ตลาด
ข่าวสาร
การวิเคราะห์
ผู้ใช้
24x7
ปฏิทินเศรษฐกิจ
แหล่งเรียนรู้
ข้อมูล
- ชื่อ
- ค่าล่าสุด
- ครั้งก่อน
ค:--
ค: --
ค: --
ค:--
ค: --
ค: --
ค:--
ค: --
ค: --
ค:--
ค: --
ค: --
ค:--
ค: --
ค: --
ค:--
ค: --
ค: --
ค:--
ค: --
ค: --
ค:--
ค: --
ค: --
ค:--
ค: --
ค: --
ค:--
ค: --
ค: --
ค:--
ค: --
ค: --
ค:--
ค: --
ค: --
ค:--
ค: --
ค: --
ค:--
ค: --
ค: --
ค:--
ค: --
ค:--
ค: --
ค: --
ค:--
ค: --
ค:--
ค: --
ค: --
ค:--
ค: --
ค: --
ค:--
ค: --
ค: --
ค:--
ค: --
ค: --
ค:--
ค: --
ค: --
ค:--
ค: --
ค:--
ค: --
ค:--
ค: --
ค: --
ค:--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
--
ค: --
ค: --
ไม่มีข้อมูลที่ตรงกัน
ทัศนคติล่าสุด
ทัศนคติล่าสุด
หัวข้อยอดนิยม
เพื่อเรียนรู้การเปลี่ยนแปลงของตลาดอย่างรวดเร็วและติดตามตลาดโฟกัสใน 15 นาที
ในโลกของมนุษยชาติ จะไม่มีคำกล่าวใด ๆ ที่ไม่มีจุดยืนใด ๆ หรือคำพูดใด ๆ ที่ไม่มีจุดประสงค์ใด ๆ
อัตราเงินเฟ้อ อัตราแลกเปลี่ยน และเศรษฐกิจเป็นตัวกำหนดการตัดสินใจเชิงนโยบายของธนาคารกลาง ทัศนคติและคำพูดของเจ้าหน้าที่ธนาคารกลางยังมีอิทธิพลต่อการกระทำของเทรดเดอร์ในตลาดอีกด้วย
เงินทำให้โลกหมุนไป และสกุลเงินเป็นสินค้าถาวร ตลาดฟอเร็กซ์เต็มไปด้วยความประหลาดใจและความคาดหวัง
คอลัมนิสต์ยอดนิยม
เพลิดเพลินกับกิจกรรมที่น่าตื่นเต้น ที่นี่ที่ FastBull
ข่าวด่วนล่าสุดและเหตุการณ์ทางการเงินทั่วโลก
ฉันมีประสบการณ์ 5 ปีในการวิเคราะห์ทางการเงิน โดยเฉพาะอย่างยิ่งในด้านการพัฒนามหภาคและการตัดสินแนวโน้มระยะกลางและระยะยาว ความสนใจของฉันอยู่ที่การพัฒนาของตะวันออกกลาง ตลาดเกิดใหม่ ถ่านหิน ข้าวสาลี และสินค้าเกษตรอื่นๆ
7 ปีของตลาดหุ้น การแลกเปลี่ยนเงินตราต่างประเทศ โลหะมีค่า และประสบการณ์การซื้อขายและการวิเคราะห์อื่น ๆ โดยอาศัยปัจจัยพื้นฐาน การสนับสนุนทางเทคนิค มีอคติต่อตรรกะธุรกรรมจากบนลงล่าง โดยเน้นที่วัฏจักรมหภาคและการควบคุมความเสี่ยง การคาดการณ์เชิงทฤษฎีอุปสงค์และอุปทานอเนกประสงค์ การเปลี่ยนแปลงของราคา สร้างสมดุลระหว่างผลกระทบของธุรกรรม การกระจายชิปและอารมณ์ตลาด และคงที่
อัปเดตล่าสุด
สร้างทัศนคติการลงทุนที่ดี
วอร์เรน บัฟเฟตต์ได้รับเกียรติให้เป็นหนึ่งในนักลงทุนที่ยิ่งใหญ่ที่สุดในประวัติศาสตร์ ปรัชญาการลงทุนของเขาประกอบด้วยการสร้างกรอบความคิดระยะยาว ขจัดญาณรบกวนของตลาด ไม่เก็งกำไร และเน้นย้ำว่าการลงทุนต้องมีมีจิตใจที่มั่นคงและเป้าหมายที่ชัดเจน
คำเตือนเกี่ยวกับความเสี่ยงในการลงทุนในตลาดหุ้นฮ่องกง
แม้ว่าระบบกฎหมายและกรอบการกำกับดูแลในฮ่องกงจะค่อนข้างสมบูรณ์ แต่ตลาดหุ้นยังคงเผชิญกับความเสี่ยงและความท้าทายพิเศษหลายประการ เช่น ความสัมพันธ์ระหว่าง HKD และ USD นักลงทุนต่างชาติอาจเผชิญกับความผันผวนของอัตราแลกเปลี่ยน ความผันผวนของนโยบายและสถานการณ์ทางเศรษฐกิจของจีนแผ่นดินใหญ่อาจส่งผลกระทบต่อตลาดหุ้นฮ่องกงด้วย
โครงสร้างต้นทุนและภาษีเมื่อลงทุนในหุ้นฮ่องกง
ต้นทุนการซื้อขายในตลาดหุ้นฮ่องกง ได้แก่ ค่าธรรมเนียมการทำธุรกรรมหุ้น ค่าอากรแสตมป์ ค่าธรรมเนียมการชำระบัญชี ฯลฯ สำหรับนักลงทุนต่างชาติอาจมีค่าธรรมเนียมการแปลงสกุลเงินเพิ่มเติมเป็นดอลลาร์ฮ่องกงและภาษีอื่น ๆ ตามข้อบังคับท้องถิ่น
การวิเคราะห์อุตสาหกรรมฮ่องกง:อุตสาหกรรมสินค้าอุปโภคบริโภคที่ไม่จำเป็น
อุตสาหกรรมสินค้าอุปโภคบริโภคที่ไม่จำเป็นของฮ่องกง ได้แก่ รถยนต์ การศึกษา การท่องเที่ยว การจัดเลี้ยง เครื่องแต่งกาย และภาคส่วนอื่นๆ อีกมากมาย จากบริษัทจดทะเบียน 643 แห่งนั้น 35% เป็นบริษัทในจีนแผ่นดินใหญ่และคิดเป็น 65% ของมูลค่าตลาดทั้งหมด ดังนั้นอุตสาหกรรมนี้จึงได้รับอิทธิพลอย่างลึกซึ้งจากเศรษฐกิจจีน
ฮ่องกง,ประเทศจีน
นครโฮจิมินห์, เวียดนาม
ดูไบ, UAE
ลากอส, ไนจีเรีย
ไคโร, อียิปต์
ไวท์เลเบล
Data API
ปลั๊กอินเว็บไซต์
โครงการพันธมิตร
ดูผลการค้นหาทั้งหมด
ไม่มีข้อมูล
ไม่ได้ล็อกอิน
เข้าสู่ระบบเพื่อเข้าถึงฟังก์ชั่นเพิ่มเติม
สมาชิก FastBull
ยังไม่ได้เปิด
สมัคร
เข้าสู่ระบบ
ลงทะเบียน
ฮ่องกง,ประเทศจีน
นครโฮจิมินห์, เวียดนาม
ดูไบ, UAE
ลากอส, ไนจีเรีย
ไคโร, อียิปต์
ไวท์เลเบล
Data API
ปลั๊กอินเว็บไซต์
โครงการพันธมิตร
Rút sạch vốn sau nhịp tăng nóng, cổ đông lớn NDC bỏ túi gần 90 tỷ
Ông Vũ Anh Tuấn báo cáo đã bán toàn bộ 562,620 cp CTCP Nam Dược (UPCoM: NDC) nắm giữ, tương ứng 9.43% vốn, trong ngày 11/09. Đáng chú ý, ông Tuấn mới trở thành cổ đông lớn của NDC cách đây 2 tháng.
Dữ liệu của VietstockFinance cho thấy cổ phiếu NDC xuất hiện khối lượng thỏa thuận đúng bằng giao dịch của ông Vũ Anh Tuấn trong ngày 11/09. Tổng giá trị thỏa thuận đạt 89.74 tỷ đồng, trung bình 159,500 đồng/cp - cao hơn 2% so với thị giá kết phiên 11/09 (156,700 đồng/cp).
Ông Tuấn không có người liên quan tại Nam Dược và chỉ mới trở thành cổ đông lớn vào ngày 10/07 (tức hơn 2 tháng trước), sau khi mua vào 282,320 cp NDC và nâng sở hữu từ 4.7% lên 9.43% vốn. Giá trị thỏa thuận thời điểm này là 35.29 tỷ đồng, trung bình 125,000 đồng/cp.
Tính riêng lượng cổ phiếu NDC mua thêm trong tháng 7, ông Tuấn tạm lãi gần 10 tỷ đồng.
Trên thị trường chứng khoán, cổ phiếu NDC kém thanh khoản, khối lượng khớp lệnh bình quân từ đầu năm chỉ 555 cp/phiên. Từ cuối tháng 8, cổ phiếu NDC tăng dựng đứng, đưa thị giá từ vùng 125,000 đồng/cp lên đỉnh cao nhất năm 184,500 đồng/cp vào phiên 05/09, tương ứng tăng gần 48%.
Phiên chiều 16/09, thị giá NDC đứng yên tại mức tham chiếu 148,000 đồng/cp, giảm gần 20% từ đỉnh và giảm 9% so với đầu năm.
Cổ phiếu NDC kém thanh khoản phần lớn do cơ cấu cổ đông của Công ty khá cổ đặc. Tại ngày 30/06/2024, bà Dương Thị Sáu là cổ đông lớn nhất sở hữu 23.77% vốn; Công ty TNHH Dược phẩm Ích Nhân nắm 17.55% vốn và Phó Chủ tịch HĐQT Nguyễn Văn Giang nắm 5.46% vốn.
Ông Hoàng Minh Châu - Tổng Giám đốc Nam Dược. Ảnh: NDC
Trong đó, bà Dương Thị Sáu và Công ty Dược phẩm Ích Nhân là bên liên quan của ông Hoàng Minh Châu - Tổng Giám đốc Nam Dược. Bản thân ông Châu cũng trực tiếp sở hữu 3.18% vốn NDC.
Ngoài ra, một số lãnh đạo của Nam Dược đang sở hữu từ vài chục ngàn đến vài trăm ngàn cổ phần, tiêu biểu có Chủ tịch HĐQT Lã Xuân Hạnh nắm giữ 2.33% vốn; Thành viên HĐQT Dương Thị Lan nắm 1.76% vốn hay Thành viên HĐQT kiêm Phó Tổng Giám đốc Lê Văn Sản nắm 0.85% vốn.
Nam Dược đang kinh doanh ra sao?
Về tình hình kinh doanh, trong 5 năm gần nhất (2019-2023), Nam Dược ghi nhận doanh thu bình quân năm là 683 tỷ đồng, và lãi ròng trung bình 84 tỷ đồng/năm. Riêng năm 2022, Công ty đạt đỉnh cả về doanh thu và lợi nhuận, lần lượt thu 907 tỷ đồng và lãi ròng 131 tỷ đồng.
Năm 2023, doanh thu giảm nhẹ 8% về mức 830 tỷ đồng và lãi ròng đạt 96 tỷ đồng, thấp hơn 27% so với cùng kỳ. Công ty cho biết do ảnh hưởng của tình hình kinh tế chung, nhu cầu mua các sản phẩm dược liệu, chăm sóc sức khỏe suy giảm, hoạt động của 2 showroom (kênh bán lẻ trực tiếp) chưa hiệu quả.
Về lịch sử chia cổ tức, Nam Dược bắt đầu chi trả cổ tức cho cổ đông sau khi đưa cổ phiếu lên giao dịch trên sàn UPCoM năm 2010, tỷ lệ dao động từ 8-25%. Trong 5 năm gần nhất (2019-2023), tỷ lệ cổ tức duy trì 25% bằng tiền, ngoại trừ năm 2021 là 20%.
Nam Dược được thành lập năm 2004, có vốn điều lệ ban đầu 3.5 tỷ đồng, do 23 cổ đông sáng lập, lĩnh vực kinh doanh thời điểm đó là đại lý mua bán, ký gửi dược phẩm, mỹ phẩm, thực phẩm…
Từ năm 2009, Nam Dược chỉ tập trung chuyên sâu chiến lược phát triển thuốc Nam, từ bỏ sản xuất các sản phẩm tân dược. Các dòng sản phẩm nổi tiếng của Nam Dược đang được phân phối rộng rãi trên thị trường gồm Dạ Dày Nam Dược, Đại Tràng Nam Dược, Bảo Xuân Gold, Siro Ho Cảm Ích Nhi...
Sau 5 lần tăng vốn, vốn điều lệ của Nam Dược hiện gần 60 tỷ đồng, hơn 17 lần thời điểm thành lập. Người đại diện pháp luật là ông Hoàng Minh Châu - Tổng Giám đốc Công ty.
Bộ NN-PTNT vừa có báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ về thẩm chuyển nhượng gần 6 triệu tấn CO2 còn dư vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn 2018-2019. Trong đó nhấn mạnh, kết quả giảm phát thải này được tạo ra trong quá khứ, để lâu sẽ bị mất giá theo thời gian.
Báo cáo nêu rõ, cuối năm 2023, Bộ NN-PTNT đã thực hiện chuyển nhượng 10,3 triệu tấn carbon (CO2) cho Ngân hàng Thế giới (WB) theo thoả thuận. Ngay sau đó, WB có thư xác nhận chuyển giao lại khoảng 95% kết quả giảm phát thải đã chuyển nhượng cho Việt Nam để đóng góp vào NDC theo cam kết tại ERPA và quy định tại Nghị định số 107/2022/NĐ-CP.
Trước đó, WB có Công thư gửi Bộ NN-PTNT xác nhận kết quả giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn 2018-2019 đạt 16,21 triệu tấn CO2. Trong đó, lượng chuyển nhượng cho WB theo ERPA là 10,3 triệu tấn CO2.
Theo ERPA đã ký, WB có quyền mua bổ sung tối đa 5 triệu tấn CO2, mức giá 5 USD/tấn, khoảng 95% kết quả chuyển nhượng được chuyển giao lại cho Việt Nam để đóng góp vào NDC.
Hiện, WB đề xuất mua bổ sung 1 triệu tấn CO2 từ kết quả giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn 2018-2019. Bộ NN-PTNT đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ, đề xuất phương án chuyển nhượng bổ sung 1 triệu tấn CO2 cho WB theo ERPA đã ký; đồng thời đề xuất xử lý đối với 4,91 triệu tấn CO2 của giai đoạn 2018-2019 tại các văn bản đã gửi trước đó.
Bộ NN-PTNT cũng đã lấy ý kiến các bộ và UBND 6 tỉnh vùng Bắc Trung Bộ về phương án chuyển nhượng 1 triệu tấn CO2 cho WB và đề xuất xử lý số lượng carbon còn dư.
Sau khi chuyển nhượng 10,3 triệu tấn CO2 cho WB, ở 6 tỉnh vùng Bắc Trung Bộ còn dư gần 6 triệu tấn CO2 giai đoạn 2018-2019. Ảnh minh hoạ
Về việc chuyển nhượng bổ sung 1 triệu tấn CO2 cho WB nằm trong con số tối đa bổ sung 5 triệu tấn CO2 theo ERPA đã ký, được Chính phủ giao thẩm quyền cho Bộ NN-PTNT thay mặt Chính phủ Việt Nam và các chủ rừng tại 6 tỉnh vùng Bắc Trung Bộ chuyển nhượng cho WB trong thời gian thực hiện ERPA.
Mặt khác, kết quả giảm phát thải chuyển nhượng này là kết quả tạo ra trong quá khứ (giai đoạn 2018-2019), nên rất khó có thể tìm kiếm các đối tác khác để thực hiện trao đổi, thương mại, để lâu sẽ bị mất giá theo thời gian. Trong khi đó, thị trường carbon trong nước sẽ được thiết lập và vận hành chính thức vào năm 2028.
Do đó, để tiếp tục huy động nguồn lực bổ sung cho công tác bảo vệ và phát triển rừng, Bộ NN-PTNT đề xuất và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép Bộ này tiếp tục thực hiện chuyển nhượng bổ sung 1 triệu tấn CO2 cho WB.
Đối với 4,91 triệu tấn CO2 từ lượng giảm phát thải còn lại, WB không đề xuất mua thêm. Vì vậy, Việt Nam có quyền chuyển nhượng cho các đối tác tiềm năng khác.
Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, Bộ NN-PTNT chưa nhận được đề xuất của các tổ chức, đối tác trong và ngoài nước về trao đổi, chuyển nhượng lượng giảm phát thải này. Theo đó, Việt Nam có thể sử dụng lượng giảm phát thải còn dư này đóng góp vào NDC quốc gia.
Trường hợp có tổ chức, đối tác quan tâm, đề xuất trao đổi, chuyển nhượng, Bộ NN-PTNT sẽ nghiên cứu, đề xuất phương án quản lý, sử dụng nguồn thu này, lấy ý kiến của Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường và 6 tỉnh Bắc Trung Bộ, sau đó báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định để đảm bảo không ảnh hưởng đến kết quả đóng góp vào NDC.
Còn trong trường hợp chưa có ý kiến đồng ý của Thủ tướng về việc thực hiện chuyển nhượng lượng giảm phát thải còn dư của vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn 2018-2019 (gồm 1 triệu tấn CO2 theo đề xuất của WB và 4,91 triệu tấn CO2 còn lại), Bộ NN-PTNT kiến nghị cho phép bộ có Công thư gửi WB về việc chưa chuyển nhượng thêm 1 triệu tấn CO2.
Đến khi có kết quả đánh giá, tổng kết kết quả thực hiện triển khai Nghị định số 107/2022/NĐ-CP, Bộ NN-PTNT đề xuất phương án quản lý, sử dụng đối với lượng giảm phát thải còn dư báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Tâm An
VietNamNet
Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) tỉnh Quảng Trị mới đây có văn bản gửi UBND tỉnh về đề xuất nghiên cứu, hợp tác đánh giá tính khả thi của dự án sản xuất than sinh học từ phụ phẩm rừng và dự án phát triển rừng bền vững trên địa bàn tỉnh của Tập đoàn VinaCapital.
Theo Sở NN&PTNT cho biết ngày 15/07/2024, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có văn bản số 2316/SNN-KHTC về việc chuẩn bị nội dung làm việc với Tập đoàn VinaCapital về dự án sản xuất than sinh học từ phụ phẩm rừng và dự án phát triển rừng bền vững.
Đối với dự án sản xuất than sinh học từ phụ phẩm rừng, theo Sở NN&PTNT, dự án sẽ sử dụng nguyên liệu từ phụ phẩm rừng sản xuất như cành nhỏ, lá, rễ cây,... bị bỏ lại mặt đất sau mỗi đợt thu hoạch để sản xuất than sinh học. Qua theo dõi, nhận thấy thực trạng khai thác rừng trồng sản xuất trên địa bàn tỉnh, quá trình khai thác các phụ phẩm (cành nhỏ, lá, rễ cây,…) bị bỏ lại chiếm tỷ lệ khoảng 15% trong tổng trữ lượng rừng, không tạo ra nguồn thu cho chủ rừng.
Nếu dự án được triển khai sẽ tiêu thụ phần phụ phẩm này, tạo thêm nguồn thu cho chủ rừng, góp phần thêm vào phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, nhu cầu tăng cao về thu mua nguyên liệu này sẽ thúc đẩy quá trình mở rộng diện tích rừng trồng sản xuất trên đất lâm nghiệp chưa có rừng, phát triển sản xuất lâm nghiệp (từ các khâu cây giống, trồng, chăm sóc, đến khai thác rừng,...) từ đó sẽ góp phần làm tăng tỷ lệ che phủ rừng, tạo ra nhiều việc làm trực tiếp và gián tiếp cho lao động địa phương, góp phần nâng cao giá trị gia tăng rừng trồng sản xuất, đưa lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, cũng như tăng thêm nguồn thu ngân sách trên địa bàn tỉnh.
Đối với dự án phát triển rừng bền vững: Việc triển khai khai các hoạt động kéo dài chu kỳ khai thác gỗ rừng trồng sẽ tăng khả năng cung cấp gỗ lớn có giá trị cao từ rừng trồng, phù hợp với mục tiêu nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế từ rừng.
Đánh giá sự phù hợp của các dự án đối với quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, Sở NN&PTNT cho hai dự án trên phù hợp với mục tiêu, định hướng phát triển lâm nghiệp tỉnh giai đoạn 2019-2025, định hướng đến 2030.
Theo Sở NN&PTNN, tỉnh Quảng Trị có tổng diện tích rừng và đất quy hoạch phát triển rừng là 277,899ha; trong đó: diện tích rừng 248,190ha (rừng tự nhiên 126,694ha, rừng trồng 121,495ha), đất quy hoạch phát triển rừng 29,710ha. Tỷ lệ che phủ rừng toàn tỉnh duy trì ổn định, đạt 49.4% năm 2023. Cây rừng với chức năng hấp thụ và lưu giữ carbon, qua đó tỉnh Quảng Trị với diện tích rừng lớn là một địa phương có tiềm năng trong lĩnh vực cung cấp tín chỉ carbon từ rừng. Các khu rừng tự nhiên với chất lượng rừng tốt sẽ có khả năng hấp thụ CO2 cao hơn các loại rừng trồng, cây nông nghiệp. Bằng cách đầu tư vào công tác phát triển rừng, bảo môi trường giúp giảm hoặc ngăn chặn phát thải khí nhà kính chúng ta sẽ trực tiếp góp phần bảo vệ môi trường và tạo ra sự thay đổi tích cực cho tương lai.
Với diện tích rừng lớn, khả năng hấp thụ CO2 cao, tỉnh Quảng Trị có tiềm năng trong việc bán tín chỉ carbon trong thời gian tới, Sở NN&PTNT đánh giá.
Các cánh rừng nằm ven hồ thủy điện Quảng Trị. Ảnh: Thanhnien
Ngày 26/07/2024, Cục Lâm nghiệp có văn bản số 1108/LN-KH&HTQT về việc thông tin về tình hình triển khai dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon rừng, theo đó Cục lâm nghiệp khuyến nghị các các địa phương một số nội dung sau: (1) Dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon rừng là vấn đề mới, hiện mới được thí điểm tại 6 tỉnh vùng Bắc Trung Bộ, chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể để triển khai, đang tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện;
(2) Việc thương mại, trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon rừng với các tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế phải tuân thủ quy định pháp luật và chỉ được thực hiện đối với lượng giảm phảt thải dôi dư sau khi đã hoàn thành trách nhiệm đóng góp NDC theo hạn ngạch được phân bổ;
(3) Các địa phương chủ động huy động và lồng ghép các nguồn lực hợp pháp để triển khai các biện pháp giảm phát thải/tăng hấp thụ trên diện tích rừng quản lý để triển khai Kế hoạch giảm phát thải khí nhà kính lĩnh vực lâm nghiệp tại Quyết định số 1693/KH-BNN-KHCN ngày 28/04/2023 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm cơ sở đề xuất, triển khai các dự án chuyển nhượng tín chỉ carbon rừng.
Tiến Vũ
FILI
Bộ NN-PTNT cũng đang hợp tác định giá 1 tín chỉ carbon ở mức 20 USD. Nhưng ở đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao và giảm phát thải, nếu không thu được tín chỉ carbon thì chúng ta lỗ chứ không lời.
Đang định giá tín chỉ carbon với mức giá 20 USD
Tại toạ đàm “Tín chỉ carbon và nguồn nhân lực cho thị trường tín chỉ carbon”, sáng 16/8, ông Lê Hoàng Thế - Giám đốc Công ty TNHH Lâm nông nghiệp vi sinh VOS Harvest cho rằng, người dân cần thay đổi suy nghĩ về carbon (CO2), phải coi đó là “bạn”, là nguồn tiền bền vững, lâu dài.
Theo ông, carbon là nguyên tố gắn liền và hình thành lên sự sống trên trái đất. Bắt đầu từ việc tổng hợp carbon của cây xanh, vị chuyên gia cho biết, carbon tồn tại ở nhiều dạng, có thể trong cây, hoặc dưới đất trước khi giải phóng ra ngoài không khí.
“Carbon không mất đi, mà chỉ chuyển hóa dưới dạng này sang dạng khác”, ông Thế nhấn mạnh và cho rằng vấn đề hiện nay là cần biến điều này thành thu nhập, góp phần ổn định cuộc sống, sinh kế cho người dân.
GS.TS Võ Xuân Vinh, Viện trưởng Viện nghiên cứu kinh doanh đánh giá, ngành nông nghiệp nước ta có lợi thế lớn tham gia vào thị trường carbon trong và ngoài nước. Thời gian qua, ngành nông nghiệp đi đầu trong bán tín chỉ carbon.
Ông dẫn chứng, năm 2023 Việt Nam lần đầu tiên "bán" thành công 10,3 triệu tín chỉ carbon rừng thông qua Ngân hàng Thế giới với giá 5 USD/tấn, thu về 51,5 triệu USD (khoảng 1.250 tỷ đồng).
ĐBSCL đang thí điểm đề án 1 triệu ha lúa chuyên canh chất lượng cao và giảm phát thải. Ảnh: Hồ Hải
Vì vậy, ông hy vọng Việt Nam sẽ tích cực tham gia vào thị trường toàn cầu, đặt mục tiêu trong năm nay và năm sau bán thêm 5 triệu tín chỉ, nâng tổng số lượng carbon bán ra lên 25 triệu tín chỉ. Theo đó, dịch vụ hấp thu và lưu giữ carbon rừng sẽ là một trong những lợi thế của Việt Nam trong giai đoạn tới.
TS Trần Minh Hải - Phó Hiệu trưởng Trường Chính sách công và Phát triển nông nghiệp ở ĐBSCL cho biết: Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT) phối hợp với Viện Môi trường nông nghiệp đang xây dựng kế hoạch thiết lập và hoàn thiện hệ thống đo đạc, báo cáo và thẩm định (MRV) tiến tới bán tín chỉ carbon lúa.
Bộ NN-PTNT cũng đang hợp tác với Quỹ Tài chính carbon chuyển đổi (TCAF) để định giá tín chỉ carbon với mức giá 20 USD/tín chỉ. Nếu nông dân tuân thủ đầy đủ các quy trình, họ có thể giảm được 30% lượng phát thải, tương đương với việc giảm 2 tín chỉ carbon, mang lại lợi ích kinh tế là 960.000 đồng.
Song, ông cũng lưu ý, lợi ích kinh tế lớn nhất của đề án không chỉ nằm ở việc bán tín chỉ carbon mà còn ở việc giảm các chi phí đầu vào thông qua các quy trình sản xuất hiệu quả hơn. Ngoài ra, việc xây dựng thương hiệu lúa giảm phát thải và tổ chức lại sản xuất trên quy mô lớn cũng mang lại giá trị thặng dư đáng kể.
"Nhưng nếu không thu được tín chỉ carbon thì chúng ta lỗ chứ không lời”, ông Hải nói. Dù vậy, ông cũng cảnh báo, điều quan trọng là không nên tham gia vào thị trường carbon trong lĩnh vực lúa gạo bằng mọi giá. Thay vào đó, cần tập trung thực hiện đúng đắn và bền vững các quy trình sản xuất, đảm bảo lợi ích lâu dài cho cả người nông dân và nền kinh tế nông nghiệp.
Cần nhân lực để họ có thể thực hiện và quản lý các quy trình sản xuất mới, hiểu rõ và ứng dụng hiệu quả các biện pháp kỹ thuật nhằm tối ưu hóa khả năng hấp thụ và giảm phát thải carbon trong nông nghiệp", ông khẳng định. Bởi, với lĩnh vực lúa gạo, nhân lực cần có kỹ năng lập hồ sơ, ghi chép nhật ký sản xuất, theo dõi dấu chân carbon. Bên cạnh đó, họ cần biết cách thu gom rác thải thuốc BVTV, đo mực nước, giám sát nhà kho chứa và lò sấy lúa...
Cần nguồn nhân lực để tham gia thị trường tín chỉ carbon
TS Trần Đại Nghĩa, Trưởng ban Kinh tế tài chính và Tài nguyên môi trường cho biết, để bán được tín chỉ carbon theo hình thức tự nguyện, mỗi quốc gia phải tạo ra lượng carbon dôi dư vượt mức NDC - cam kết tự nguyện của mỗi quốc gia.
Song, vấn đề quan trọng trong việc tham gia thị trường tín chỉ carbon là phải định giá được carbon. Quốc tế có 3 hệ thống đánh giá, nhưng tại Việt Nam chỉ có thể sử dụng 2, đó là hệ thống trao đổi hạn ngạch và cơ chế tín chỉ carbon.
Việt Nam chủ yếu tham gia thị trường carbon tự nguyện. Dạng này dễ tham gia nhất, nhưng sẽ có thời gian định mức đánh giá. Nếu quá hạn thì hệ thống sẽ tự động đưa tín chỉ carbon về 0. Về thị trường bắt buộc, hiện nay nước ta chưa thể tham gia.
Dự kiến năm 2025, Việt Nam sẽ thí điểm hình thành sàn giao dịch tín chỉ carbon. Do đó, TS Lê Hoàng Thế cho rằng, việc cấp thiết hiện nay là đào tạo một lực lượng môi giới chuyên nghiệp để tham gia mua bán carbon.
Trên cơ sở đó, ông gợi ý cho các doanh nghiệp muốn tham gia thị trường tín chỉ carbon cần chuẩn bị nguồn nhân lực có hiểu biết để kiểm kê, kê khai và những vấn đề liên quan đến carbon.
GS.TS Võ Xuân Vinh bổ sung, “muốn phát triển xanh, con người phải là trọng tâm”. Để chuyển biến và tham gia vào thị trường carbon, cần sự tham gia của nhiều thành phần cũng như các chiến lược từ ngoại giao, khí hậu đến công nghệ.
Trên cơ sở đó, đào tạo, nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và các chuyên gia để thực hiện bài bản các bước từ đo đạc, báo cáo đến thẩm định. Đồng thời, các cơ quan, đơn vị cần thúc đẩy, nâng cao nhận thức của người dân.
Ngoài các chương trình đào tạo, các viện đào tạo và nghiên cứu cũng cần cố gắng tham gia vào mạng lưới đào tạo quốc tế về tín chỉ carbon, với mục tiêu chia sẻ cùng Chính phủ trong triển khai thực hiện các chính sách, cam kết và lộ trình tăng trưởng xanh, ông Vinh cho hay.
Tâm An
VietNamNet
Theo TS Lê Xuân Nghĩa, giá tín chỉ carbon đang rất 'nóng'. 4,9 triệu tín chỉ carbon rừng còn dư, nhiều khách hỏi mua với giá cao nhưng do kẹt về thủ tục nên chưa bán được.
Nhiều doanh nghiệp muốn mua
Cuối năm 2023, Việt Nam chuyển nhượng cho Ngân hàng Thế giới (WB) 10,3 triệu tấn CO2 với đơn giá 5 USD/tấn và thu về 51,5 triệu USD. Đây là khoản tiền đầu tiên mà Việt Nam nhận được từ bán tín chỉ carbon rừng. Ngay sau đó, các chủ rừng ở một số địa phương đã được chia tiền tín chỉ carbon này.
Theo báo cáo của Cục Lâm nghiệp (Bộ NN-PTNT), thời gian qua, một số địa phương đã nhận được đề nghị của các tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế đến tìm hiểu và đề xuất triển khai dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon rừng (dịch vụ carbon rừng), bao gồm việc đo đạc, báo cáo, thẩm định, phát hành và thương mại tín chỉ carbon rừng. Tỉnh Quảng Nam, Sơn La, Lào Cai, Thanh Hóa đã đề xuất xây dựng và triển khai Đề án thí điểm đầu tư, kinh doanh tín chỉ carbon rừng.
Chia sẻ tại tọa đàm “Triển vọng phát triển Tài chính xanh” mới đây TS Lê Xuân Nghĩa - thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, Viện trưởng Viện Tư vấn phát triển tài chính carbon (CODE) cho biết, giá tín chỉ carbon rất "nóng", nhưng quá trình làm chính sách lại rất gian nan.
Nhiều tổ chức, doanh nghiệp muốn mua tín chỉ carbon rừng của Việt Nam. Ảnh: Hoàng Anh
Việc tiến hành đo tín chỉ carbon rừng thuộc sở hữu của CODE vẫn đang được tiến hành. Đơn vị này vừa thực hiện đo bằng máy, vừa đo thủ công để so sánh kết quả.
“Nếu đo thủ công, mỗi 1ha rừng chi phí hết 178 triệu đồng, nhân lên với 500ha mà chúng tôi đang sở hữu vô cùng tốn kém”, ông nói.
Sau này, CODE đã nhờ chuyên gia nước ngoài tham gia hoạch định vì có rất nhiều công việc phải làm. Ví như chọn mẫu theo hướng mặt trời mọc hay mặt trời lặn, đo rừng lẫn tre thì làm thế nào (rừng lẫn tre có carbon cao nhất), làm thế nào để đo sinh khối khác (chỉ có máy mới đo được rễ và cành ngọn). Sắp tới có kết quả, CODE sẽ báo cáo Bộ Khoa học và Công nghệ, Chính phủ.
TS Lê Xuân Nghĩa nhấn mạnh, với CODE trồng rừng là công việc có tính chất nghiên cứu khoa học nhưng cũng là làm ăn có lãi (khoảng 2 triệu USD/năm).
“Khi bắt đầu, chúng tôi cố tình lựa chọn khu rừng bị tàn phá nặng nề để phục hồi sinh quyển. Đến nay, khu rừng này đã khôi phục được hiện trạng của rừng mưa nhiệt đới với sự trở lại của chim chóc và muông thú. Mười mấy ngàn cây gỗ lim phát triển tốt. Tất cả những gì rơi từ cây xuống, chúng tôi lại đưa vào vườn ươm, trồng lại”, ông Nghĩa chia sẻ.
Vị viện trưởng nhớ lại chuyện các nhà khoa học từ Pháp và Hà Lan ngỏ lời tới CODE để nghiên cứu sinh quyển Đông Nam Á và mua tín chỉ carbon.
“Ban đầu, chúng tôi mua tới 11 căn nhà sàn cổ và nhà thờ đá để làm du lịch sinh thái. Tuy nhiên, theo lời đề nghị mua tín chỉ carbon, chúng tôi đã chuyển từ làm du lịch sinh thái sang làm rừng”, TS Lê Xuân Nghĩa thuật lại quá trình phát triển tài chính carbon.
Trong quá trình thực hiện, CODE đã “dứt khoát đấu tranh” để bà con có sổ đỏ, qua đó giúp họ bán được carbon.
Doanh nghiệp đồng ý trả mức giá khá cao để mua tín chỉ carbon rừng.
Trả giá cao vẫn không mua được vì kẹt thủ tục
Chia sẻ về những vướng mắc trong quá trình phát triển tài chính carbon, theo TS Lê Xuân Nghĩa, đầu tiên là quy định pháp lý về sở hữu carbon.
“Rừng thuộc sở hữu của nhà nước, vậy carbon có thuộc sở hữu của nhà nước không? Sau khi 6 tỉnh Bắc Trung Bộ bán tín chỉ carbon rừng cho WB, tiền được tính cho bà con. Nhưng điều này lại không phù hợp với quy định rừng của nhà nước”, ông Nghĩa đặt vấn đề.
Liên quan đến việc triển khai sàn giao dịch tín chỉ carbon, TS Lê Xuân Nghĩa chỉ ra rằng, khi bán tín chỉ carbon liên tỉnh, Bộ NN-PTNT là đơn vị đứng ra bán. Tuy nhiên, khi bán riêng lẻ thì của tỉnh nào tỉnh đó bán. Bán như vậy chưa thể mang lên sàn giao dịch, bởi khi lên sàn cần phải có mã và mã phải có chủ.
Do đó, CODE đang đề nghị sửa đổi Nghị định 06 để có thể sớm đưa tín chỉ carbon lên sàn giao dịch.
Thứ hai là vấn đề giá carbon. Giá carbon đang rất “nóng”, CODE đã đàm phán được mức 30 USD/tín chỉ nhưng cũng gặp khó về thủ tục nên chưa thể bán.
Ông Nghĩa nhắc lại lần đầu tiên bán tín chỉ carbon rừng cho WB với giá 5 USD/tấn, là khá cao và WB đã tặng lại cho Việt Nam tới 95% giá trị để đóng NDC (đóng góp do quốc gia tự quyết định) theo cam kết lộ trình Net Zero vào năm 2050.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang tiến hành đàm phán về việc chuyển nhượng 5,15 triệu tín chỉ carbon rừng của 11 tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên theo phương thức mua và tặng lại để Việt Nam đóng góp NDC với giá 10 USD/tấn; trường hợp Việt Nam muốn bán đứt thì 20 USD/năm. Tuy nhiên, Bộ NN-PTNT muốn nâng giá cao hơn hoặc bán có thời hạn (3-5 năm).
Vướng mắc thứ ba, chúng ta bán 10,3 triệu tín chỉ carbon nhưng vẫn còn 4,9 triệu tấn bị “kẹt”. Nhiều doanh nghiệp liên hệ CODE đứng ra giúp họ mua, mặc dù số tín chỉ này chỉ còn hạn trong vòng 17 tháng. Tuy nhiên, khi làm việc với Bộ NN-PTNT thì chưa bán được vì còn phải thực hiện nhiều quy trình liên quan.
Theo đó, muốn bán phải đấu giá, có cơ quan giám sát, có người xây dựng hồ sơ kỹ thuật, tham vấn ý kiến các bộ ngành... “Không biết có bán được 4,9 triệu tín chỉ carbon này trước khi hết hạn không. Tiền từ bên ngoài rất nhiều nhưng chúng ta thiếu cơ chế để tiếp cận”, TS Lê Xuân Nghĩa nói.
Tâm An
VietNamNet
Bán tín chỉ carbon rừng đang được nhiều địa phương ở nước quan tâm và muốn triển khai sớm. Tuy nhiên, đây là lĩnh vực mới, Cục Lâm nghiệp đã thông tin một loạt vấn đề liên quan để các tỉnh nắm rõ.
Theo Cục Lâm nghiệp (Bộ NN-PTNT), thời gian qua, một số địa phương đã nhận được đề nghị của các tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế đến tìm hiểu và đề xuất triển khai dịch vụ hấp thụ và lưu giữ cacbon rừng (dịch vụ carbon rừng), bao gồm việc đo đạc, báo cáo, thẩm định, phát hành và thương mại tín chỉ cacbon rừng.
Tuy nhiên, đây là một lĩnh vực mới, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật còn chưa đầy đủ, chi tiết và cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện trong thời gian tới. Do đó, Cục Lâm nghiệp cung cấp thông tin để Sở NN-PTNT các tỉnh tham khảo và cùng quan tâm hợp tác, triển khai.
Tiếp tục bán tín chỉ carbon rừng
Về triển khai về tình hình triển khai dịch vụ carbon rừng, theo Cục Lâm nghiệp, để triển khai đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC), Chính phủ đã giao các bộ quản lý ngành, lĩnh vực mục tiêu giảm nhẹ phát thải khí nhà kính đến năm 2030. Trong đó, ngành nông nghiệp được giao giảm phát thải 129,8 triệu tấn CO2tđ.
Trên cơ sở đó, Bộ NN-PTNT đã giao lĩnh vực lâm nghiệp và sử dụng đất giảm tối thiểu 39,31 triệu tấn CO2tđ đến năm 2025 và 79,1 triệu tấn CO2tđ đến năm 2030.
Theo báo cáo kết quả thực hiện REDD+ Việt Nam, giai đoạn 2014-2018, lượng giảm phát thải từ rừng đạt 56,7 triệu tấn (trong đó lượng giảm phát thải là 20,3 triệu tấn và lượng tăng hấp thụ là -36,4 triệu tấn).
Kết quả giảm phát thải và tăng hấp thụ có được là nhờ nỗ lực khôi phục, bảo vệ, phát triển rừng của cả nước trong giai đoạn vừa qua. Vì vậy, lĩnh vực lâm nghiệp có tiềm năng và đang từng bước chủ động hoàn thiện các điều kiện, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn chi tiết để tham gia thị trường carbon trong nước và quốc tế sau khi thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cam kết NDC.
Việt Nam đã thu 51,5 triệu USD từ bán tín chỉ carbon rừng. Ảnh minh hoạ: Thung Nham
Cục Lâm nghiệp cũng cho biết, Việt Nam đang triển khai duy nhất một Chương trình chuyển nhượng tín chỉ carbon rừng, đó là Thoả thuận chi trả giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ (ERPA) được ký ngày 22/10/2020 giữa Bộ NN-PTNT và Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế thuộc nhóm Ngân hàng Thế giới.
Theo ERPA, Việt Nam chuyển nhượng cho Ngân hàng Thế giới 10,3 triệu tấn CO2 với đơn giá 5 USD/tấn CO2. Tổng giá trị chi trả là 51,5 triệu USD, trong đó 95% lượng chuyển nhượng sẽ được tính vào NDC của Việt Nam.
Để thực hiện ERPA này, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 107 quy định về thí điểm chuyển nhượng kết quả giảm phát thải và quản lý tài chính ERPA.
Ngoài ra, Bộ NN-PTNT và Tổ chức Tăng cường tài chính lâm nghiệp (Emergent), cơ quan hành chính của Liên minh giảm phát thải thông qua tăng cường tài chính lâm nghiệp (LEAF) đang chuẩn bị đàm phán, ký kết và triển khai Thỏa thuận mua bán giảm phát thải vùng Tây Nguyên và Nam Trung Bộ theo Ý định thư (LoI) đã ký ngày 31/10/2021.
Dự kiến, nước ta sẽ chuyển nhượng cho LEAF/Emergent 5,15 triệu tấn CO2 của vùng Tây Nguyên và Nam Trung Bộ giai đoạn 2021-2025. Toàn bộ lượng tín chỉ chuyển nhượng này sẽ được tính vào cam kết NDC của Việt Nam.
Sẽ phân bổ hạn ngạch cho các vùng
Thời gian qua, một số tỉnh như Quảng Nam, Sơn La, Lào Cai, Thanh Hóa đã đề xuất xây dựng và triển khai Đề án thí điểm đầu tư, kinh doanh tín chỉ carbon rừng. Tuy nhiên, đến nay các tỉnh này chưa thực hiện do thiếu quy định pháp luật và các hướng dẫn chi tiết.
Cục Lâm nghiệp cũng nêu một loạt khó khăn, vướng mắc trong triển khai dịch vụ carbon rừng. Đơn cử, chính sách và quy định pháp lý đã hình thành nhưng thiếu quy định, hướng dẫn chi tiết để có thể triển khai dịch vụ carbon rừng, bao gồm: quyền sở hữu carbon rừng, quy định về trao đổi, chuyển nhượng, cơ chế quản lý, sử dụng nguồn thu từ dịch vụ carbon rừng.
Vấn đề hạn ngạch giảm phát thải đóng góp cho việc thực hiện mục tiêu NDC và tiềm năng tín chỉ carbon rừng có thể thương mại của từng địa phương chưa được xác định, phân bổ. Thông tin, nhận thức của nhiều bên liên quan đến dịch vụ carbon rừng còn nhiều hạn chế. Ngoài ra, tiêu chuẩn carbon rừng và hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định, cấp tín chỉ để áp dụng cho thị trường carbon trong nước chưa được xây dựng.
Bộ NN-PTNT sẽ triển khai đánh giá tiềm năng giảm phát thải và hấp thụ carbon từ rừng cấp quốc gia, vùng, địa phương đến năm 2030 và có tính đến năm 2050.
Theo đó, sẽ phân bổ hạn ngạch giảm phát thải từ rừng cho các vùng sinh thái, các địa phương hàng năm giai đoạn 2021-2030 để thực hiện mục tiêu NDC. Xây dựng tiêu chuẩn quốc gia về tín chỉ carbon rừng và quy định chi tiết về hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định lượng giảm phát thải/tăng hấp thụ carbon rừng.
Cùng với đó, xây dựng cơ sở dữ liệu, hệ thống đăng ký, quản lý tín chỉ carbon rừng. Tham mưu tổ chức đàm phán, ký kết, triển khai thỏa thuận mua bán giảm phát thải vùng Tây Nguyên và Nam Trung Bộ (ERPA) với Tổ chức tăng cường tài chính trong lâm nghiệp (Emergent) và các đối tác khác...
Hiện nay, các bộ, ngành đang xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp lý và các điều kiện thể chế, kỹ thuật và năng lực để triển khai thị trường carbon trong nước và tham gia thị trường carbon thế giới.
Do vậy, Cục Lâm nghiệp khuyến nghị các Sở NN-PTNT, việc thương mại, trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon rừng với các tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế phải tuân thủ quy định pháp luật và chỉ được thực hiện đối với lượng giảm phảt thải dôi dư sau khi đã hoàn thành trách nhiệm đóng góp NDC theo hạn ngạch được phân bổ.
Các địa phương chủ động huy động và lồng ghép các nguồn lực hợp pháp để triển khai các biện pháp giảm phát thải/tăng hấp thụ trên diện tích rừng quản lý để triển khai Kế hoạch giảm phát thải khí nhà kính lĩnh vực lâm nghiệp. Từ đó, làm cơ sở đề xuất, triển khai các dự án chuyển nhượng tín chỉ carbon rừng.
Tâm An
VietNamNet
Tại cuộc họp với các bộ, ngành nghe báo cáo về Đề án thành lập thị trường carbon (Đề án), ngày 12/7, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nêu rõ: Từng nhóm nhiệm vụ, giải pháp phải xác định rõ sản phẩm (nghị định, thông tư, quyết định, kế hoạch, dự án), rõ thời hạn hoàn thành, phân kỳ thực hiện.
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà cho rằng vận hành thị trường carbon phải theo lộ trình, dưới sự quản lý của Nhà nước phù hợp với năng lực, mức độ phát triển của doanh nghiệp, nền kinh tế - Ảnh: VGP/Minh Khôi
Phó Thủ tướng cho rằng đây là vấn đề khó, phức tạp, đòi hỏi sự cam kết mạnh mẽ, thống nhất thực hiện ở phạm vi toàn cầu. Hiện nay, nhiều nước đã thiết lập thị trường carbon, từng bước hình thành hàng rào kỹ thuật, chính sách thuế liên quan đến carbon đối với hàng hoá nhập khẩu. Với tiềm năng lớn về tín chỉ carbon, Việt Nam không thể đứng ngoài.
Phó Thủ tướng đề nghị các đại biểu tập trung phân tích, làm rõ điều kiện cần thiết để hình thành thị trường tín chỉ carbon, nhiệm vụ của từng bộ, ngành, những khó khăn, vướng mắc, từ đó "đưa ra lộ trình triển khai đồng bộ sau khi Đề án được ban hành".
Xu thế tất yếu của thị trường carbon
Thứ trưởng Bộ Tài chính Lê Tấn Cận cho biết, mục tiêu chung của Đề án là phát triển thị trường carbon tuân thủ tại Việt Nam, góp phần thực hiện mục tiêu giảm nhẹ phát thải khí nhà kính theo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) với chi phí của doanh nghiệp và xã hội thấp, thúc đẩy phát triển công nghệ phát thải thấp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, phát triển nền kinh tế carbon thấp và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, hướng tới đạt mức phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050.
Hàng hóa thị trường carbon gồm: Hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon.
Chủ thể tham gia giao dịch hạn ngạch là các cơ sở phát thải khí nhà kính được phân bổ hạn ngạch.
Chủ thể tham gia giao dịch tín chỉ carbon gồm là tổ chức thực hiện chương trình, dự án tạo tín chỉ carbon trong nước hoặc thực hiện chương trình, dự án theo cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon quốc tế; tổ chức và cá nhân đủ điều kiện tham gia hoạt động đầu tư, kinh doanh tín chỉ carbon; tổ chức hỗ trợ giao dịch.
Các giao dịch trên thị trường carbon được thực hiện trên sàn giao dịch theo phương thức tập trung trên nền tảng trực tuyến.
Dự kiến, lộ trình triển khai thị trường carbon gồm 2 giai đoạn: Giai đoạn thí điểm (năm 2025-2027); Giai đoạn vận hành chính thức từ năm 2028 và giai đoạn sau năm 2030.
Đề án đưa ra các nhóm giải pháp: Kiểm kê khí nhà kính và phân bố hạn ngạch phát thải khí nhà kính; Quản lý tín chỉ carbon; Hệ thống giao dịch hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon; Quản lý, kiểm tra, giám sát; Nâng cao nhận thức, tăng cường năng lực.
Các nhiệm vụ cụ thể phải thực hiện gồm: Hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật; xây dựng hệ thống giao dịch và tổ chức, vận hành thị trường carbon; tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức về thị trường carbon cho các đối tượng.
Sớm kiểm kê, phân bổ hạn ngạch phát thải trong các ngành kinh tế
Tại cuộc họp, các đại biểu đã trao đổi, thảo luận về những vấn đề đặt ra khi hình thành thị trường carbon như tạo cung-cầu; đánh giá tác động đối với doanh nghiệp, ngành kinh tế; hàng lang pháp lý; mô hình và kinh nghiệm của các nước…
Theo Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Đỗ Thành Trung, xây dựng thị trường carbon là "cuộc chơi mới" mà tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đầu tư vào hoạt động giảm phát thải, tăng hấp thụ khí carbon sẽ được chi trả từ tiền bán hạn ngạch phát thải, tín chỉ carbon. Đây là chi phí lợi nhuận cho từng doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Do đó, Nhà nước phải tạo sân chơi, luật chơi, phân công nhiệm vụ cho từng bộ, ngành, và có phân kỳ thí điểm.
Thứ trưởng Bộ TN&MT Lê Công Thành cho biết, đến nay có 48 quốc gia triển khai thị trường carbon theo cơ chế bắt buộc. Bên cạnh đó là thị trường carbon tự nguyện do các doanh nghiệp, tổ chức quốc tế thành lập. Mặc dù chưa có sự thống nhất trên phạm vi toàn cầu về trao đổi hạn ngạch phát thải, tín chỉ carbon xuyên biên giới, nhưng 82 quốc gia/vùng lãnh thổ đã ký thoả thuận về trao đổi hạn ngạch, tín chỉ carbon.
Tại Việt Nam, thời gian qua có khoảng 150 chương trình, dự án được cấp 40,2 triệu tín chỉ carbon và thực hiện theo các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon quốc tế để trao đổi trên thị trường carbon thế giới.
Dự kiến, trong tháng 7/2024, Bộ TN&MT sẽ hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 06/2022/NĐ-CP quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozon. Dự kiến giai đoạn thí điểm, các cơ sở được phân bổ hạn ngạch thuộc lĩnh vực phát thải lớn như nhiệt điện, sắt, thép, xi măng (tổng số khoảng 100 cơ sở) nằm trong danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải kiểm kê khí nhà kính.
Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 06/2022/NĐ-CP sẽ có thêm quy định về kiểm kê, thẩm định, phân bổ hạn ngạch phát thải, tổ chức thị trường carbon, hoạt động trao đổi tín chỉ carbon trên thị trường quốc tế.
Lãnh đạo Bộ TN&MT cũng đề nghị Bộ GTVT, Bộ Xây dựng, Bộ NN&PTNT hoàn thành việc ban hành quy định kỹ thuật kiểm kê phát thải khí nhà kính và đo đạc, báo cáo, thẩm định cho các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý. Các bộ, ngành khẩn trương ban hành Kế hoạch giảm nhẹ phát thải khí nhà kính thuộc phạm vi quản lý.
Tạo dòng tài chính mới, động lực chuyển đổi xanh
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà giao Bộ Tài chính sớm nghiên cứu hệ thống thuế carbon tương thích với các nước, theo nguyên tắc đối đẳng - Ảnh: VGP/Minh Khôi
Kết luận cuộc họp, Phó Thủ tướng nhấn mạnh việc phát triển thị trường carbon có đầy đủ cơ sở chính trị, pháp lý, thực tiễn nhằm thực hiện cam kết của Việt Nam đối với quốc tế về giảm phát thải ròng khí nhà kính, cũng như thích ứng với những chuyển động rất nhanh của các thị trường xuất khẩu lớn, quan trọng đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam.
Ban soạn thảo Đề án cần bổ sung, hoàn thiện, phân tích kỹ lưỡng, toàn diện tình hình khu vực, thế giới và trong nước, làm rõ sự cần thiết của thị trường carbon, bảo đảm chủ động trong thực hiện cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính, theo kịp với các tiêu chuẩn kỹ thuật mới liên quan đến khí thải áp dụng cho hàng hoá.
Việc vận hành thị trường carbon phải theo lộ trình, dưới sự quản lý của Nhà nước phù hợp với năng lực, mức độ phát triển của doanh nghiệp, nền kinh tế, bảo đảm lợi ích quốc gia. "Liên doanh, liên kết để học hỏi, hợp tác là cần thiết nhưng phải chủ động", Phó Thủ tướng nói.
Mục tiêu của Đề án là thực hiện cam kết với quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính, tạo ra dòng tài chính mới cho hoạt động cắt giảm phát thải khí nhà kính, tạo động lực chuyển đổi xanh cho các ngành, lĩnh vực kinh tế tham gia vào thị trường thế giới.
Trao đổi về những nhiệm vụ cần thực hiện, Phó Thủ tướng cho rằng, trước hết Đề án phải xác định mô hình, tổ chức, hoạt động, quản lý của thị trường carbon do Bộ Tài chính chủ trì, "bài bản, đồng bộ, chặt chẽ ngay từ đầu".
Bộ TN&MT, trên cơ sở NDC, thực hiện phân bổ hạn ngạch phát thải cho từng lĩnh vực, ngành nghề, doanh nghiệp; hướng dẫn bộ, ngành, doanh nghiệp, tổ chức tư vấn về công thức tính toán, đo đạc, thống kê báo cáo, thẩm định… hạn ngạch phát thải, tín chỉ carbon. Từ đó, các bộ, ngành cụ thể hoá thành quy định kỹ thuật để giám sát hạn ngạch phát thải cũng như kế hoạch giảm phát thải trong lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý.
"Từng nhóm nhiệm vụ, giải pháp phải xác định rõ sản phẩm (nghị định, thông tư, quyết định, kế hoạch, dự án), rõ thời hạn hoàn thành, phân kỳ thực hiện", Phó Thủ tướng nói.
Phó Thủ tướng giao Bộ Tài chính sớm nghiên cứu hệ thống thuế carbon tương thích với các nước, theo nguyên tắc đối đẳng.
Nhật Quang
FILI
ไวท์เลเบล
Data API
ปลั๊กอินเว็บไซต์
เครื่องมือออกแบบโปสเตอร์
โครงการพันธมิตร
ความเสี่ยงของการสูญเสียในการซื้อขายสินทรัพย์ทางการเงิน เช่น หุ้น FX สินค้าโภคภัณฑ์ ฟิวเจอร์ส พันธบัตร ETFs หรือเงินดิจิทัลอาจมีมาก คุณอาจสูญเสียเงินทุนทั้งหมดที่คุณฝากไว้กับโบรกเกอร์ของคุณ ดังนั้น คุณควรพิจารณาอย่างรอบคอบว่าการซื้อขายดังกล่าวเหมาะสมกับคุณหรือไม่ในสถานการณ์และทรัพยากรทางการเงินของคุณ
ไม่ควรตัดสินใจลงทุนโดยไม่ได้ดำเนินการตรวจสอบสถานะอย่างละเอียดถี่ถ้วนด้วยตัวเองหรือปรึกษากับที่ปรึกษาทางการเงินของคุณ เนื้อหาเว็บของเราอาจไม่เหมาะกับคุณเนื่องจากเราไม่ทราบเงื่อนไขทางการเงินและความต้องการในการลงทุนของคุณ ข้อมูลทางการเงินของเราอาจมีความล่าช้าหรือมีความไม่ถูกต้อง ดังนั้นคุณควรรับผิดชอบอย่างเต็มที่ต่อการตัดสินใจซื้อขายและการลงทุนของคุณ บริษัทจะไม่รับผิดชอบต่อการสูญเสียเงินทุนของคุณ
หากไม่ได้รับอนุญาตจากเว็บไซต์ คุณจะไม่สามารถคัดลอกกราฟิก ข้อความ หรือเครื่องหมายการค้าของเว็บไซต์ได้ สิทธิ์ในทรัพย์สินทางปัญญาในเนื้อหาหรือข้อมูลที่รวมอยู่ในเว็บไซต์นี้เป็นของผู้ให้บริการและผู้ค้าแลกเปลี่ยน