doanh, trong đó có các doanh nghiệp chủ đầu tư dự án bất động sản và nhà đầu tư thứ cấp trên thị trường bất động sản.
Doanh nghiệp cần nỗ lực tái cấu trúc, phát triển bất động sản hợp túi tiền, nhu cầu của người dân. Đối với phân khúc nhà ở xã hội, cần có cái nhìn nhận mới, theo hướng là kết cấu hạ tầng quan trọng của quốc gia.
Tín hiệu lạc quan về tăng trưởng kinh tế
Kinhtedothi - Vượt qua nhiều thách thức, nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng ở mức 6,42% trong nửa đầu năm 2024. Nhiều yếu tố để kỳ vọng kinh tế sẽ duy trì được đà tăng trong nửa cuối năm 2024.
GDP cả năm 2024 có thể chạm mốc gần 7%
Quý I/2024 GDP đạt mức tăng 5,66% - cao nhất trong 5 năm trở lại đây. Sang quý II tăng trưởng 6,93%, cũng là mức rất cao, chỉ thấp hơn năm 2022. Kinh tế đang được đánh giá tăng trưởng mạnh, các cân đối vĩ mô cũng tốt.
Tình hình sản xuất, kinh doanh của DN phục hồi tốt. Số DN quay trở lại sản xuất cũng như thành lập mới tăng cao hơn so với cùng kỳ năm trước 6 - 7%. Các DN trong ngành chế biến, chế tạo được đánh giá sẽ hồi phục tốt hơn trong quý III và cao hơn so với quý II. Số DN có hợp đồng xuất nhập khẩu cũng tăng lên; trong đó, nhiều DN có thêm các hợp đồng xuất nhập khẩu trong quý II tốt hơn quý I và quý III sẽ tốt hơn quý II. Lượng đơn hàng cũng tập trung được nhiều hơn.
Các chuyên gia thuộc Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế T.Ư (CIEM) cho rằng tăng trưởng GDP cả năm 2024 có thể chạm mốc gần 7% sau khi Việt Nam có quý tăng trưởng vượt tiềm năng thứ 4 liên tiếp...
Bộ KH&ĐT đã cập nhật kịch bản tăng trưởng năm 2024, với mục tiêu “phấn đấu cả năm đạt mức tăng trưởng 7%”. Cụ thể, kịch bản 1, tăng trưởng GDP cả năm đạt 6,5% (cận trên mục tiêu Quốc hội quyết nghị); kịch bản 2, tăng trưởng GDP cả năm đạt 7%, cao hơn kịch bản tại Nghị quyết số 01/NQ-CP là 0,7 điểm phần trăm và 0,6%.
Sản xuất hàng điện tử xuất khẩu tại Công ty TNHH Katolec Việt Nam, Khu công nghiệp Quang Minh, Hà Nội. Ảnh: Phạm Hùng
Bộ KH&ĐT đã chọn kịch bản thứ hai về tăng trưởng tích cực của các ngành kinh tế, đầu tư tư nhân và DN Nhà nước phục hồi nhanh hơn, động lực tăng trưởng tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài, xuất khẩu mạnh mẽ, du lịch và tiêu dùng cải thiện và các chính sách mới.
“Các động lực tăng trưởng chủ đạo đều tăng trưởng mạnh, cả sản xuất công nghiệp, xuất khẩu đều phục hồi mạnh mẽ. Dịch vụ tăng trưởng rất tốt, là điểm sáng của nền kinh tế. Du lịch và tiêu dùng tăng trưởng nhanh hơn, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu thu hút khách du lịch quốc tế. Ngành nông nghiệp cũng tăng trưởng, đóng góp tích cực cho tăng trưởng” - Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng nói.
Còn trang Bloomberg cho rằng: "Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2024 có thể đạt 7%". Trang tài chính này nhấn mạnh kinh tế Việt Nam tăng trưởng 6,93% trong quý II vừa qua nhờ sự phục hồi của thương mại, gia tăng các hoạt động kinh doanh nhờ đầu tư nước ngoài.
Xử lý một số vấn đề, khó khăn
PGS.TS Nguyễn Hữu Huân - Giảng viên Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh cho rằng, 6 tháng cuối năm vẫn sẽ duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và sẽ đạt được mốc tăng trưởng đề ra vào cuối năm, mức 6 - 6,5% là hoàn toàn khả thi.
“Tuy nhiên, trong năm 2024, câu chuyện không phải là tăng trưởng kinh tế, vì tăng trưởng kinh tế chắc chắn đạt được. Áp lực năm nay xoay quanh tỷ giá và lạm phát” - ông Huân nói thêm.
Trong nửa cuối năm 2024, các chuyên gia của CIEM cho rằng Việt Nam cũng phải lưu tâm, xử lý một số vấn đề, khó khăn. Thứ nhất, áp lực lạm phát còn lớn. Đáng lưu ý, tác động từ tăng lương cơ sở và tăng lương tối thiểu vùng có thể gây ra lạm phát “chi phí đẩy” nếu không có giải pháp kịp thời, đồng bộ.
Bên cạnh đó, rủi ro gia tăng chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc - kèm theo đó là khả năng lạm phát gia tăng ở Mỹ và Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) có thể giữ lãi suất điều hành ở mức cao - cần phải được xem xét cẩn trọng.
Thứ hai, khả năng kết nối giữa DN trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa với DN FDI còn chậm được cải thiện, qua đó ảnh hưởng đến khả năng đóng góp và hưởng lợi từ xuất khẩu của các DN trong nước.
Thị trường bất động sản bước đầu ổn định, nhưng khó khăn, vướng mắc còn chậm được giải quyết. Hay khu vực công nghiệp và xây dựng tuy là động lực chính cho tăng trưởng và cũng đã tăng trưởng cao hơn so với kịch bản đề ra trong 6 tháng, nhưng phụ thuộc nhiều vào sự phục hồi kinh tế và sức mua tại các thị trường xuất khẩu lớn.
Trong khi đó, tăng trưởng ngành xây dựng phụ thuộc vào sự phục hồi thị trường bất động sản, tiến độ tháo gỡ vướng mắc, triển khai các dự án đầu tư, đầu tư công.
Ngoài ra, quá trình cải cách các quy định, điều kiện kinh doanh còn chưa tương xứng với yêu cầu và kỳ vọng, qua đó có thể ảnh hưởng đến khả năng tận dụng cơ hội kinh tế của cộng đồng DN.
Trong phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 6, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, không chủ quan, lơ là, mất cảnh giác, "say sưa chiến thắng", quyết tâm khắc phục hạn chế, bất cập, vượt qua khó khăn, thách thức; nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện thành công toàn diện các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ năm 2024.
Tháo gỡ cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới
Về dư địa tăng trưởng trong dài hạn, CIEM cho rằng Việt Nam có thể phát triển tài chính xanh, phát triển kinh tế ban đêm ở một số đô thị lớn ở Việt Nam…
S&P Global Ratings nhấn mạnh, Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất, khi các DN tiếp tục đa dạng hóa hoạt động trong khu vực. Chu kỳ tăng trưởng của ngành bán dẫn khả năng sẽ thúc đẩy tăng trưởng của Việt Nam trong năm 2024 khi xuất khẩu của ngành bán dẫn tăng lên.
Trong các chỉ đạo gần đây, Thủ tướng Chính phủ luôn nhấn mạnh việc thúc đẩy các động lực tăng trưởng cũ và mới.
Bộ KH&ĐT đã làm việc với 20 hiệp hội và khảo sát khoảng 30.000 DN, cho thấy, khó khăn lớn nhất của DN là nhu cầu thị trường thấp, áp lực cạnh tranh và chi phí sản xuất tăng cao. Một bộ phận không nhỏ DN còn khó khăn về tài chính, lãi suất vay vốn và thủ tục hành chính…
Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam Trương Văn Cẩm cho biết, dù đơn hàng của DN đã quay lại nhưng hợp đồng ký ngắn hạn từng quý trong khi giá bình quân giảm 30%, thậm chí có đơn hàng giảm 50 - 60% nhưng DN vẫn phải ký để duy trì sản xuất và tạo việc làm cho người lao động.
Những khó khăn đó sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng 6,5%, thậm chí là phấn đấu đạt mức 7% trong năm nay. Vì thế, trong chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, để dồn lực cho tăng trưởng, phải tiếp tục thúc đẩy xuất khẩu, kích cầu tiêu dùng nội địa và đặc biệt là đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công… Sự nỗ lực của các địa phương, đặc biệt là các đầu tàu kinh tế cũng rất quan trọng để giữ vững đà phục hồi của nền kinh tế.
Thủ tướng cũng nhận định, khôi phục các động lực tăng trưởng truyền thống cũng như khơi thông, tận dụng hiệu quả các động lực tăng trưởng mới hướng đến phát triển bao trùm, bền vững trở thành yêu cầu vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài đối với nền kinh tế Việt Nam trong năm 2024 và những năm tiếp theo.
“Để có thể đạt mục tiêu tăng trưởng 7,5 - 8% trong năm nay, tăng trưởng GRDP quý III của TP Hồ Chí Minh phải đạt trên 7%, và quý IV phải cao hơn nữa” - Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh Phan Văn Mãi nói và cho biết, để tăng tốc trong 2 quý còn lại, TP sẽ nỗ lực, tìm mọi giải pháp để thúc đẩy tăng trưởng.
Trong kết quả 6 tháng đầu năm 2024, UBND TP Hà Nội đã có đánh giá: các ngành kinh tế đều phát triển. “Điểm sáng” phát triển chính quyền số, xây dựng TP thông minh. Hà Nội quyết tâm đạt mục tiêu tăng trưởng 6,5 - 7%.
Đặc biệt, các đầu tàu kinh tế đều nhấn mạnh, cùng với việc bảo đảm ổn định và tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát; tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh chú trọng cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; khơi thông, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài; thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới, sẽ tập trung thực hiện hiệu quả, thực chất cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng; thúc đẩy phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
Việt Nam vẫn đứng đầu bảng xếp hạng tăng trưởng trên thế giới. Tôi nghĩ đây là điều đáng mừng. Việt Nam cần tiếp tục duy trì các chính sách tốt để có nền tảng kinh tế, tài chính tốt, môi trường kinh doanh hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài.
Chủ tịch Tập đoàn Standard Chartered Jose Vinals
Label putih
Data API
Web Plug-ins
Pembuat Poster
Program Afiliasi
Berdagang Instrumen Keuangan Seperti Saham, Mata Uang, Komoditas, Kontrak Berjangka, Obligasi, Dana, Atau Mata Uang Kripto Adalah Perilaku Berisiko Tinggi, Termasuk Kehilangan Sebagian Atau Seluruh Jumlah Investasi Anda, Sehingga Perdagangan Tidak Cocok Untuk Semua Investor.
Anda Harus Melakukan Uji Tuntas Anda Sendiri, Menggunakan Penilaian Anda Sendiri, Dan Berkonsultasi Dengan Penasihat Yang Memenuhi Syarat Saat Membuat Keputusan Keuangan Apa Pun. Konten Situs Web Ini Tidak Ditujukan Kepada Anda, Situasi Keuangan Atau Kebutuhan Anda Juga Tidak Diperhitungkan. Informasi Yang Terdapat Di Situs Web Ini Belum Tentu Tersedia Secara Waktu Nyata, Juga Belum Tentu Akurat. Setiap Pesanan Atau Keputusan Keuangan Lainnya Yang Anda Buat Sepenuhnya Menjadi Tanggung Jawab Anda Dan Anda Tidak Boleh Bergantung Pada Informasi Apa Pun Yang Disediakan Melalui Situs Web. Kami Tidak Memberikan Jaminan Apa Pun Untuk Informasi Apa Pun Di Situs Web Dan Tidak Bertanggung Jawab Atas Kerugian Transaksi Apa Pun Yang Mungkin Timbul Dari Penggunaan Informasi Apa Pun Di Situs Web.
Dilarang Menggunakan, Menyimpan, Menggandakan, Menampilkan, Memodifikasi, Menyebarluaskan Atau Mendistribusikan Data Yang Terdapat Dalam Situs Web Ini Tanpa Izin Tertulis Dari Situs Web Ini. Semua Hak Kekayaan Intelektual Dilindungi Oleh Pemasok Dan Bursa Yang Menyediakan Data Yang Terdapat Di Situs Web Ini.