Kutipan
Berita
Analisis
Pengguna
24/7
Kalender Ekonomi
Pendidikan
Data
- Nama
- Nilai Terbaru
- Sblm.
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S:--
P: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S:--
P: --
S:--
P: --
S:--
P: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
S:--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
--
P: --
S: --
Tidak Ada Data Yang Cocok
Opini Terbaru
Opini Terbaru
Topik Populer
Untuk mempelajari dinamika pasar dengan cepat dan mengikuti fokus pasar dalam 15 menit.
Di dunia umat manusia, tidak akan ada pernyataan tanpa pendirian apa pun, dan tidak akan ada ucapan tanpa tujuan apa pun.
Inflasi, nilai tukar, dan perekonomian membentuk keputusan kebijakan bank sentral; Sikap dan perkataan pejabat bank sentral juga mempengaruhi tindakan para pedagang pasar.
Uang membuat dunia berputar dan mata uang adalah komoditas permanen. Pasar forex penuh dengan kejutan dan ekspektasi.
Kolumnis Teratas
Nikmati kegiatan menarik, di sini di FastBull.
Berita terbaru dan peristiwa keuangan global.
Saya memiliki pengalaman 5 tahun dalam analisis keuangan, terutama dalam aspek perkembangan makro dan penilaian tren jangka menengah dan panjang. Fokus saya terutama pada perkembangan Timur Tengah, pasar negara berkembang, batu bara, gandum, dan produk pertanian lainnya.
Saya bekerja sebagai analis di perusahaan broker forex ternama dan telah berkecimpung di industri keuangan selama 10 tahun, melibatkan forex, futures dan saham. Saya sangat ahli dalam menganalisis dan menginterpretasikan pasar menggunakan data fundamental.
Terbaru
Peringatan Risiko dalam Perdagangan Saham HK
Terlepas dari kerangka hukum dan peraturan Hong Kong yang kuat, pasar sahamnya masih menghadapi risiko dan tantangan yang unik, seperti fluktuasi mata uang karena patokan dolar Hong Kong terhadap dolar AS dan dampak perubahan kebijakan dan kondisi ekonomi Tiongkok daratan terhadap saham Hong Kong.
Biaya dan Pajak Perdagangan Saham HK
Biaya perdagangan di pasar saham Hong Kong meliputi biaya transaksi, bea materai, biaya penyelesaian, dan biaya konversi mata uang untuk investor asing. Selain itu, pajak mungkin berlaku berdasarkan peraturan setempat.
Industri Barang Konsumsi Non-Pokok HK
Pasar saham Hong Kong mencakup sektor konsumsi non-esensial seperti otomotif, pendidikan, pariwisata, katering, dan pakaian jadi. Dari 643 perusahaan yang terdaftar, 35% berasal dari Cina daratan, yang merupakan 65% dari total kapitalisasi pasar. Dengan demikian, pasar ini sangat dipengaruhi oleh ekonomi Tiongkok.
Industri Real Estat HK
Dalam beberapa tahun terakhir, pangsa sektor real estat dan konstruksi di indeks saham Hong Kong telah menurun. Namun demikian, pada tahun 2022, sektor ini masih memiliki sekitar 10% pangsa pasar, yang mencakup pengembangan real estat, teknik konstruksi, investasi, dan manajemen properti.
Hongkong, China
Vietnam Ho Chi Minh
Dubai, UAE
Nigeria Lagos
Kairo Mesir
Label putih
Data API
Web Plug-ins
Program Afiliasi
Lihat Semua
Tidak ada data
Tidak Masuk
Masuk untuk mengakses lebih banyak fitur
Anggota FastBull
Belum
Pembelian
Masuk
Daftar
Hongkong, China
Vietnam Ho Chi Minh
Dubai, UAE
Nigeria Lagos
Kairo Mesir
Label putih
Data API
Web Plug-ins
Program Afiliasi
Tăng tốc cuối năm, tín dụng không còn xa mục tiêu tăng trưởng
VCBS dự đoán lãi suất cho vay tăng thêm 0,5-0,7% vào năm 2025 trong bối cảnh kinh tế hồi phục và nhu cầu tín dụng mạnh mẽ hơn.
Tín dụng toàn nền kinh tế tăng mạnh trong các tháng cuối năm và không còn xa mục tiêu 14% mà ngành ngân hàng đưa ra cho năm nay, bởi gần giữa tháng 12 đã đạt 12,5%.
Tăng tốc cuối năm
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, tính đến ngày 13/12, tín dụng toàn nền kinh tế tăng khoảng 12,5% so với cuối năm 2023, tập trung vào sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên. Riêng tại địa bàn TP.HCM, tính đến cuối tháng 11/2024, tổng dư nợ tín dụng đạt 3.828 ngàn tỷ đồng, tăng 1,14% so với tháng trước, tăng 8,1% so với cuối năm 2023 và tăng 12,5% so với cùng kỳ.
Ông Nguyễn Đức Lệnh, Phó giám đốc NHNN TP.HCM cho hay, diễn biến tăng trưởng tín dụng của Thành phố trong những tháng gần đây phù hợp với xu hướng tăng trưởng của nền kinh tế. Trong quá trình đó, nhu cầu vốn cho sản xuất - kinh doanh, thương mại dịch vụ, tiêu dùng tăng, trở thành yếu tố chính thúc đẩy tăng trưởng tín dụng trong tháng cuối cùng của năm.
Tại Hội nghị Triển khai nhiệm vụ ngân hàng năm 2025 tổ chức mới đây, lãnh đạo BIDV cho hay, dự kiến kết thúc năm 2024, ngân hàng này sẽ có quy mô tổng tài sản vượt mốc 2,6 triệu tỷ đồng; dư nợ tín dụng đạt gần 2 triệu tỷ đồng, tăng trưởng khoảng 14%. Vietcombank cũng cho biết, năm 2024, tăng trưởng tín dụng dự kiến ở mức 13%, đạt quy mô trên 1,4 triệu tỷ đồng, tổng tài sản gần 2 triệu tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu kiểm soát dưới 1%.
Tương tự, VietinBank là ngân hàng có tốc độ tăng trưởng tín dụng tốt nhất, khi tính đến hết tháng 11/2024, tổng tài sản ước đạt hơn 2,3 triệu tỷ đồng, tăng 14,7% so với năm 2023; tín dụng tăng trưởng 14,2% so với năm 2023; nguồn vốn huy động đạt gần 1,7 triệu tỷ đồng, tăng 11,3% so với cuối năm 2023.
Lãnh đạo Agribank cho hay, dự kiến đến hết năm 2024, tổng tài sản của Ngân hàng tăng 7,9% so với năm 2023; nguồn vốn đạt 2 triệu tỷ đồng, tăng 6% so với đầu năm; dư nợ đạt trên 1,7 triệu tỷ đồng, tăng 11% so với năm 2023; nợ xấu được kiểm soát chặt chẽ, tỷ lệ nợ xấu nội bảng khoảng 1,6%, lợi nhuận trước thuế tăng 8%...
Nhằm thúc đẩy tín dụng, NHNN đã chủ động thực hiện hai lần điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các tổ chức tín dụng trong năm 2024 theo nguyên tắc cụ thể, đảm bảo công khai. Theo đó, NHNN tiếp tục cấp bổ sung hạn mức tín dụng cho các ngân hàng đã sử dụng từ 80% hạn mức được cấp, đây là lần cấp hạn mức tín dụng bổ sung thứ 2 trong năm, với quyết tâm hoàn thành mục tiêu tăng trưởng tín dụng 15%.
Nỗ lực kéo giảm lãi suất cho vay
Phó thống đốc NHNN Đào Minh Tú cho hay, năm 2024, NHNN tiếp tục giữ nguyên các mức lãi suất điều hành trong bối cảnh lãi suất thế giới vẫn neo ở mức cao, tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn từ NHNN với chi phí thấp, qua đó có điều kiện để hỗ trợ nền kinh tế; tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí hoạt động để phấn đấu giảm lãi suất cho vay, yêu cầu tổ chức tín dụng báo cáo và công bố công khai mức lãi suất cho vay bình quân, chênh lệch lãi suất tiền gửi, cho vay bình quân trên trang thông tin điện tử tổ chức tín dụng.
Theo ông Phạm Toàn Vượng, Tổng giám đốc Agribank, Ngân hàng đã triển khai kịp thời các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng theo đúng chỉ đạo của Chính phủ, NHNN. Đến ngày 30/11, Agribank đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ trên 55.000 tỷ đồng (gốc, lãi) cho 7.300 khách hàng; dư nợ còn lại 25.000 tỷ đồng với hơn 3.000 khách hàng.
Sau bão số 3 gây thiệt hại nặng nề về người, tài sản, Agribank đã thực hiện ngay việc giảm từ 0,5- 2%/năm lãi suất cho vay; miễn, giảm 100% lãi quá hạn, lãi chậm trả trong thời gian từ ngày 6/9 đến 31/12/2024 đối với dư nợ hiện hữu; giảm 0,5%/năm lãi suất đối với khoản vay mới phát sinh từ ngày 6/9 đến hết năm 2024. Đến ngày 30/11, dư nợ được giảm lãi suất hỗ trợ hơn 39.000 tỷ đồng, số tiền lãi hỗ trợ là 30 tỷ đồng với 25.000 khách hàng...
Theo báo cáo của các ngân hàng thương mại, đến nay, mặt bằng lãi suất cho vay tiếp tục giảm khoảng 0,96%/năm so với cuối năm 2023. Trong Báo cáo triển vọng ngân hàng năm 2025, Công ty cổ phần Chứng khoán Vietcombank (VCBS) chỉ rõ, lãi suất cho vay đã giảm về mức thấp kỷ lục trong quý III/2024. Theo dữ liệu tổng hợp từ báo cáo tài chính của 27 ngân hàng niêm yết, lãi suất cho vay trung bình đã giảm khoảng 2,7 % từ mức đỉnh của quý I/2023.
Các chuyên gia tích dự báo, việc lãi suất huy động điều chỉnh tăng trở lại từ quý II/2024 có độ trễ 3 - 6 tháng để phản ánh vào lãi suất cho vay. Do đó, mặt bằng lãi suất cho vay đi ngang trong quý IV/2024 và dự đoán trong năm 2025 sẽ tăng tiếp, nhưng ở mức thấp, chứ không quá mạnh như nửa cuối năm 2024.
VCBS dự đoán lãi suất cho vay tăng thêm 0,5-0,7% vào năm 2025 trong bối cảnh kinh tế hồi phục và nhu cầu tín dụng mạnh mẽ hơn. NHNN cũng chia sẻ, việc điều hành lãi suất hiện nay gặp không ít khó khăn do áp lực từ thị trường quốc tế và tình hình trong nước. Nếu lãi suất cho vay giảm mạnh, tỷ giá có nguy cơ tăng cao, gây mất ổn định kinh tế vĩ mô và tâm lý lo ngại cho nhà đầu tư nước ngoài…
Áp lực tăng vốn và tham vọng lọt top 100 châu Á của các 'Big4'
Cần cơ chế tăng vốn "dài hơi" cho 4 ngân hàng quốc doanh.
Trong những năm gần đây, việc tăng vốn điều lệ luôn là vấn đề quan trọng đối với các ngân hàng quốc doanh. Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, việc xây dựng một cơ chế linh hoạt để tăng vốn điều lệ là bước đi cần thiết nhằm hiện thực hóa mục tiêu đưa ngân hàng Việt Nam vào top 100 ngân hàng lớn nhất châu Á.
Big4 gặp khó khăn trong cuộc đua về vốn
Mới đây, tại đại hội đồng cổ đông bất thường, LPBank đã thông qua phương án tăng vốn điều lệ năm 2024 bằng cách phát hành cổ phiếu trả cổ tức năm 2023 cho cổ đông hiện hữu với tỷ lệ 16,8%. Sau khi hoàn tất, vốn điều lệ của ngân hàng này sẽ đạt hơn 29,8 nghìn tỷ đồng. Trước đó, SeABank cũng đã hoàn thành việc tăng vốn điều lệ lên 28.350 tỷ đồng thông qua hai đợt phát hành cổ phiếu trả cổ tức và phát hành cổ phiếu từ nguồn vốn chủ sở hữu.
Cuộc đua tăng vốn của các ngân hàng không có dấu hiệu giảm nhiệt, đặc biệt là trong bối cảnh năm 2024, các ngân hàng đang đẩy mạnh kế hoạch tăng vốn để đáp ứng yêu cầu của đề án "Cơ cấu lại TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 – 2025". Theo đó, đến năm 2025, các ngân hàng thương mại lớn phải đạt vốn điều lệ tối thiểu 15.000 tỷ đồng, trong khi các ngân hàng nhỏ và vừa cần đạt 5.000 tỷ đồng.
Trong khi các ngân hàng tư nhân đang tích cực tăng vốn, các ngân hàng quốc doanh – nhóm chủ lực trong thực thi chính sách tiền tệ – lại đối mặt với nhiều khó khăn trong việc tăng vốn. Ngân hàng Nhà nước cho biết sẽ nghiên cứu và đề xuất sửa đổi quy định để tạo điều kiện cho các ngân hàng này tự chủ hơn trong việc tăng vốn.
Các ngân hàng quốc doanh đang tụt lại trong cuộc đua về vốn.
Quốc hội gần đây đã chấp thuận chủ trương đầu tư bổ sung vốn nhà nước cho Vietcombank với số tiền hơn 20.695 tỷ đồng, từ cổ tức cổ phiếu chia cho cổ đông nhà nước từ lợi nhuận còn lại. Nhờ vậy, Vietcombank sẽ tăng vốn điều lệ thêm 27.666 tỷ đồng, nâng tổng vốn lên 83.557 tỷ đồng. VietinBank cũng đang chuẩn bị hoàn tất đợt tăng vốn trong quý IV/2024, dự kiến đạt 74.200 tỷ đồng, tăng 38% so với năm 2023. Trong khi đó, Agribank đã được phê duyệt tăng vốn điều lệ lên 51.639 tỷ đồng vào tháng 10/2024, và BIDV tăng vốn từ 57.004 tỷ đồng lên 68.975 tỷ đồng thông qua phát hành cổ phiếu trả cổ tức.
Tuy nhiên, nhóm ngân hàng quốc doanh vẫn đang tụt lại so với các ngân hàng tư nhân trong cuộc đua tăng vốn. Năm 2018, Techcombank đã vượt qua BIDV và Agribank, lần đầu tiên chen chân vào top 3 ngân hàng có vốn điều lệ lớn nhất. Sau đó, các ngân hàng tư nhân tiếp tục tăng vốn nhanh hơn, với VPBank hiện có vốn điều lệ lớn nhất hệ thống, đạt 79.339 tỷ đồng, theo sau là Techcombank với 70.450 tỷ đồng.
Mặc dù vừa được tăng vốn, các ngân hàng quốc doanh vẫn có khoảng cách xa so với nhóm ngân hàng tư nhân hàng đầu. Quy mô vốn điều lệ là yếu tố quan trọng để đánh giá các chỉ tiêu an toàn hoạt động và khả năng dự phòng rủi ro. Việc không tăng vốn trong khi tín dụng tiếp tục mở rộng khiến tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của nhóm ngân hàng quốc doanh còn thấp, dao động từ 9% - 11%, trong khi các ngân hàng tư nhân có tỷ lệ CAR từ 13% - 15%.
Tìm kiếm cơ chế tăng vốn cho nhóm "Big4" ngân hàng quốc doanh
Trong phiên thảo luận về việc bổ sung vốn nhà nước cho Vietcombank, ông Phạm Đức Ấn, Chủ tịch HĐTV Agribank, cho biết: “Theo quy định hiện nay, hệ số an toàn vốn (CAR) của các ngân hàng thương mại phải đạt tối thiểu 8%. Hệ số này được tính bằng công thức: Vốn tự có/tổng tài sản rủi ro (chủ yếu là dư nợ tín dụng). Điều này có nghĩa là, để tăng trưởng tín dụng, vốn tự có cũng phải tăng tương ứng. Với mỗi ngân hàng trong nhóm Big4, nếu muốn đạt mức tăng trưởng tín dụng 10% mỗi năm, họ sẽ phải tăng vốn điều lệ thêm hơn 10.000 tỷ đồng mỗi năm.”
Mặc dù vấn đề này đã được bàn luận trong nhiều năm, nhưng bài toán tăng vốn cho các ngân hàng quốc doanh vẫn chưa tìm được lời giải tối ưu. Khác với các ngân hàng tư nhân, các ngân hàng có sự chi phối của cổ đông nhà nước phải trải qua một quy trình phê duyệt phức tạp từ các cấp có thẩm quyền, theo ông Phạm Đức Ấn, quy trình này đòi hỏi rất nhiều thủ tục và thời gian.
TS Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế, nhận định: “Việc xây dựng chiến lược tăng vốn dài hạn cho các ngân hàng quốc doanh là vô cùng cấp thiết. Những ngân hàng này đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước, chẳng hạn như cấp tín dụng, tài trợ cho các công trình trọng điểm của Chính phủ, thực hiện các nhiệm vụ an sinh xã hội, hay xử lý các ngân hàng yếu kém như trường hợp Vietcombank gần đây. Dù gánh vác nhiều nhiệm vụ quan trọng, nhưng vốn điều lệ của các ngân hàng này vẫn còn hạn chế, khiến họ khó mở rộng quy mô hoạt động.”
Ông Nghĩa cũng đề cập đến giải pháp tăng vốn điều lệ của các ngân hàng quốc doanh qua phát hành trái phiếu. Mặc dù việc phát hành trái phiếu đối với nhóm “Big4” không phải là khó khăn, nhưng theo các tiêu chuẩn quốc tế (Basel III), để phát hành vốn cấp 2 (trái phiếu), các ngân hàng này cần duy trì một mức vốn cấp 1 nhất định. Bên cạnh đó, Basel III cũng không khuyến khích việc tăng vốn tự có bằng trái phiếu do tính thiếu bền vững của nó.
"Về lâu dài, cần áp dụng cơ chế tăng vốn điều lệ hàng năm cho nhóm Big4 từ phần lợi nhuận nộp ngân sách nhà nước của các ngân hàng này. Những quốc gia có nền công nghiệp mạnh như Trung Quốc, Nhật Bản, và Hàn Quốc đều có các ngân hàng thương mại với quy mô tài sản lớn nhất thế giới. Điều này khác với một số quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, nơi quy mô ngân hàng còn hạn chế. Việc xây dựng một cơ chế tăng vốn linh hoạt cho các ngân hàng quốc doanh là bước đi quan trọng để hiện thực hóa mục tiêu đưa ngân hàng Việt Nam vào top 100 ngân hàng lớn nhất châu Á mà Chính phủ đã đặt ra,” ông Nghĩa nhấn mạnh.
Bài toán NIM và hạ lãi vay
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa tiếp tục yêu cầu các tổ chức tín dụng (TCTD) thúc đẩy giải ngân tín dụng và tiếp tục giảm lãi suất vay để hỗ trợ doanh nghiệp, người dân. Lãi suất cho vay bình quân các khoản vay mới và cũ được giảm xuống mức thấp và ổn định, nhằm thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh trong năm 2024 và những năm tiếp theo.
Biên lãi ròng (NIM) giảm mạnh, khiến các ngân hàng thương mại (NHTM) khó giảm lãi suất cho vay.
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới đây tiếp tục có văn bản yêu cầu các tổ chức tín dụng (TCTD) thúc đẩy giải ngân tín dụng và tiếp tục giảm lãi suất vay để hỗ trợ doanh nghiệp, người dân.
Lãi suất cho vay bình quân các khoản vay mới và cũ.
Tiến trình hạ lãi vay
Văn bản số 9364/NHNN-TD yêu cầu các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tập trung thực hiện các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh trong năm 2024 và những năm tiếp theo.
Nếu tính trong cả năm 2024, NHNN đã có nhiều lần ban hành các văn bản với định hướng tín dụng và yêu cầu tiết giảm chi phí để tiếp tục hạ lãi suất cho vay trong hệ thống.
Trên thực tế, lãi suất cho vay đã giảm khoảng 0,76%/năm từ đầu năm 2024 đến nay, sau mức giảm hơn 2,3% của năm trước, đưa lãi suất cho vay ngắn, trung và dài hạn về mặt bằng thấp ổn định so với lịch sử lãi vay của hệ thống ngân hàng 10 năm qua.
Cụ thể, NHNN cho biết lãi suất cho vay bình quân của NHTM trong nước đối với các khoản cho vay mới và cũ còn dư nợ ở mức 6,7-9,1%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân bằng VND đối với lĩnh vực ưu tiên khoảng 3,7%/năm, thấp hơn mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa theo quy định của NHNN (4%/năm).
Thống kê của VNDirect cho thấy trong quý II/2024, chi phí lãi vay của các doanh nghiệp niêm yết đã giảm xuống 5,9%/năm, giảm 0,4 điểm % so với quý trước. Điều này phản ánh nỗ lực của các NHTM trong việc giảm lãi suất cho vay nhằm kích thích phục hồi kinh tế. Tuy nhiên, như văn bản NHNN yêu cầu, liệu lãi suất cho vay có còn điều kiện giảm thêm?
Thách thức NIM và nợ xấu
Trên thị trường, các ngân hàng BaoViet Bank, HDBank, GPBank, LPBank, Nam A Bank, IVB, Viet A Bank, VIB, MB, Agribank, Techcombank, ABBank và VietBank đã có các đợt điều chỉnh lãi suất trong tháng 11. Diễn biến thay đổi nhiều hơn ở các kỳ hạn ngắn từ 1-3 tháng ở nhóm NHTMCP thuộc nhóm 2 (chẳng hạn như VIB và Nam A Bank).
Đáng chú ý ở nhóm NHTM Nhà nước, Agribank là ngân hàng đã tăng lãi suất liên tiếp trong 4 tháng trở lại đây, trở thành NHTM Nhà nước có lãi suất huy động cao nhất, lãi suất kỳ hạn 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng lần lượt là 2,4%/năm, 2,9%/năm, 3,6%/năm và 4,8%/năm. Đây là động thái hiếm hoi trong điều chỉnh lãi suất của nhóm Big 4 vốn vẫn đang “bất động” biểu niêm yết lãi suất như một nỗ lực tiên phong giữ mặt bằng lãi suất vay thấp nhằm điều hướng chung cho thị trường. Tuy vậy, lãi suất huy động tại Agribank tính ở đợt điều chỉnh mới này, vẫn thấp hơn đáng kể so với mức lãi suất huy động bình quân của nhóm NHTMCP tư nhân.
Với một bên là mục tiêu hạ lãi suất vay, một bên là gia tăng huy động để đáp ứng thanh khoản và nhu cầu vốn của nền kinh tế, các ngân hàng đã giảm NIM đáng kể. Một lãnh đạo của VietinBank chia sẻ về NIM giảm trong quý III xuống còn 2,26% do sự chênh lệch giữa tăng trưởng tín dụng và chi phí vốn (CoF); đồng thời chịu áp lực từ tỷ giá và lãi suất liên ngân hàng. Vị này vẫn kỳ vọng NIM sẽ đi ngang và có phần giảm nhẹ trong quý cuối năm nay. Có nghĩa, NHTM Nhà nước cũng đã dự phóng một kịch bản lãi suất huy động sẽ tiếp tục tăng, dẫn đến NIM co hẹp hơn nữa.
Trên thực tế, không chỉ VietinBank mà nhiều ngân hàng khác cũng đã giảm NIM về tỷ lệ thấp trong quý III/2024, như BIDV (2,2%), VCB (2,9%). NIM bình quân của nhóm này là 2,9%, thấp hơn so với “tỷ lệ định biên NIM” 3% mà HUBA đề xuất các ngân hàng cần đạt (và không lớn hơn với lợi nhuận cao) nhằm giảm tiếp lãi suất hỗ trợ doanh nghiệp.
Đối với nhóm NHTMCP tư nhân, NIM bình quân ở mức 4%, nhưng tỷ lệ giảm điểm lại cao hơn so với quý trước (giảm 28%), trong đó, các NHTM có dư nợ cho vay chủ đầu tư bất động sản giảm mạnh như TCB (giảm 43 điểm phần trăm), MBB (giảm 40 điểm phần trăm), VPB (giảm 34 điểm phần trăm), và TPB (giảm 28 điểm phần trăm)...
“Có 12/24 ngân hàng giảm NIM trong 9 tháng đầu năm nay. Điều này chủ yếu do chi phí vốn giảm, khi lượng tiền gửi với lãi suất cao trong giai đoạn đầu năm 2023 đã dần đáo hạn, song lãi suất cho vay cũng có xu hướng giảm mạnh hơn”, bà Trần Thị Khánh Hiền, Giám đốc Khối Nghiên cứu, Công ty Chứng khoán MB (MBS) bình luận.
Song song xu hướng NIM giảm, chất lượng tài sản của các ngân hàng cũng ghi nhận tỷ lệ nợ xấu tại NHTM Nhà nước và NHTMCP lần lượt tăng 4 điểm phần trăm và 7 điểm phần trăm lên 1,49% và 2,59% trong quý III/2024. Theo đó, ngay cả tín dụng có tăng trưởng tích cực (10 tháng đạt hơn 10%, cao hơn nhiều so với 7% của cùng kỳ năm trước), TS Nguyễn Trí Hiếu - chuyên gia ngân hàng, cho rằng khả năng giảm tiếp lãi suất gần như khó khả thi. Chưa kể đến áp lực thanh khoản và tỷ giá cũng vẫn đang tiếp tục “chèn ép” giá vốn của các ngân hàng trên thị trường 1 và 2. Các ngân hàng đang không chỉ bị các điều chỉnh kỳ vọng tăng trưởng lợi nhuận năm, mà còn lưu ý về áp lực trích lập dự phòng vào cuối năm nay, với Thông tư 02/2023/TT-NHNN hết hiệu lực. Khi ngân hàng vừa hạn chế về dư địa hạ lãi suất vừa chịu áp lực nợ xấu, chính các doanh nghiệp cũng phải lưu ý có thể sẽ gặp khó khăn hơn trong tiếp cận vốn vào 2025 nếu không đảm bảo tuân thủ các điều kiện tín dụng của khoản vay trước đó.
Sắp 'bơm' gần 670.000 tỷ đồng ra nền kinh tế
1. Mục tiêu:Đạt tăng trưởng tín dụng 15% trong năm 2024.Gần 670.000 tỷ đồng sẽ được bơm ra nền kinh tế trong 2 tháng cuối năm.
2. Lãi suất cho vay giảm:
Lãi suất cho vay bình quân giảm 0,76%/năm so với cuối năm 2023.
Hiện lãi suất cho vay:Ngắn hạn: 4,5% - 6,5%/năm.
Trung, dài hạn: Dưới 9%/năm.
3. Các gói tín dụng ưu đãi:
Sacombank: 15.000 tỷ đồng, lãi suất từ 4,5%/năm.
Agribank: 20.000 tỷ đồng, lãi suất từ 2,6%/năm cho kỳ hạn dưới 3 tháng, hỗ trợ lĩnh vực nông thủy sản.
4. Tín dụng tăng trưởng tích cực:
Tín dụng đến cuối tháng 10 tăng 10,08%, cao hơn mức 7,4% cùng kỳ năm 2023.
Ngân hàng Nhà nước nới room tín dụng, tạo điều kiện để ngân hàng đẩy mạnh vốn vay.
5. Tác động đến kinh tế:
Nếu 670.000 tỷ đồng tập trung vào sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, GDP có thể vượt 6%.
Cần kiểm soát lạm phát, tránh việc thúc đẩy tín dụng bằng mọi giá.
=> Việc bơm thêm vốn sẽ hỗ trợ doanh nghiệp và người dân, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng cần kiểm soát rủi ro lạm phát để đảm bảo hiệu quả lâu dài.
Thanh khoản chưa được cải thiện nhiều trong tuần 04 - 08/11. Tuy vậy, vẫn có nhóm ngành hút tiền nhờ câu chuyện riêng.
Thị trường chứng khoán biến động ngược chiều ở sàn HOSE và HNX trong tuần giao dịch 04 - 08/11. Ở sàn HOSE, chỉ số VN-Index giảm nhẹ 0.2% về 1,252 điểm. Khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch giảm vào khoảng 10% về còn 550 triệu đơn vị/phiên và gần 13.5 ngàn tỷ đồng.
Ngược lại, sàn HNX lại diễn biến theo hướng tăng. HNX-Index tăng 0.6% lên 226.88 điểm. Khối lượng trung bình tăng 9% lên 49.5 triệu đơn vị/phiên. Giá trị giao dịch bình quân tăng 24.5% lên 902 tỷ đồng/phiên.
Tổng quan thanh khoản thị trường tuần từ 04 - 08/11
Tuần qua, dòng tiền thể hiện xu hướng tích cực ở nhóm cổ phiếu bất động sản khu công nghiệp. Hàng loạt cổ phiếu thuộc nhóm này như SIP, KBC, SZC, BCM, IDC lọt nhóm cổ phiếu tăng mạnh thanh khoản sàn HOSE. Trong đó, mức tăng khối lượng giao dịch của SIP, KBC vượt trên 300%. Giá cổ phiếu cũng theo đó tăng tốt với mức tăng vào khoảng 10%.
Với các cổ phiếu khác như SZC, BCM, IDC, mức tăng thanh khoản cũng đạt từ 90% - 140%.
Thông tin ông Donald Trump đắc cử Tổng thống Mỹ tuần qua đã có tác động tích cực tới nhóm cổ phiếu bất động sản khu công nghiệp. Đây là nhóm được kỳ vọng sẽ hưởng lợi từ các chính sách của Mỹ trong nhiệm kỳ của ông Trump.
Bên cạnh đó, một số cổ phiếu chứng khoán cũng ghi nhận thanh khoản cải thiện tích cực. AGR, TVC, BVS, MBS, APS có khối lượng giao dịch tăng từ 50 - 90%.
Nhóm bất động sản nhà ở lại có sự phân hóa về dòng tiền. Loạt cổ phiếu như DXS, DTD, IDJ, CEO… đồng loạt ghi nhận thanh khoản tăng mạnh. Ngược lại, nhiều mã như OGC, CDC, HPX, AGG, VRE, PV2, NRC lại bị rút tiền.
Ở chiều giảm, dòng tiền rút nhẹ ở một số nhóm như vận tải (GMD, SCS, DXP giảm thanh khoản), xây dựng (DPG, TCD, C69, VC2, LIG giảm khối lượng giao dịch từ 20 - 50%).
Top 20 mã có thanh khoản tăng/giảm cao nhất sàn HOSE
Top 20 mã có thanh khoản tăng/giảm cao nhất sàn HNX
* Danh sách các mã tăng, giảm thanh khoản nhiều nhất xét đến khối lượng giao dịch bình quân trên 100,000 đơn vị/phiên.
Chí Kiên
FILI
Nhóm cổ phiếu nào sẽ hưởng lợi từ kết quả bầu cử tổng thống Mỹ?
Chứng khoán Agribank (Agriseo) mới có báo cáo về sự kiện bầu cử Tổng thống Mỹ 2024 và thị trường Chứng khoán Việt Nam
CTCP Chứng khoán Agribank (Agriseco, HOSE: AGR) sắp chi gần 151 tỷ đồng để thanh toán cổ tức năm 2023 vào ngày 18/10, ngày giao dịch không hưởng quyền là 02/10. Công ty mẹ Agribank dự kiến thu về gần 113 tỷ đồng nhờ sở hữu trực tiếp gần 75% vốn.
Ngày 17/09, HĐQT AGR thông qua trả cổ tức năm 2023 theo đề nghị của Tổng Giám đốc tại tờ trình HĐQT ngày 12/09/2024, tỷ lệ 7% (700 đồng/cp). Ngày giao dịch không hưởng quyền là 02/10, thanh toán ngày 18/10.
Với gần 215.4 triệu cp đang lưu hành, ước tính AGR cần chi ra gần 151 tỷ đồng cho đợt cổ tức này. Trong cơ cấu sở hữu tính đến ngày 30/06/2024, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) đang là công ty mẹ với tỷ lệ sở hữu trực tiếp 74.92%, tương ứng có thể thu về gần 113 tỷ đồng.
Tỷ lệ cổ tức 7% cho năm 2023 cao hơn tỷ lệ 6% đã thực hiện trong năm liền trước. Đây cũng là năm thứ hai liên tiếp AGR chia cổ tức bằng tiền mặt cho cổ đông sau giai đoạn dài không chia cổ tức bằng hình thức này.
Lịch sử trả cổ tức của AGRNguồn: VietstockFinance
Trong 6 tháng đầu năm 2024, AGR mang về tổng doanh thu và thu nhập khác hơn 215 tỷ đồng, tăng 25% so với cùng kỳ năm trước, nhưng sau cùng lãi ròng gần 61 tỷ đồng, giảm đến 29%.
AGR cho biết, các nghiệp vụ kinh doanh như môi giới, tự doanh, cho vay tăng trưởng tốt giúp tổng doanh thu tăng. Tuy nhiên, do chịu tác động từ cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt khiến biên lợi nhuận sụt giảm, đặc biệt là phí môi giới bình quân đã giảm 8% so với cùng kỳ. Đồng thời, AGR còn không được hoàn nhập dự phòng từ thu hồi nợ xấu như cùng kỳ.
Lãi ròng AGR sụt giảm trong 6 tháng đầu năm 2024
Huy Khải
FILI
Label putih
Data API
Web Plug-ins
Pembuat Poster
Program Afiliasi
Berdagang Instrumen Keuangan Seperti Saham, Mata Uang, Komoditas, Kontrak Berjangka, Obligasi, Dana, Atau Mata Uang Kripto Adalah Perilaku Berisiko Tinggi, Termasuk Kehilangan Sebagian Atau Seluruh Jumlah Investasi Anda, Sehingga Perdagangan Tidak Cocok Untuk Semua Investor.
Anda Harus Melakukan Uji Tuntas Anda Sendiri, Menggunakan Penilaian Anda Sendiri, Dan Berkonsultasi Dengan Penasihat Yang Memenuhi Syarat Saat Membuat Keputusan Keuangan Apa Pun. Konten Situs Web Ini Tidak Ditujukan Kepada Anda, Situasi Keuangan Atau Kebutuhan Anda Juga Tidak Diperhitungkan. Informasi Yang Terdapat Di Situs Web Ini Belum Tentu Tersedia Secara Waktu Nyata, Juga Belum Tentu Akurat. Setiap Pesanan Atau Keputusan Keuangan Lainnya Yang Anda Buat Sepenuhnya Menjadi Tanggung Jawab Anda Dan Anda Tidak Boleh Bergantung Pada Informasi Apa Pun Yang Disediakan Melalui Situs Web. Kami Tidak Memberikan Jaminan Apa Pun Untuk Informasi Apa Pun Di Situs Web Dan Tidak Bertanggung Jawab Atas Kerugian Transaksi Apa Pun Yang Mungkin Timbul Dari Penggunaan Informasi Apa Pun Di Situs Web.
Dilarang Menggunakan, Menyimpan, Menggandakan, Menampilkan, Memodifikasi, Menyebarluaskan Atau Mendistribusikan Data Yang Terdapat Dalam Situs Web Ini Tanpa Izin Tertulis Dari Situs Web Ini. Semua Hak Kekayaan Intelektual Dilindungi Oleh Pemasok Dan Bursa Yang Menyediakan Data Yang Terdapat Di Situs Web Ini.