Thị trường
Tin tức
Phân tích
Người dùng
24x7
Lịch kinh tế
Học tập
Dữ liệu
- Tên
- Mới nhất
- Trước đây
--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
T:--
D: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T:--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
T:--
D: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
Không có dữ liệu phù hợp
Quan điểm mới nhất
Quan điểm mới nhất
Chủ đề Hot nhất
Để nhanh chóng tìm hiểu động lực thị trường và theo dõi trọng tâm thị trường trong 15 phút.
Trong thế giới loài người sẽ không có một lời phát biểu nào mà không có lập trường, cũng không có một lời nhận xét nào mà không có mục đích.
Lạm phát, tỷ giá hối đoái và nền kinh tế định hình các quyết định chính sách của ngân hàng trung ương; thái độ và lời nói của các quan chức ngân hàng trung ương cũng ảnh hưởng đến hành động của các nhà giao dịch trên thị trường.
Tiền làm cho thế giới quay tròn và tiền tệ là một loại hàng hóa vĩnh viễn. Thị trường ngoại hối đầy bất ngờ và kỳ vọng.
Tác giả Hot nhất
Tận hưởng những hoạt động thú vị, ngay tại FastBull.
Tin tức và sự kiện tài chính toàn cầu mới nhất.
Tôi có 5 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực phân tích tài chính, đặc biệt là ở khía cạnh diễn biến vĩ mô, nhận định xu hướng trung và dài hạn. Tôi chủ yếu tập trung vào sự phát triển ở Trung Đông, các thị trường mới nổi, Than đá, Lúa mì và các sản phẩm nông nghiệp khác.
7 năm kinh nghiệm phân tích và giao dịch trên thị trường chứng khoán, ngoại hối, kim loại quý, dựa trên phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật với logic giao dịch Top-Down, và tập trung vào kinh tế vĩ mô và kiểm soát rủi ro, sử dụng lý thuyết cung và cầu đa điều kiện để dự đoán biến động giá, tác động của hoạt động giao dịch, phân phối chip và tâm lý thị trường, và ổn định.
Cập nhật mới nhất
Cảnh báo về rủi ro khi đầu tư chứng khoán Hồng Kông
Mặc dù hệ thống pháp luật và khung giám sát tại Hồng Kông tương đối hoàn thiện, nhưng thị trường chứng khoán vẫn đối mặt với một số rủi ro và thách thức đặc biệt, như mối quan hệ giữa HKD và USD, nhà đầu tư nước ngoài còn phải đối mặt với biến động tỷ giá. Những biến động trong chính sách và tình hình kinh tế của Trung Quốc đại lục có thể gây ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán Hồng Kông.
Cấu trúc chi phí và thuế khi đầu tư chứng khoán HK
Chi phí giao dịch trên thị trường chứng khoán Hồng Kông bao gồm phí giao dịch mua bán cổ phiếu, thuế trước bạ, phí thanh toán v.v. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, có thể phải trả thêm phí chuyển đổi tiền tệ thành HKD và các loại thuế khác theo quy định của địa phương.
Ngành hàng tiêu dùng không thiết yếu Hồng Kông
Ngành hàng tiêu dùng không thiết yếu trên thị trường chứng khoán Hồng Kông bao gồm ô tô, giáo dục, du lịch, dịch vụ ăn uống, trang phục và nhiều lĩnh vực khác. Trong số 643 công ty niêm yết, có 35% là công ty Trung Quốc đại lục và chiếm 65% tổng giá trị thị trường, do đó ngành này chịu ảnh hưởng sâu rộng từ nền kinh tế Trung Quốc.
Ngành bất động sản Hồng Kông
Trong chỉ số chứng khoán Hồng Kông, tỷ trọng của ngành xây dưng và bất động sản đã giảm đáng kể trong những năm gần đây, nhưng tính đến năm 2022, nó vẫn chiếm khoảng 10% trên thị trường. Ngành này bao gồm phát triển dự án bất động sản, kỹ thuật xây dựng, đầu tư bất động sản và quản lý tài sản.
Hồng Kông, Trung Quốc
TP Hồ Chí Minh, Việt Nam
Dubai, UAE
Lagos, Nigeria
Cairo, Ai Cập
Nhãn trắng
Data API
Tiện ích Website
Chương trình Tiếp thị Liên kết
Xem tất cả kết quả tìm kiếm
Không có dữ liệu
Chưa đăng nhập
Đăng nhập để xem nội dung nhiều hơn
FastBull VIP
Chưa nâng cấp
Nâng cấp
Đăng nhập
Đăng ký
Hồng Kông, Trung Quốc
TP Hồ Chí Minh, Việt Nam
Dubai, UAE
Lagos, Nigeria
Cairo, Ai Cập
Nhãn trắng
Data API
Tiện ích Website
Chương trình Tiếp thị Liên kết
“Sếp lớn” ngân hàng đua nhau mua hàng trăm tỉ đồng cổ phiếu
Lãnh đạo cấp cao HDBank và VIB cùng mua hàng triệu cổ phiếu hai ngân hàng này trong bối cảnh thị trường ảm đạm
Ngân hàng TMCP Phát triển TP HCM (HDBank- mã chứng khoán HDB) vừa thông báo ông Phạm Quốc Thanh, Tổng giám đốc HDBank, có kế hoạch mua cổ phiếu HDB để đầu tư.
Cụ thể, ông Thanh đăng ký mua 1 triệu cổ phiếu HDB. Giao dịch dự kiến thực hiện từ ngày 18-11 đến 16-12.
Nếu tính thị giá cổ phiếu HDB ngày 13-11 là 25.650 đồng, ông Thanh phải bỏ ra 25,65 tỉ đồng để hoàn thành việc mua cổ phiếu.
Hiện tại, ông Thanh đang nắm giữ hơn 5,8 triệu cổ phiếu HDB. Nếu mua mới lần này thành công, tổng số cổ phiếu ông Thanh sở hữu sẽ nâng lên trên 6,8 triệu đơn vị.
Trong khi đó, Ngân hàng TMCP Quốc tế (VIB) công bố ông Hồ Vân Long, Phó tổng giám đốc VIB đã mua vào 3 triệu cổ phiếu VIB vào ngày 8-11 theo phương thức thỏa thuận và khớp lệnh. Kết quả, ông Long đã nâng sở hữu lên 14,5 triệu cổ phiếu.
Trong phiên 8-11, cổ phiếu VIB được giao dịch trong khoảng 18.250 - 18.600 đồng/cổ phiếu. Ước tính theo giá trung bình 18.425 đồng/cổ phiếu, ông Long đã chi ra số tiền hơn 55 tỉ đồng để mua 3 triệu cổ phiếu VIB.
Ngoài ra, một lãnh đạo cấp cao khác của VIB là bà Nguyễn Minh Huệ - Giám đốc Phòng Dịch vụ Pháp lý về Vận hành và Quản trị Doanh nghiệp cũng đăng ký mua 100.000 cổ phiếu VIB. Giao dịch dự kiến được thực hiện từ ngày 14-11 đến 29-11, theo phương thức khớp lệnh và thỏa thuận.
Trước đó, cổ đông chiến lược Commonwealth Bank of Australia (CBA) xác nhận đã thoái vốn tại VIB sau hai lần bán ra cổ phiếu lượt là khoảng 5% và 10% vốn điều lệ trong hai phiên 24-9 và 29-10, giảm tỷ lệ sở hữu về khoảng 5% vốn tại VIB.
Dự kiến, Kafi sẽ lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản từ ngày 18/11 - 28/11/2024 về việc thay thế phương án tăng đã được ĐHĐCĐ thông qua trước đó.
CTCP Chứng khoán KAFI sẽ thực hiện lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản về việc tăng vốn điều lệ lên tối đa 5,000 tỷ đồng. Kế hoạch này thay thế cho phương án đã được ĐHĐCĐ phê duyệt từ tháng 7/2024.
Để lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản, Công ty chốt danh sách cổ đông vào ngày 18/11/2024 và gửi phiếu lấy ý kiến cùng tài liệu dự thảo vào cùng ngày. Thời hạn cuối cùng để cổ đông gửi lại ý kiến là 28/11/2024.
Trước đó, Kafi đã thông qua phương án tăng vốn bằng cách chào bán cho cổ đông hiện hữu theo phương thức thực hiện quyền mua. Số cổ phiếu chào bán là 250 cổ phần, tương đương tỷ lệ 1:1. Giá chào bán 10,000 đồng/cp.
Việc tăng vốn nhắm mở rộng quy mô, mạng lưới hoạt động kinh doanh của Công ty. Bổ sung vốn cho các nghiệp vụ kinh doanh được cấp phép như môi giới, tư vấn đầu tư, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành. Đồng thời, đầu tư vào hệ thống công nghệ thông tin, hệ thống an toàn bảo mật, phát triển sản phẩm và dịch vụ trên nền tảng số nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ.
Ngày 17/10/2024, HĐQT của Kafi đã có nghị quyết triển khai phương án tăng vốn. Trong đó nêu rõ tỷ lệ dự kiến phân bổ cho các mảng hoạt động gồm 45% cho tự doanh, 45% cho vay ký quỹ và 5% cho môi giới chứng khoán.
Với động thái lấy ý kiến cổ đông sắp tới, có thể Kafi sẽ có những thay đổi trong phương án tăng vốn.
Lịch sử tăng vốn của Chứng khoán Kafi
Chứng khoán Kafi tiền thân là Chứng khoán Hoàng Gia với vốn điều lệ 20 tỷ đồng. Năm 2019, Công ty đổi tên thành Chứng khoán Globalmind Capital. Tới năm 2022, Công ty trở thành Chứng khoán Kafi như hiện tại, vốn điều lệ tăng lên 1,000 tỷ đồng.
Tới thời điểm quý 3/2024, vốn điều lệ của Công ty đạt 2,500 tỷ đồng. Cơ cấu cổ đông ở thời điểm này có 2 cổ đông lớn là CTCP Ubiben và Gentle Sun Investments, lần lượt nắm giữ 10.065% và 20% vốn.
Nguồn: BCTC Kafi
Uniben là doanh nghiệp sở hữu Mì 3 miền, trà mật ong Boncha và có nhiều mối liên hệ với VIB. Sau nhiều lần mua vào bán ra cổ phiếu VIB, theo danh sách cổ đông sở hữu từ 1% vốn điều lệ trở lên của VIB công bố ngày 27/09 vừa qua, Uniben nắm giữ 116.2 triệu cổ phiếu VIB tương ứng 3.901% vốn tại Ngân hàng, tăng so với mức 2.617% tại thời điểm công bố hồi đầu tháng 8/2024.
Yến Chi
FILI
3 cổ phiếu ngân hàng tiềm năng sinh lời lớn
Trong báo cáo mới đây, KBSV đã chỉ ra 3 cổ phiếu ngân hàng tiềm năng sinh lời lớn
VCB: Giá mục tiêu 105.200 đồng/cp, lợi nhuận kỳ vọng 12%
KBSV kỳ vọng biên lãi ròng (NIM) của Vietcombank (VCB) sẽ hồi phục trong phần còn lại của năm 2024, với động lực từ cả huy động và cho vay. Cụ thể, chi phí đầu vào (COF) sẽ cải thiện nhờ Casa tăng và VCB duy trì lãi suất huy động dưới 5,5%/năm – mức lãi suất tương đối thấp so với quá khứ. Xu hướng giảm lãi suất đầu ra bình quân dự kiến sẽ chậm lại do nhu cầu tín dụng tăng ở nửa cuối năm.
Chất lượng tài sản được kiểm soát tốt với tỷ lệ nợ xấu (NPL) nửa đầu năm ở mức 1,2%, thấp nhất hệ thống. Theo KBSV, với chất lượng tài sản hiện tại và bộ đệm dự phòng lớn, VCB có đủ dư địa linh hoạt trong trích lập dự phòng vào cuối năm để hoàn thành các mục tiêu đề ra.
TCB: Giá mục tiêu 29.600 đồng/cp, lợi nhuận kỳ vọng 24%
CTCK dự báo room tín dụng năm 2024 của Techcombank (TCB) sẽ được nới lên 18,5%, triển vọng tăng trưởng tín dụng tích cực nhờ hưởng lợi từ sự kiện Vin Cổ Loa mở bán.
NIM của Techcombank sẽ cải thiện so với các ngân hàng khác trong năm 2024 nhờ kiểm soát tốt chi phí vốn và không áp dụng chiến lược giảm lãi suất cho vay để cạnh tranh. KBSV dự báo NIM cả năm của TCB đạt 4,34%.
Tỷ lệ NPL dự kiến được kiểm soát ở mức < 1,4%, dù cần lưu ý rủi ro với các khoản tín dụng liên quan đến Vin & Masterise trong trung và dài hạn.
VIB: Giá mục tiêu 24.600 đồng/cp, lợi nhuận kỳ vọng 31%
Chuyển hướng sang phân khúc bán lẻ giúp VIB mang lại tỷ suất sinh lời cao đầu ngành, KBSV kỳ vọng tăng trưởng tín dụng năm 2024 của ngân hàng sẽ đạt 15% và nợ xấu sẽ được kiểm soát nhờ chính sách thắt chặt quản lý chất lượng tài sản.
Mặc dù NIM của VIB tạm thời chưa thể hồi phục nhưng dự kiến sẽ quay lại mức cao trong dài hạn. Cụ thể, KBSV dự phóng NIM năm 2024 và 2025 lần lượt đạt 4,09% và 4,22%. NIM có thể cải thiện trở lại mức 4,3-4,5% trong dài hạn khi nhu cầu vay bán lẻ phục hồi hoàn toàn.
Xu hướng NIM của hệ thống ngân hàng quý 3-2024
Các ngân hàng chuyên cho vay cá nhân như ACB và VIB tiếp tục ghi nhận sự sụt giảm NIM trong bối cảnh mảng cho vay cá nhân và tiêu dùng vẫn đang gặp nhiều khó khăn và hai ngân hàng này đều phải tích cực đẩy mạnh mảng cho vay doanh nghiệp để bù đắp.
Kết quả báo cáo tài chính quí 3-2024 của các ngân hàng niêm yết cho thấy nhu cầu tín dụng cá nhân của một số ngân hàng đã bắt đầu phục hồi. NIM (chênh lệch giữa thu nhập lãi và tiền lãi phải trả) của hệ thống ngân hàng đã bắt đầu có dấu hiệu tạo đáy, dù vẫn còn phân hóa giữa các nhóm ngân hàng khác nhau, và được kỳ vọng sẽ có thể quay trở lại xu hướng tăng trong những quí tiếp theo...
Tổng thu nhập hoạt động ngành ngân hàng quí 3-2024 tăng 13,02% so với cùng kỳ năm trước nhưng lại suy giảm so với quí 2-2024, trong đó thu nhập lãi thuần tăng 17,92% và đáng chú ý là lợi nhuận từ hoạt động khác tăng mạnh gần 132% nên đã bù đắp cho việc suy giảm từ các hoạt động còn lại của ngân hàng. Tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng niêm yết đã cải thiện tích cực từ mức 2,11% trong quí 1-2024 lên 11,53% trong quí 3-2024, tuy nhiên NIM của ngành ngân hàng vẫn duy trì đà suy giảm trong các quí gần đây trong bối cảnh lãi suất cho vay được giữ ở mức thấp và kích cầu các gói tín dụng để hỗ trợ nền kinh tế.
Cho vay bán lẻ vẫn đang gặp nhiều khó khăn trước bối cảnh tiêu dùng yếu và động lực tăng trưởng chủ yếu đến từ mảng cho vay doanh nghiệp. Nhưng khó khăn về thị trường tiêu thụ khiến các doanh nghiệp vẫn rất thận trọng trong việc đầu tư, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Phần lớn hoạt động đầu tư và sản xuất gia tăng chủ yếu đến từ các ngành công nghiệp sản xuất các sản phẩm không thiên về tiêu dùng. Sự chuyển dịch trong cơ cấu tín dụng khiến NIM chịu áp lực giảm mạnh và những sự cải thiện về NIM chỉ có thể đến khi tín dụng khu vực tiêu dùng bắt đầu được cải thiện.
Xu hướng NIM của các nhóm ngân hàng
NIM của hệ thống ngân hàng trong quí 3 chịu các tác động đan xen của các yếu tố tích cực và tiêu cực. Dù chi phí vốn giảm mạnh hơn so với lãi suất đầu ra, nhưng mức chênh lệch lại thấp hơn so với quí trước khiến ngân hàng không duy trì được NIM. Tăng trưởng tín dụng cao nhưng các ngân hàng liên tục giảm lãi suất và phát hành các gói cho vay ưu đãi để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân khắc phục sau cơn bão.
Trước bối cảnh NIM suy giảm, các ngân hàng với chiến lược kinh doanh khác nhau cũng ghi nhận những diễn biến khác nhau về NIM. Nhóm các ngân hàng quốc doanh có thu nhập lãi thuần giảm mạnh so với hai quí đầu năm, dù tăng trưởng tín dụng có nhiều diễn biến tích cực. Chiến lược cho vay thận trọng và mức lãi suất đầu ra cạnh tranh để lựa chọn được đối tượng khách hàng tốt là yếu tố chính khiến mức NIM của nhóm chỉ cao hơn so với trung bình ngành.
Nhóm các ngân hàng cổ phần tư nhân tập trung cho vay doanh nghiệp với lợi thế cung ứng nguồn vốn cho hệ sinh thái của các doanh nghiệp. Mặc dù dẫn đầu về tăng trưởng tín dụng trong quí 3 tuy nhiên mức NIM của nhóm ngân hàng này tiếp tục thể hiện xu hướng giảm, từ mức 4,07% của quí trước xuống mức 4,01%.
Trong khi đó, nhóm ngân hàng chuyên cho vay cá nhân có sự cải thiện về NIM. Tín dụng tiêu dùng đang cho thấy những dấu hiệu phục hồi khi phần lớn các ngân hàng đều báo cáo có sự tăng trưởng đáng kể cho phân khúc tín dụng bán lẻ trong quí 3 so với quí trước. Điều này góp phần kiểm soát xu hướng giảm NIM do nhóm này đang đẩy mạnh tín dụng doanh nghiệp từ đầu năm để duy trì tăng trưởng.
Ở nhóm các ngân hàng khác, một điểm cần chú ý là xu hướng cải thiện NIM trong hai quí vừa qua. Nhóm này với quy mô tổng tài sản nhỏ và không có lợi thế trong việc huy động nguồn vốn giá rẻ nên phải duy trì lãi suất đầu ra ở mức cao, tuy tăng trưởng tín dụng có cải thiện nhưng vẫn thấp hơn so với trung bình ngành. Nguyên nhân chủ yếu cho mức cải thiện NIM đến từ biên chi phí lãi (COF) giảm mạnh từ 5,79% xuống 5,15%, trong khi biên thu nhập lãi (YEA) chỉ giảm từ 7,94% xuống 7,48%, và một phần đến từ việc nhóm này cải thiện được tiền gửi không kỳ hạn (CASA) trong thời gian qua.
NIM có sự phân hóa giữa các ngân hàng
NIM có xu hướng đi ngang và suy giảm nhẹ ở các ngân hàng quốc doanh, giữa các ngân hàng cũng không có sự phân hóa quá đáng kể. Trong quí 3 Vietcombank có mức NIM cao nhất nhóm, đạt 2,98% nhưng thấp hơn mức 3,01% trong quí 2, do tăng trưởng tín dụng chủ yếu vào nhóm khách hàng hiện hữu và các doanh nghiệp FDI có nguồn tiền ổn định với rủi ro thấp nên mức sinh lời của các khoản vay này cũng không cao.
Tăng trưởng tín dụng của VietinBank chỉ đạt 8,96%, thấp hơn so với hai ngân hàng còn lại, mức lãi suất đầu vào tiếp tục giảm mạnh hơn so với lãi suất đầu ra giúp NIM của ngân hàng duy trì đi ngang trong quí 3. Trong kỳ ngân hàng cũng ghi nhận nguồn lợi nhuận từ hoạt động khác tăng gấp 2,8 lần so với cùng kỳ, giúp tổng thu nhập hoạt động tăng 26%. Ngược lại, BIDV tiếp tục xu hướng giảm NIM mặc dù có sự tăng trưởng tín dụng mạnh sau giai đoạn tăng chậm trong hai quí vừa qua. Đáng chú ý mức NIM của Vietcombank đang thu hẹp dần so với hai ngân hàng còn lại, và hiện tại đã gần như bằng với mức NIM của VietinBank.
Đối với nhóm ngân hàng chuyên cho vay doanh nghiệp, dù NIM sụt giảm nhẹ nhưng vẫn có nhiều ngân hàng trong nhóm đã bắt đầu có sự cải thiện trong kỳ. HDBank liên tục dẫn đầu nhóm với mức NIM đạt 5,49%, tăng từ mức 5,28% trong quí 2. Tăng trưởng tín dụng của Techcombank cao nhất nhóm, đạt 20,76%, nhưng mức lãi suất cho vay thấp khiến Techcombank không duy trì được NIM trong quí 3. LPB tiếp tục cải thiện NIM từ 3,36% lên 3,44%, trong khi MBBank giảm 0,18 điểm phần trăm còn khoảng 4,23% và MSB giảm 0,23 điểm phần trăm xuống 3,59% trong quí 3.
Các ngân hàng chuyên cho vay cá nhân như ACB và VIB tiếp tục ghi nhận sự sụt giảm NIM trong bối cảnh mảng cho vay cá nhân và tiêu dùng vẫn đang gặp nhiều khó khăn và hai ngân hàng này đều phải tích cực đẩy mạnh mảng cho vay doanh nghiệp để bù đắp. Trong đó, VIB có mức NIM giảm gần 0,18 điểm phần trăm so với quí trước, còn 4,25% trong quí 3.
Ngược lại VPBank là ngân hàng duy nhất trong nhóm cải thiện NIM nhờ chiến lược gia tăng dư nợ cho các doanh nghiệp với mức NIM đạt 5,98%, tăng từ 5,75% trong quí 2. Ngoài ra Tienphong Bank sau giai đoạn bứt phá NIM ở quí 2, đi kèm chi phí vận hành tiết kiệm nhờ số hóa toàn diện, giúp giảm chi phí hoạt động thì trong quí 3 lại suy giảm 0,12 điểm phần trăm, về mức 4,23%, nguyên nhân chủ yếu đến từ sự sụt giảm mạnh trong CASA.
Trái ngược với xu hướng đi ngang và giảm NIM của phần lớn các ngân hàng, nhóm các ngân hàng khác lại tiếp tục ghi nhận sự tăng trưởng tích cực về NIM, hầu hết các ngân hàng trong nhóm khác đều có sự cải thiện NIM tốt hơn quí 2. Đặc biệt các ngân hàng có sự tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ trong quí 3 cũng là những ngân hàng ghi nhận sự tăng trưởng về NIM. Cụ thể, NAB tiếp tục dẫn đầu nhóm với mức NIM đạt 3,78%, tăng 0,16 điểm phần trăm so với quí 2, EIB tăng 0,22 điểm phần trăm lên 2,86%. Bên cạnh đó, việc gia tăng nợ vay từ Ngân hàng Nhà nước với mức lãi suất ưu đãi và việc đẩy mạnh tín dụng trong những quí cuối năm giúp thu nhập lãi thuần tăng 70,15% so với cùng kỳ năm trước
Dragon Capital không còn là cổ đông lớn tại PV Drilling, CII muốn chuyển nhượng 100% vốn CII Service
Ngày 6/11/2024, HĐQT CII đã ban hành Nghị quyết số 101/NQ-HĐQT (nhiệm kỳ 2022-2027) thông qua việc chuyển nhượng toàn bộ vốn góp của Công ty TNHH Một thành viên Dịch vụ hạ tầng CII (CII Service) - công ty con do CII sở hữu 100% vốn, cho Công ty TNHH Một thành viên Thương mại và Đầu tư CII (CII Invest).
Sau giao dịch bán ra của quỹ thành viên DC Developing Markets Strategies Public Limited Company, nhóm Dragon Capital đã giảm sở hữu tại PV Drilling từ 5,1% về 4,996% vốn điều lệ và không còn là cổ đông lớn.
Dragon Capital rời ghế cổ đông lớn tại PV Drilling
Ngày 5/11, quỹ DC Developing Markets Strategies Public Limited Company thuộc nhóm Dragon Capital đã bán ra 600.000 cổ phiếu PVD của Tổng công ty cổ phần Khoan và Dịch vụ khoan Dầu khí (PV Drilling) để giảm sở hữu từ 1,35% về 1,24% vốn điều lệ.
Sau giao dịch, nhóm Dragon Capital đã giảm sở hữu từ 5,1%, về 4,996% vốn điều lệ và chính thức không còn là cổ đông lớn tại PV Drilling.
Nhóm quỹ ngoại bán ra cổ phiếu PVD trong bối cảnh cổ phiếu PVD liên tục giảm từ đầu tháng 4 đến nay với mức giảm gần 27%, từ 34.900 đồng xuống 25.500 đồng/cổ phiếu.
Xét về hoạt động kinh doanh, trong quý III/2024, PV Drilling ghi nhận doanh thu đạt 2.438,22 tỷ đồng, tăng 76,5% so với cùng kỳ, lợi nhuận sau thuế đạt 179,68 tỷ đồng, tăng 35,2% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng, PV Drilling ghi nhận doanh thu đạt 6.480,66 tỷ đồng, tăng 60,7% so với cùng kỳ, lợi nhuận sau thuế đạt 460,74 tỷ đồng, tăng 34% so với cùng kỳ năm trước.
CII muốn chuyển nhượng 100% vốn tại CII Service
Công ty CP Đầu tư Hạ tầng kỹ thuật TP.HCM (mã CII) đã có văn bản gửi Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HoSE), Tổng Công ty Lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam công bố thông tin liên quan đến việc tái cấu trúc danh mục đầu tư.
Theo dó, ngày 6/11/2024, HĐQT CII đã ban hành Nghị quyết số 101/NQ-HĐQT (nhiệm kỳ 2022-2027) thông qua việc chuyển nhượng toàn bộ vốn góp của Công ty TNHH Một thành viên Dịch vụ hạ tầng CII (CII Service) - công ty con do CII sở hữu 100% vốn, cho Công ty TNHH Một thành viên Thương mại và Đầu tư CII (CII Invest).
Đồng thời, HĐQT CII cũng thông qua việc chuyển nhượng 1 phần các khoản đầu tư của CII cho CII Service.
Phó Tổng Giám đốc VIB đăng ký mua 3 triệu cổ phiếu
Ông Hồ Vân Long, Phó Tổng Giám đốc kiêm Giám đốc Tài chính Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (mã VIB - sàn HOSE) đăng ký mua 3 triệu cổ phiếu VIB trong khoảng thời gian từ ngày 7/11 đến hết ngày 6/12 nhằm mục đích gia tăng đầu tư tài sản giá trị.
Giao dịch dự kiến được thực hiện theo phương thức khớp lệnh và thỏa thuận. Nếu giao dịch thành công, ông Long sẽ gia tăng tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu VIB lên 14,53 triệu cổ phiếu (chưa bao gồm 1,96 triệu cổ phiếu thưởng cho cổ đông hiện hữu với tỷ lệ 17% và gần 150.000 cổ phiếu thưởng theo chương trình lựa chọn cho người lao động trong công ty đang chờ về), tương ứng với tỷ lệ sở hữu 0,573% vốn tại VIB.
Kết thúc phiên giao dịch ngày 8/11, giá cổ phiếu VIB đóng cửa ở mức 18.300 đồng/cổ phiếu, tăng 18% kể từ đầu năm. Ước tính với thị giá này, ông Long phải chi ra khoảng gần 55 tỷ đồng để sở hữu số cổ phiếu đã đăng ký trên.
Lãnh đạo Thép Việt Đức đăng ký bán hơn 1,5 triệu cổ phiếu VGS
Bà Nguyễn Thị Nhi, Ủy viên HĐQT Công ty CP Ống thép Việt Đức VG PIPE (Thép Việt Đức, mã VGS) đăng ký bán hơn 1,5 triệu cổ phiếu VGS để giảm sở hữu từ hơn 2,5 triệu cổ phiếu (4,48% vốn điều lệ), về 1 triệu cổ phiếu (1,79% vốn điều lệ). Giao dịch dự kiến thực hiện từ ngày 11/11 đến ngày 6/12.
Lãnh đạo Thép Việt Đức muốn bán ra cổ phiếu VGS khi cổ phiếu này đã có nhịp tăng tới 54,5% kể từ ngày 13/4 đến ngày 8/11, từ 22.010 đồng/cổ phiếu lên 34.000 đồng/cổ phiếu.
Ngoài ra, hoạt động kinh doanh của công ty cũng đang có những tiến triển tốt hơn cùng kỳ năm ngoái. Quý III vừa qua, Thép Việt Đức ghi nhận doanh thu đạt 1.907 tỷ đồng, tăng 11,1% so với cùng kỳ; lợi nhuận sau thuế đạt 9,5 tỷ đồng, tăng 5,9% so với cùng kỳ.
Cổ đông lớn PSB bán ra 1,2 triệu cổ phiếu
Công ty CP Tập đoàn Đầu tư và Phát triển Chợ Lớn báo cáo đã bán 1,2 triệu cổ phiếu PSB của Công ty CP Đầu tư Dầu khí Sao Mai - Bến Đình trong phiên ngày 31/10 với mục đích giảm mức đầu tư.
Sau giao dịch, Tập đoàn Đầu tư và Phát triển Chợ Lớn giảm tỷ lệ sở hữu tại PSB từ 4,32 triệu cổ phiếu (8,64% vốn) xuống còn 3,12 triệu cổ phiếu (6,24% vốn).
Đóng cửa phiên ngày 31/10, giá cổ phiếu PSB dừng tại mức 6.000 đồng/cổ phiếu. Chiếu theo mức giá này, ước tính cổ đông lớn PSB thu được hơn 7 tỷ đồng.
Trước đó, Tập đoàn Đầu tư và Phát triển Chợ Lớn đã bán 300.000 cổ phiếu PSB trong phiên ngày 20/8, giảm tỷ lệ sở hữu xuống còn 8,64%, tương đương 4,32 triệu cổ phiếu.
Áp lực nợ xấu ngân hàng tiếp tục tăng
Nợ xấu ở mức cao là 3,69%, nhưng tỷ lệ bao phủ nợ xấu của PVcomBank đã được cải thiện từ mức 50% hồi đầu năm lên 54,1% khi kết thúc quý III, dù vẫn ở mức khá mỏng.
TPBank, PVcomBank, MSB… là những ngân hàng ghi nhận nợ xấu tăng mạnh trong 9 tháng đầu năm, trong đó nợ dưới tiêu chuẩn, nợ có khả năng mất vốn chiếm tỷ trọng khá lớn. Các chuyên gia nhận định, áp lực nợ xấu tiếp tục tăng trong thời gian tới, đặc biệt là sau siêu bão Yagi, sự phục hồi của nhiều doanh nghiệp còn chậm.
Mặc dù Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã gia hạn áp dụng Thông tư 02/2023/TT-NHNN đến hết năm 2024, hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn, nhưng thực trạng nợ xấu của hệ thống tiếp tục tăng so với đầu năm là cảnh báo về rủi ro của hệ thống ngân hàng.
Nợ xấu tăng mạnh
Thống kê từ số liệu báo cáo tài chính quý III/2024 của 29 ngân hàng cho thấy, tính đến ngày 30/9/2024 có tới 11 ngân hàng đang có tỷ lệ nợ xấu/dư nợ cho vay ở mức trên 3% gồm: SHB, PGBank, ABBank, VietBank, PVcomBank, VIB, OCB, BaoVietBank, BVBank, VPBank, NCB.
Điển hình là PVcomBank, trong 9 tháng đầu năm 2024, nhà băng này ghi nhận lợi nhuận trước thuế gần 89 tỷ đồng, giảm 74,3% so với cùng kỳ. Thuyết minh báo cáo tài chính cho thấy, PVcomBank đang có tổng cộng 3.775 tỷ đồng nợ xấu vào cuối quý III/2024, trong đó nợ có khả năng mất vốn ở mức 2.851 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 75,5% nợ xấu. Tỷ lệ nợ xấu/dư nợ cho vay hiện ở mức 3,69%.
PVcomBank còn có 7.750 tỷ đồng nợ xấu dưới dạng trái phiếu đặc biệt tại Công ty Quản lý tài sản VAMC, và đã trích lập 865 tỷ đồng cho khoản này.
Một số nhà băng khác có tỷ lệ nợ xấu dưới mức 3%, song trong 9 tháng năm 2024 ghi nhận nợ dưới tiêu chuẩn, nợ có khả năng mất vốn tăng mạnh.
Tại MSB, tỷ lệ nợ xấu hiện ở mức gần 2,88% tổng dư nợ, tăng nhẹ so với mức 2,86% hồi cuối năm 2023. Nhưng đáng lưu ý, nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) tăng tới 66% so với cuối năm 2023, lên hơn 3.008 tỷ đồng, trong khi ghi nhận giảm nhẹ ở nợ nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) và nhóm 4 (nợ nghi ngờ).
Chất lượng tín dụng tại TPBank có dấu hiệu đi xuống rõ rệt khi tổng nợ xấu tăng 28% so với đầu năm, lên mức 5.369 tỷ đồng. Trong đó, nợ có khả năng mất vốn giảm nhẹ 10% còn hơn 1.000 tỷ đồng. Ngược lại, nợ dưới tiêu chuẩn lại tăng tới 63% lên hơn 2.709 tỷ đồng và nợ nghi ngờ tăng 16% lên hơn 1.659 tỷ đồng. Do đó, kéo tỷ lệ nợ xấu tại TPBank tăng từ 2,05% hồi đầu năm lên 2,29%.
Bac A Bank cũng ghi nhận tổng nợ xấu nội bảng tăng hơn 50% so với đầu năm, đạt 1.375 tỷ đồng do nợ có khả năng mất vốn tăng gần 57% và nợ nghi ngờ tăng hơn 73%. Tỷ lệ nợ xấu đến cuối quý III đạt 1,33%, trong khi đầu năm chỉ ở mức 0,92%.
Tương tự, nợ xấu tại BIDV tăng khá mạnh trong kỳ qua, với mức tăng hơn 49%, lên 33.386 tỷ đồng và hiện đang là ngân hàng có quy mô nợ xấu lớn nhất hệ thống xét theo con số tuyệt đối. Tỷ lệ nợ xấu của BIDV theo đó bị kéo lên mức 1,71%.
Một loạt ngân hàng khác cũng ghi nhận quy mô nợ xấu tăng mạnh trong 3 tháng đầu năm nay, như VietBank (46,4%), Saigonbank (43,5%), ACB (40,6%)…
Ngân hàng trích dự phòng rủi ro ra sao?
Theo ông Vũ Quang Lãm - Chủ tịch HĐQT Saigonbank, ngành ngân hàng không thể nào không có nợ xấu. Quan điểm của Saigonbank là đánh giá đúng tính chất khoản nợ từng nhóm.
Trước đó, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng (NHNN) cho hay, 6 tháng đầu năm 2024, toàn hệ thống xử lý được 167.300 tỷ đồng nợ xấu, tăng khoảng 45,6% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, gần một nửa trong số đó là do các tổ chức tín dụng tự xử lý bằng trích lập dự phòng rủi ro. Điều này cho thấy việc thu giữ tài sản đảm bảo, xử lý nợ xấu đang gặp nhiều khó khăn.
Trong quý III, nhiều ngân hàng tiếp tục tăng mạnh trích lập dự phòng rủi ro. Điển hình, Techcombank trong 9 tháng đầu năm ghi nhận chi phí dự phòng 3.964 tỷ đồng, tăng 73,4% so với cùng kỳ. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu của Techcombank tăng trưởng tích cực lên 103,4% tại thời điểm cuối tháng 9, từ mức 101% cuối tháng 6/2024.
Nợ xấu ở mức cao là 3,69%, nhưng tỷ lệ bao phủ nợ xấu của PVcomBank đã được cải thiện từ mức 50% hồi đầu năm lên 54,1% khi kết thúc quý III, dù vẫn ở mức khá mỏng.
Ngược lại, một số ngân hàng cắt giảm chi phí dự phòng dù nợ xấu tăng mạnh. Như tại TPBank, nợ xấu tăng mạnh lên mức hơn 5.000 tỷ đồng, song trong trong quý III/2024 lại cắt giảm 35% chi phí dự phòng rủi ro tín dụng, xuống còn 838 tỷ đồng.
Theo nhận định của các chuyên gia, nợ xấu sẽ chưa dừng lại ở mức hiện nay, bởi vùng nhận diện nợ xấu thực tế sẽ mở rộng hơn nhiều khi nhìn vào các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ theo cơ chế hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn theo Thông tư 06/2024 và Thông tư 02/2023.
Tại báo cáo gửi tới Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XV, NHNN cho biết, lũy kế đến 31/8/2024 đã có 72 tổ chức tín dụng thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ cho 290.370 lượt khách hàng với tổng giá trị nợ gốc và lãi được cơ cấu là 249.705 tỷ đồng. Tại thời điểm 31/8/2024 có 226.764 khách hàng đang còn dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ với số dư nợ được cơ cấu lại là 126.403 tỷ đồng.
TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính - ngân hàng cho rằng, khả năng cuối năm 2024, nợ xấu còn tăng, trong đó có các khách hàng bị ảnh hưởng bão lũ ở khu vực miền Bắc mất khả năng trả nợ. Nếu nợ xấu tăng, các ngân hàng khó giảm mạnh lãi cho vay, thậm chí phải đẩy lãi suất cho vay để bù đắp dự phòng rủi ro ngày càng phải trích nhiều hơn và những thất thoát khi khách hàng mất khả năng trả nợ.
Nhiều ngân hàng “rủ nhau” tăng lãi suất
Tháng 11 chứng kiến xu hướng điều chỉnh lãi suất huy động tại nhiều ngân hàng lớn. Mới đây nhất, Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) và Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB) đồng loạt tăng lãi suất sau thời gian dài duy trì mặt bằng ổn định.
Sau 4 tháng giữ nguyên biểu lãi suất, MB vừa chính thức tăng lãi suất huy động cho hàng loạt kỳ hạn tiền gửi. Theo biểu lãi suất huy động trực tuyến cập nhật mới nhất, các kỳ hạn 1 - 4 tháng được điều chỉnh tăng thêm 0,2%/năm. Cụ thể, lãi suất kỳ hạn 1 tháng hiện là 3,5%/năm, kỳ hạn 2 tháng là 3,6%/năm, và kỳ hạn 3 - 4 tháng là 3,9%/năm.
Kỳ hạn 5 tháng cũng được tăng thêm 0,1%/năm, lên 3,8%/năm. Đáng chú ý, các kỳ hạn từ 6 tháng đến 11 tháng được điều chỉnh tăng 0,1%/năm lên 4,5%/năm, trong khi kỳ hạn 13 - 18 tháng cũng tăng thêm 0,1%/năm, đạt 5,1%/năm. Một số kỳ hạn vẫn giữ nguyên, như kỳ hạn 12 tháng ở mức 5,1%/năm, và các kỳ hạn dài 24 - 60 tháng với mức lãi suất cao nhất là 5,9%/năm.
Lần gần đây nhất MB thay đổi lãi suất là vào ngày 10/7, khi lãi suất đồng loạt được điều chỉnh cho các kỳ hạn từ 1 - 60 tháng.
Cùng ngày, VIB cũng tiến hành điều chỉnh lãi suất huy động tại tất cả kỳ hạn. Đây là lần đầu tiên sau 3 tháng VIB thay đổi biểu lãi suất, sau khi từng tăng 0,2%/năm cho các kỳ hạn từ 1 - 18 tháng vào ngày 7/8.
Trong lần điều chỉnh này, VIB tăng lãi suất kỳ hạn 1 - 5 tháng thêm 0,3%/năm và kỳ hạn 6 - 36 tháng thêm 0,2%/năm. Biểu lãi suất huy động trực tuyến của VIB mới nhất cho thấy, lãi suất kỳ hạn 1 - 2 tháng là 3,5%/năm, kỳ hạn 3 - 5 tháng là 3,8%/năm, và kỳ hạn 6 - 11 tháng lên tới 4,8%/năm. Lãi suất kỳ hạn 15 - 18 tháng được điều chỉnh lên 5,3%/năm, trong khi mức lãi suất cao nhất là 5,4%/năm dành cho các kỳ hạn 24 - 36 tháng.
Như vậy, từ đầu tháng 11 đến nay, đã có 5 ngân hàng bao gồm Agribank, Techcombank, ABBank, VIB, và MB công bố tăng lãi suất huy động.
Nhãn trắng
Data API
Tiện ích Website
Công cụ thiết kế Poster
Chương trình Tiếp thị Liên kết
Giao dịch các công cụ tài chính như cổ phiếu, tiền tệ, hàng hóa, hợp đồng tương lai, trái phiếu, quỹ hoặc tiền kỹ thuật số tiềm ẩn mức độ rủi ro cao, bao gồm rủi ro mất một phần hoặc toàn bộ vốn đầu tư, và có thể không phù hợp với mọi nhà đầu tư.
Trước khi quyết định giao dịch các công cụ tài chính hoặc tiền điện tử, bạn cần hiểu đầy đủ về rủi ro và chi phí giao dịch trên thị trường tài chính, thận trọng cân nhắc đối tượng đầu tư, và tiến hành tư vấn chuyên môn cần thiết. Dữ liệu trên trang web này không nhất thiết là theo thời gian thực hay chính xác. Dữ liệu và giá cả trên trang web không nhất thiết là thông tin do bất kỳ sở giao dịch nào cung cấp, nhưng có thể được cung cấp bởi các nhà tạo lập thị trường. Bạn chịu trách nhiệm hoàn toàn về tất cả quyết kết giao dịch bạn đã thực hiện. Chúng tôi không chấp nhận bất cứ nghĩa vụ nào trước bất kỳ tổn thất hay thiệt hại nào xảy ra từ kết quả giao dịch của bạn, hoặc trước việc bạn dựa vào thông tin có trong trang web này.
Bạn không được phép sử dụng, lưu trữ, sao chép, hiển thị, sửa đổi, truyền hay phân phối dữ liệu có trên trang web này và chưa nhận được sự cho phép rõ ràng bằng văn bản của Trang web này. Tất cả các quyền sở hữu trí tuệ đều được bảo hộ bởi các nhà cung cấp và/hoặc sở giao dịch cung cấp dữ liệu có trên trang web này.