Thị trường
Tin tức
Phân tích
Người dùng
24x7
Lịch kinh tế
Học tập
Dữ liệu
- Tên
- Mới nhất
- Trước đây
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
Không có dữ liệu phù hợp
Quan điểm mới nhất
Quan điểm mới nhất
Chủ đề Hot nhất
Để nhanh chóng tìm hiểu động lực thị trường và theo dõi trọng tâm thị trường trong 15 phút.
Trong thế giới loài người sẽ không có một lời phát biểu nào mà không có lập trường, cũng không có một lời nhận xét nào mà không có mục đích.
Lạm phát, tỷ giá hối đoái và nền kinh tế định hình các quyết định chính sách của ngân hàng trung ương; thái độ và lời nói của các quan chức ngân hàng trung ương cũng ảnh hưởng đến hành động của các nhà giao dịch trên thị trường.
Tiền làm cho thế giới quay tròn và tiền tệ là một loại hàng hóa vĩnh viễn. Thị trường ngoại hối đầy bất ngờ và kỳ vọng.
Tác giả Hot nhất
Tận hưởng những hoạt động thú vị, ngay tại FastBull.
Tin tức và sự kiện tài chính toàn cầu mới nhất.
Tôi có 5 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực phân tích tài chính, đặc biệt là ở khía cạnh diễn biến vĩ mô, nhận định xu hướng trung và dài hạn. Tôi chủ yếu tập trung vào sự phát triển ở Trung Đông, các thị trường mới nổi, Than đá, Lúa mì và các sản phẩm nông nghiệp khác.
7 năm kinh nghiệm phân tích và giao dịch trên thị trường chứng khoán, ngoại hối, kim loại quý, dựa trên phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật với logic giao dịch Top-Down, và tập trung vào kinh tế vĩ mô và kiểm soát rủi ro, sử dụng lý thuyết cung và cầu đa điều kiện để dự đoán biến động giá, tác động của hoạt động giao dịch, phân phối chip và tâm lý thị trường, và ổn định.
Cập nhật mới nhất
Cảnh báo về rủi ro khi đầu tư chứng khoán Hồng Kông
Mặc dù hệ thống pháp luật và khung giám sát tại Hồng Kông tương đối hoàn thiện, nhưng thị trường chứng khoán vẫn đối mặt với một số rủi ro và thách thức đặc biệt, như mối quan hệ giữa HKD và USD, nhà đầu tư nước ngoài còn phải đối mặt với biến động tỷ giá. Những biến động trong chính sách và tình hình kinh tế của Trung Quốc đại lục có thể gây ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán Hồng Kông.
Cấu trúc chi phí và thuế khi đầu tư chứng khoán HK
Chi phí giao dịch trên thị trường chứng khoán Hồng Kông bao gồm phí giao dịch mua bán cổ phiếu, thuế trước bạ, phí thanh toán v.v. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, có thể phải trả thêm phí chuyển đổi tiền tệ thành HKD và các loại thuế khác theo quy định của địa phương.
Ngành hàng tiêu dùng không thiết yếu Hồng Kông
Ngành hàng tiêu dùng không thiết yếu trên thị trường chứng khoán Hồng Kông bao gồm ô tô, giáo dục, du lịch, dịch vụ ăn uống, trang phục và nhiều lĩnh vực khác. Trong số 643 công ty niêm yết, có 35% là công ty Trung Quốc đại lục và chiếm 65% tổng giá trị thị trường, do đó ngành này chịu ảnh hưởng sâu rộng từ nền kinh tế Trung Quốc.
Ngành bất động sản Hồng Kông
Trong chỉ số chứng khoán Hồng Kông, tỷ trọng của ngành xây dưng và bất động sản đã giảm đáng kể trong những năm gần đây, nhưng tính đến năm 2022, nó vẫn chiếm khoảng 10% trên thị trường. Ngành này bao gồm phát triển dự án bất động sản, kỹ thuật xây dựng, đầu tư bất động sản và quản lý tài sản.
Hồng Kông, Trung Quốc
TP Hồ Chí Minh, Việt Nam
Dubai, UAE
Lagos, Nigeria
Cairo, Ai Cập
Nhãn trắng
Data API
Tiện ích Website
Chương trình Tiếp thị Liên kết
Xem tất cả kết quả tìm kiếm
Không có dữ liệu
Chưa đăng nhập
Đăng nhập để xem nội dung nhiều hơn
FastBull VIP
Chưa nâng cấp
Nâng cấp
Đăng nhập
Đăng ký
Hồng Kông, Trung Quốc
TP Hồ Chí Minh, Việt Nam
Dubai, UAE
Lagos, Nigeria
Cairo, Ai Cập
Nhãn trắng
Data API
Tiện ích Website
Chương trình Tiếp thị Liên kết
Thị trường đã cân bằng, VN-Index có thể rung lắc quanh 1.240 điểm
Trong ngắn hạn, VN-Index đã hình thành một nền giá mới xoay quanh vùng hỗ trợ 1.200 điểm. Qua đó, kỳ vọng diễn biến tăng điểm sẽ được tiếp diễn trong các phiên giao dịch tiếp theo nhằm tiếp tục kiểm định vùng kháng cự gần nhất tại 1.240 điểm.
Thị trường chứng khoán thế giới tuần qua phục hồi về mức đỉnh cũ nhờ lực đẩy từ chứng khoán Mỹ và Châu Âu tuần vừa qua. Kể từ ngày bầu cử (5/11), chứng khoán Mỹ tiếp tục thăng hoa với chỉ số Dow Jones lập kỷ lục mới, trong khi phần lớn các thị trường lớn khác trên thế giới dù đã phục hồi nhưng vẫn trong nhịp điều chỉnh từ đỉnh tháng 10.
Ở trong nước, Vn-Index phục hồi về vùng hồ trợ tâm lý 1.200 điểm, chốt tuần ở mức 1.228,1 điểm, tăng 9,53 điểm, tương đương tăng 0,78% so với tuần trước, sau nhịp giảm hơn 100 điểm kể từ đỉnh tháng 10. Mức phục hồi chủ yếu tập trung ở nhóm Vn30 với mức tăng +1,2% trong khi nhóm Midcap chỉ tăng nhẹ +0,2%, thậm chí nhóm Smallcap giảm -0,3%. Khối ngoại tiếp tục có tuần bán ròng mạnh hơn -5.000 tỷ đồng, lũy kế từ đầu năm đã gần mức -91.000 tỷ đồng.
Thanh khoản toàn thị trường tuần vừa qua còn 15.743 tỷ đồng, giảm 15,6% so với tuần trước đó. Theo thống kê, thanh khoản kể từ đầu tháng 11 đạt 16.465 tỷ đồng, giảm -7,3% so với tháng 10 và sụt -14,7% svck, ghi nhận mức thấp nhất kể từ đầu năm. Lũy kế từ đầu năm đạt gần 22.000 tỷ đồng, tăng +25,6% so với năm 2023.
Nhận định về chiến lược thị trường, bà Trần Thị Khánh Hiền, Giám đốc khối phân tích của Chứng khoán MBS cho rằng những diễn biến mới về sức mạnh đồng bạc xanh tiếp tục gây áp lực đến các đồng tiền quốc tế, trong đó có lo ngại mới về khả năng tỷ giá bước vào chu kỳ tăng mới. Tiền đồng cũng chịu áp lực không nhỏ khi tỷ giá liên ngân hàng tăng liên tục, cũng như những động thái điều hành mới của Ngân hàng Nhà nước trong thời gian gần đây.
Hiện chỉ số Dollar (DXY) đã tăng 3,93% kể từ ngày bầu cử (5/11). Nhiệm kỳ đầu tiên của ông Trump có thể cung cấp một số kinh nghiệm cho thị trường. Sau khi vị tỷ phú Mỹ đắc cử hồi năm 2016, đô la Mỹ cũng tăng vọt, đi kèm với sự đi lên của giá cổ phiếu và lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ - một mô hình tương tự những gì diễn ra gần đây. Chỉ số đô la Mỹ đã tăng hơn 5% trong giai đoạn kể từ ngày bầu cử đến hết năm 2016.
Theo bà Hiền, với thị trường trong nước, ở giai đoạn cuối tháng 4 và tháng 7 vừa qua, mức điều chỉnh hơn 9% của thị trường cũng có tác động từ yếu tố tỷ giá. Thời điểm hiện tại, sau nhịp giảm hơn 100 điểm kể từ đỉnh tháng 10, chỉ số Vn-Index cũng đã giảm -8%. Câu chuyện tỷ giá và đà bán ròng của khối ngoại là biến số chi phối thị trường giai đoạn này, tuy vậy nhìn lại quá trình bán ròng của khối ngoại 4/5 năm vừa qua, ở các năm khối ngoại bán ròng thì thị trường đều tăng điểm.
Đối với các nhóm cổ phiếu, sau nhịp giảm hơn 100 điểm vừa qua, một số nhóm cổ phiếu đã tạo được nền tích lũy và nhận được dòng tiền vào bắt đáy dù trên nền thanh khoản thấp như: Bất động sản, Chứng khoán, Dầu khí, … hoặc một số nhóm cổ phiếu có thể được hưởng lợi từ thị trường hàng hóa như: Phân bón, hóa chất, Logistics, Cảng biển, … hay nhóm cổ phiếu xuất khẩu (Dệt may, thủy sản, gỗ) khi xuất nhập khẩu đến nửa đầu tháng 11 đã vượt trên 681 tỷ USD tăng 15,7% so với cùng kỳ năm 2023; trong đó, xuất khẩu tăng 14,8%, nhập khẩu tăng 16,6%...
Về kỹ thuật, chỉ số Vn-Index đã có kết quả tích cực khi kiểm định lại ngưỡng tâm lý 1.200 điểm, đáng chú ý là diễn biến ở phiên 20/11 khi chỉ số này xuyên thủng ngưỡng hỗ trợ này sau đó phục hồi mạnh mẽ. Xu hướng giảm ngắn hạn vẫn chưa thay đổi nhưng có thể kỳ vọng thị trường đang tạo vùng cân bằng sau nhịp giảm sâu.
Thanh khoản ở tuần phục hồi ở mức khá thấp nhưng đó cũng là tín hiệu tích cực khi lượng hàng T+ đang được giữ lại khi kỳ vọng phục hồi còn tiếp diễn. Vùng hỗ trợ cho thị trường vẫn ở khu vực 1.180 – 1.200 điểm, đây là biên dưới của vùng dao động kéo dài 7 tháng qua (1.180 – 1.300 điểm) sau nhịp tăng kể từ tháng 11/2023 đến cuối tháng 3/2024.
Chuyên gia phân tích của Chứng khoán Mirae Asset nhận định: Sau nhịp giảm điểm ở những phiên đầu tuần, VN-Index ghi nhận đà phục hồi với mức tăng hơn 30 điểm từ mức thấp nhất của tuần và kết thúc tuần giao dịch với mức tăng hơn 9,5 điểm, đóng cửa tại 1.228,1.
Nhìn chung, đà tăng phần lớn được cô đọng tại nhóm Ngân hàng với sự dẫn dắt của các cổ phiếu như CTG, TCB, BID, VPB và MBB. Bên cạnh đó, diễn biến tích cực tại một số cổ phiếu vốn hóa lớn thuộc nhóm Bất động sản cũng đồng thời cải thiện diễn biến giao dịch chung và dần lan tỏa sắc xanh đến nhiều nhóm ngành như Dịch vụ tài chính, Vận tải hay các cổ phiếu riêng lẻ như MWG và FPT.
Trong ngắn hạn, VN-Index đã hình thành một nền giá mới xoay quanh vùng hỗ trợ 1.200 điểm. Qua đó, kỳ vọng diễn biến tăng điểm sẽ được tiếp diễn trong các phiên giao dịch tiếp theo nhằm tiếp tục kiểm định vùng kháng cự gần nhất tại 1.240 điểm.
Tuy nhiên, nhịp phục hồi trong tuần qua chưa phản ánh được sự đồng thuận trên diện rộng khi không đi kèm với sự cải thiện về thanh khoản cũng như về diễn biến giao dịch tại các nhóm ngành ngoại trừ nhóm Ngân hàng. Cụ thể, VN-Index vẫn ghi nhận khoảng 30% số lượng cổ phiếu niêm yết sàn HOSE đang giao dịch trên đường trung bình động 20 ngày và 60 ngày; qua đó cho thấy tín hiệu phân hóa tương đối rõ rệt giữa các nhóm cổ phiếu đầu ngành và nhóm cổ phiếu có tỷ trọng vốn hóa vừa và nhỏ.
Phân tích cổ phiếu DGC (Hóa chất Đức Giang)
Kết quả kinh doanh quý 3/2024 ảm đạm hơn dự kiến:Doanh thu: Tăng 3.8% so cùng kỳ, chủ yếu nhờ xuất khẩu Phốt pho vàng (tăng 47%). Tuy nhiên, thấp hơn kỳ vọng do ảnh hưởng bão Yagi.
Lợi nhuận gộp: Tăng nhẹ so cùng kỳ nhưng giảm mạnh so với quý 2/2024 do giá quặng apatit tăng, giá bán Phốt pho vàng giảm và gián đoạn sản xuất vì bão.
Lợi nhuận sau thuế: Giảm hơn 8% so cùng kỳ, do doanh thu tài chính giảm (lãi suất thấp) và chi phí bán hàng tăng (vận chuyển).
Triển vọng quý 4/2024 khả quan hơn:
Giá Phốt pho vàng: Phục hồi tích cực trên thị trường thế giới sau giai đoạn giảm do tồn kho lớn của các nhà sản xuất chip và lệnh hạn chế xuất khẩu của Trung Quốc. Dự báo giá bán bình quân của DGC sẽ cải thiện.
Hoạt động sản xuất: Dự kiến phục hồi bình thường sau bão Yagi, giảm chi phí quặng mua ngoài, cải thiện biên lợi nhuận gộp.
Chi phí vận tải: Xu hướng giảm mạnh từ cuối quý 3, giúp giảm chi phí bán hàng và cải thiện lợi nhuận.
Kế hoạch kinh doanh quý 4/2024: Khá thận trọng nhưng vẫn đặt mục tiêu doanh thu tăng 8.5% và lợi nhuận sau thuế đạt 770 tỷ đồng. Dự kiến cả năm 2024 đạt gần hoàn thành kế hoạch.
Cổ tức tạm ứng: 3.000đ/cp, dự kiến là mức cổ tức cuối năm. DGC có khả năng chia cổ tức bằng cổ phiếu với tỷ lệ cao do lợi nhuận tích lũy lớn.
Lợi thế cạnh tranh của DGC:
Đầu ngành sản xuất Phốt pho vàng Việt Nam: Tự chủ 80% nguyên liệu quặng apatit.
Giá điện năng: Vẫn thấp hơn nhiều so với các nước khác, tạo lợi thế cạnh tranh về giá xuất khẩu.
Nền tảng tài chính mạnh: Tiền mặt dồi dào (hơn 11.300 tỷ đồng), nợ vay thấp. Dòng tiền kinh doanh tốt.
Nhận định:
Nhịp giảm giá hiện tại của DGC là điều chỉnh ngắn hạn là cơ hội tích lũy cổ phiểu trong dài hạn
Có cơ sở để kỳ vọng phục hồi lợi nhuận trong quý 4/2024 và hỗ trợ giá cổ phiếu.
Tóm lại, kết quả kinh doanh quý 3/2024 của DGC không khả quan, nhưng triển vọng quý 4/2024 tích cực hơn nhờ phục hồi giá Phốt pho vàng, giảm chi phí vận tải và lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. DGC sở hữu nền tảng tài chính vững mạnh và có khả năng chia cổ tức hấp dẫn.
Ngân hàng nào đang rót vốn vào bất động sản nhiều nhất?
Hoạt động cho vay kinh doanh bất động sản tiếp tục tăng trưởng trong 9 tháng đầu năm 2024. Thậm chí, tại một số ngân hàng, mức tăng trưởng cho vay lĩnh vực này lên đến 3 chữ số.
Theo thống kê của Mekong ASEAN từ báo cáo tài chính quý 3/2024 của 28 ngân hàng, có 13 ngân hàng hạch toán chi tiết khoản mục cho vay ngành bất động sản. Theo đó tổng dư nợ tín dụng bất động sản của 13 ngân hàng này đạt 661,8 nghìn tỷ đồng, tăng 23,1% so với hồi đầu năm. Trong đó, 11/13 ngân hàng thống kê ghi nhận dư nợ cho vay bất động sản tăng so với đầu năm.
Xét về số dư tuyệt đối, Techcombank là ngân hàng đứng đầu với 209.710 tỷ đồng dư nợ cho các doanh nghiệp vay kinh doanh bất động sản tại thời điểm ngày 30/9, tăng 18,6% so với đầu năm.
Xếp ngay sau Techcombank về dư nợ cho vay bất động sản là VPBank với dư nợ bất động sản đạt 164.907 tỷ đồng, tăng 43,5% so với hồi đầu năm, chiếm gần 27% tổng số tiền cho vay khách hàng của ngân hàng này.
Ghi nhận dư nợ cho vay bất động sản đạt trên 50.000 tỷ đồng còn có HDBank và MB. Theo đó, HDBank đạt dư nợ bất động sản 61.207 tỷ đồng, tăng nhẹ hơn 5% so với thời điểm đầu năm, chiếm 15,4% tổng nợ vay. MB ghi nhận dư nợ bất động sản 55.082 tỷ đồng, tăng 27,3% so với đầu năm, chiếm 7,9% tổng dư nợ vay của ngân hàng.
Cũng theo thống kê, VietBank, TPBank, MSB và LPBank là những ngân hàng tiếp theo trong ghi nhận dư nợ cho vay bất động sản trên 10.000 tỷ đồng. Trong khi đó, Bản Việt, VIB, Kienlongbank và PGBank chỉ ghi nhận dư nợ cho vay dưới mức 10.000 tỷ đồng, thấp nhất là PGBank với 1.682 tỷ đồng.
Xét về tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay bất động sản, VIB là ngân hàng có tốc độ tăng cho vay bất động sản cao nhất với 275,1%, nâng dư nợ cho vay bất động sản lên trên 6.279 tỷ đồng. Tuy nhiên, tỷ trọng cho vay bất động sản mới chỉ chiếm 2,1% tổng cho vay khách hàng của ngân hàng này.
Cũng ghi nhận mức tăng dư nợ tín dụng bất động sản lên tới 3 chữ số là Kienlongbank với mức tăng 171,9%, đưa dư nợ tín dụng lên 5.968 tỷ đồng, chiếm 10% tổng dư nợ cho vay.
Ngược lại, PGBank và LPBank là hai ngân hàng ghi nhận giảm cho vay ở lĩnh vực này với tỷ lệ giảm lần lượt là 19,9% và 11,3%, đưa dư nợ cho vay bất động sản về lần lượt 1.682 tỷ đồng và 12.408 tỷ đồng.
Xét về tỷ trọng cho vay bất động sản trên tổng dư nợ, Techcombank vừa là ngân hàng ngân hàng dẫn đầu về quy mô cho vay, đồng thời cũng là ngân hàng dẫn đầu về tỷ trọng cho vay bất động sản khi chiếm 34,9% trên tổng dư nợ cho vay của ngân hàng này.
Theo sau đó là VPBank với dư nợ cho vay bất động sản chiếm 27% tổng dư nợ. Vietbank cũng là những ngân hàng có tỷ trọng cho vay bất động sản ở mức cao với 19,4% tổng dư nợ, dư nợ cho vay bât động sản đạt gần 17,8 nghìn tỷ đồng, tăng 11,1% so với đầu năm.
Tăng trưởng lợi nhuận ngành ngân hàng chậm lại do NIM thu hẹp, bộ đệm rủi ro vẫn ở mức yếu
Theo VIS Rating, tăng trưởng lợi nhuận toàn ngành chậm lại do biên lãi ròng (NIM) thu hẹp trong khi các ngân hàng nhỏ chịu thêm ảnh hưởng bởi chi phí tín dụng cao. Phần lớn các ngân hàng ghi nhận ROAA và NIM giảm theo quý...
Công ty Cổ phần Xếp hạng Tín nhiệm Đầu tư Việt Nam (VIS Rating) vừa cập nhật báo cáo ngành ngân hàng cho thấy, rủi ro tài sản được kiểm soát nhờ quy mô cho vay hạn chế với khu vực bị ảnh hưởng bởi bão, các ngân hàng nhỏ chịu tác động lớn nhất từ áp lực biên lãi ròng và chi phí tín dụng.
TĂNG TRƯỞNG LỢI NHUẬN NGÀNH CHẬM LẠI DO NIM THU HẸP
Theo VIS Rating, với tác động hạn chế từ bão số 3 (Yagi), đặc biệt đối với các ngân hàng quốc doanh và các ngân hàng lớn. Tổng dư nợ tín dụng cho các khách hàng bị ảnh hưởng bởi bão chiếm khoảng 1% tổng dư nợ toàn ngành.
Các biện pháp hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam như tái cơ cấu nợ và cung cấp các khoản vay lãi suất thấp cho các khách hàng vay bị ảnh hưởng sẽ góp phần giảm bớt gánh nặng trả nợ cho khách hàng. Tỷ lệ nợ có vấn đề toàn Ngành nhìn chung duy trì ổn định so với quý trước ở mức 2,4%.
Các ngân hàng lớn, bao gồm các ngân hàng quốc doanh, ghi nhận tốc độ các khoản nợ quá hạn phát sinh mới chậm lại, nhờ sự cải thiện của một khoản nợ xấu lớn cũng như siết chặt tiêu chuẩn cấp tín dụng, đặc biệt đối với các khoản vay tiêu dùng mới.
Mặt khác, các khoản nợ quá hạn vẫn tiếp tục tăng tại các ngân hàng tập trung vào khách hàng cá nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) điển hình như PG Bank, Saigonbank, VIB, OCB, LPBank.
VIS Rating đánh giá, khoảng 30% ngân hàng có hồ sơ rủi ro tài sản ở mức yếu, tăng từ mức 22% năm 2023. Trong cả năm 2024, tỷ lệ nợ xấu toàn ngành ngân hàng có thể ổn định ở mức 2,3-2,4% khi các ngân hàng hoàn tất việc xóa nợ trong quý 4/2024.
Tăng trưởng lợi nhuận toàn ngành chậm lại do biên lãi ròng (NIM) thu hẹp trong khi các ngân hàng nhỏ chịu thêm ảnh hưởng bởi chi phí tín dụng cao. Phần lớn các ngân hàng ghi nhận ROAA và NIM giảm theo quý.
Các ngân hàng nhỏ chịu mức giảm lợi nhuận đáng kể nhất do chi phí huy động tiền gửi tăng cao trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt. Các ngân hàng này và một số ngân hàng quy mô vừa như VIB, OCB ghi nhận sự suy giảm chất lượng tài sản và chi phí tín dụng cao.
Xu hướng lợi nhuận của các ngân hàng lớn có sự phân hóa. Một số ngân hàng như Techcombank, MBB, ACB… bị ảnh hưởng bởi thu nhập từ dịch vụ bảo hiểm, ngoại hối (FX) và đầu tư chứng khoán giảm.
Trong khi đó, một số ngân hàng khác hưởng lợi từ nỗ lực giảm rủi ro trước đó đã giảm mạnh chi phí tín dụng như VPBank và tăng lợi nhuận thu hồi nợ như VietinBank hay Vietcombank.
Với tốc độ tăng trưởng tín dụng tiếp tục được cải thiện, VIS Rating kỳ vọng ROAA toàn ngành sẽ cải thiện lên 1,6% cho cả năm 2024 từ mức 1,5% trong năm trước. Hiện, ROAA của toàn ngành giảm nhẹ xuống 1,5% trong 9 tháng năm 2024 so với 1,6% trong 6 tháng đầu năm.
BỘ ĐỆM RỦI RO HẦU HẾT CÁC NGÂN HÀNG VẪN Ở MỨC YẾU
Báo cáo của VIS Rating nhận định, bộ đệm rủi ro hầu hết các ngân hàng vẫn ở mức yếu. Tính đến hết tháng 9/2024, tỷ lệ vốn chủ sở hữu hữu hình trên tổng tài sản hữu hình (TCE/TA) toàn ngành không thay đổi so với quý trước, ở mức 8,8% do tăng trưởng lợi nhuận chậm lại. Gần 20% ngân hàng trong đánh giá của VIS Rating có hồ sơ an toàn vốn yếu, bao gồm các ngân hàng nhỏ với lợi nhuận mỏng và một số ngân hàng quốc doanh bị hạn chế trong việc tăng vốn mới.
Tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLCR) toàn ngành ngân hàng tăng nhẹ 1% so với quý 2/2024, đạt 83% vào cuối tháng 9/2024, dẫn dắt bởi VietinBank do tăng mức trích lập dự phòng và giảm nợ có vấn đề.
Tỷ lệ bao phủ nợ xấu của MBB giảm xuống mức thấp nhất trong 5 năm, còn 69%, do khoản vay của doanh nghiệp bất động sản lớn trở thành nợ xấu. Phần lớn các ngân hàng nhỏ và vừa tiếp tục có tỷ lệ bao phủ nợ xấu dưới mức trung bình của ngành.
Một số ngân hàng VietinBank, Vietcombank vẫn đang chờ phê duyệt từ cơ quan quản lý để hoàn thành việc chi trả cổ tức bằng cổ phiếu, điều này sẽ giúp các ngân hàng giữ lại vốn.
Rủi ro thanh khoản đang gia tăng khi các ngân hàng ngày càng phụ thuộc vào nguồn vốn thị trường ngắn hạn và lãi suất liên ngân hàng tăng mạnh. Tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn (CASA) của toàn ngành duy trì ổn định ở mức 19% tổng dư nợ cho vay khách hàng trong 9 tháng năm 2024. Ngân hàng OCB ghi nhận mức tăng lớn nhất, tăng 3% so với quý trước, nhờ các nỗ lực chuyển đổi số.
Tỷ lệ cho vay trên tiền gửi (LDR) toàn ngành vẫn ở mức cao, đạt 106%. Các ngân hàng nhỏ và vừa như ngân hàng BVBank, ABBank, LPBank, Nam A Bank, MSB… tăng chi phí huy động vốn cao hơn để duy trì tiền gửi và tăng cường vay liên ngân hàng ngắn hạn.
Từ giữa tháng 10/2024, lãi suất liên ngân hàng qua đêm đã tăng 3,5%, lên mức trung bình 6% sau những áp lực tỷ giá và thanh khoản thị trường thắt chặt hơn. Lãi suất liên ngân hàng nếu tiếp tục duy trì ở mức cao trong thời gian tới sẽ làm tăng rủi ro thanh khoản đối với các ngân hàng nhỏ và vừa.
Thị trường rơi về vùng giá hấp dẫn, điểm danh hàng loạt cổ phiếu khả năng tạo lợi nhuận tốt
Các cổ phiếu thuộc ngành ngân hàng phần chiếm phần lớn danh mục nhờ tỷ khả năng tạo ra lợi nhuận ổn định. Bên cạnh đó, nhóm bất động sản, vận tải, và bán lẻ là nhóm có tiềm năng tăng trưởng trong trung và dài hạn...
Trong quý 3, nền kinh tế đón nhận nhiều thông tin tích cực đến từ sự nới lỏng dần của thị trường tiền tệ toàn cầu sau khi FED lần đầu tiên giảm 0,5% lãi suất; Tín hiệu vĩ mô khả quan với tăng trưởng GDP quý 3 lên 7,4% so với cùng kỳ cùng với tăng trưởng tín dụng tăng tốc ở mức 9% so với đầu năm; Việc ban hành Thông tư 68 cho phép giao dịch mua cổ phiếu không yêu cầu có đủ tiền khi đặt lệnh của nhà đầu tư tổ chức nước ngoài.
Dù vậy, VN-Index có diễn biến trái chiều trong quý 3, liên tục gặp khó khăn và chưa thể chinh phục mốc 1.300 điểm.
Tính riêng quý 3, VN-Index tăng 3,4% lên mức 1.287 điểm và tăng 13,7% so với đầu năm. Khối lượng giao dịch bình quân quý 3/2024 đạt 646 triệu cổ phiếu giảm hơn 24% so với quý 2/2024. Giá trị giao dịch bình quân quý 3/2024 đạt hơn 16,5 nghìn tỷ, ghi nhận giảm hơn 25% so với quý 2/2024.
Khối ngoại tiếp tục bán ròng hơn 14,1 tỷ đồng trong quý 3/2024 tuy nhiên áp lực bán ròng đã giảm đáng kể so với mức 38,1 nghìn tỷ trong quý 2/2024.
Trong quý 3, nhóm các cổ phiếu ảnh hưởng đến thị trường có sự phân hóa và nhóm có tác động không mấy tích cực đến thị trường có sự biến động mạnh. Dẫn đầu là nhóm Viễn thông với mức giảm hơn 35%, tiếp đến là Du lịch & giải trí và Hàng & dịch vụ công nghiệp lần lượt giảm 16% và 11,6%. Ngược lại, nhóm Ngân hàng, Dịch vụ tài chính dẫn đầu đà tăng với lần lượt tăng 10,4% và 9,1%.
P/E của thị trường đang ở vùng thấp kể từ năm 2023. So với các thị trường chứng khoán khác trong khu vực, VN-Index có mức P/E tương đối hấp dẫn.
Đặc biệt, sau nhịp giảm mạnh kéo dài từ tuần qua đến tuần này, VN-Index lại lùi về sát mốc 1.200 điểm, PE quanh mức 12 lần. Theo thống kê, số lượng cổ phiếu giao dịch ở ngưỡng dưới RSI 30 hiện lên tới 20-30%. Chỉ số RSI (Relative Strength Index) là chỉ báo đo lường mức độ dao động của giá, thể hiện độ mạnh yếu tương đối của chỉ số/cổ phiếu khi được so với với chính nó trong quá khứ. Chỉ báo này dao động từ 0 đến 100. Khi RSI nằm dưới 30 cho thấy giá đang bị bán quá mức, khi RSI trên 70 thì giá đang bị mua quá mức.
Sau giai đoạn vừa qua, Chứng khoán Mirae Asset xây dựng danh mục đầu tư khuyến nghị cho thời gian tới. Danh mục này dựa trên kết quả kinh doanh 9 tháng năm 2024 với trọng tâm là các doanh nghiệp có nền tảng tài chính vững chắc và tiềm năng tăng trưởng bền vững.
Các cổ phiếu trong danh mục được lựa chọn dựa trên các tiêu chí sau: Các doanh nghiệp có vốn hóa thị trường trên 5.000 tỷ đồng; Khối lượng giao dịch trung bình cao hơn 100.000 cổ phiếu, đảm bảo tính thanh khoản; Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) của các cổ phiếu trong danh mục cao hơn ROE của chỉ số VN-Index, chứng tỏ khả năng sinh lời cao và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh.
Doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp trong 9 tháng năm 2024 phải ghi nhận mức tăng trưởng dương, đảm bảo sự ổn định và sức khỏe tài chính tốt.
Sharpe Ratio của danh mục phải ở mức dương, phản ánh khả năng tạo ra lợi nhuận tốt so với mức rủi ro phải chịu. Chỉ số Sharpe Ratio giúp đánh giá hiệu suất điều chỉnh rủi ro, giúp nhà đầu tư không chỉ tập trung vào lợi nhuận mà còn xem xét mức độ rủi ro kèm theo. Chỉ số này tính toán dựa trên chênh lệch lợi nhuận kỳ vọng của danh mục và lãi suất phi rủi ro, chia cho độ lệch chuẩn của lợi nhuận. Sharpe Ratio dương (>0) là tốt, và càng cao càng hiệu quả, trong khi chỉ số âm có thể cho thấy rủi ro quá lớn.
Thông qua sàng lọc, các cổ phiếu thuộc các ngành ngân hàng phần chiếm phần lớn danh mục nhờ tỷ khả năng tạo ra lợi nhuận ổn định. Bên cạnh đó, nhóm bất động sản, vận tải, và bán lẻ là nhóm có tiềm năng tăng trưởng trong trung và dài hạn.
Các cổ phiếu đáp ứng các tiêu chí trên gồm ACB, BID, CTG, HDB, LPB, MBB, NAB, STB, TCB, TPB, VCB, MBS, đây là nhóm tài chính ngân hàng. Ngoài ra là các cổ phiếu nhóm phi tài chính như CTR, NTP, PVT, QNS, DCM, DGW, FPt, VEA, HAH, BCM, SIP, ACV, PNJ, IDC.
Với tình hình vĩ mô tích cực, lợi nhuận doanh nghiệp dần hồi phục và định giá thị trường đang ở mức hấp dẫn, Mirae Asset kỳ vọng những yếu tố này sẽ trở thành động lực thúc đẩy thị trường trong thời gian tới.
Điều gì xảy ra khi thông tư 02 không được gia hạn?
1. Thông tư 02 là gì và ý nghĩa của nóThông tư 02 được ban hành để kế thừa vai trò của Thông tư 01 trong việc hỗ trợ doanh nghiệp và ngân hàng tái cấu trúc tài chính sau dịch. Nội dung chính của Thông tư 02 tập trung vào việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm giúp khách hàng vượt qua khó khăn tài chính. Đây là một biện pháp quan trọng để ổn định hệ thống ngân hàng, tránh nguy cơ đổ vỡ dây chuyền khi nợ xấu gia tăng đột biến.
2. Khi Thông tư 02 không được gia hạn thì sao?
Nếu Thông tư 02 kết thúc vào 31/12/2024 mà không được gia hạn, hệ thống tài chính và doanh nghiệp sẽ đối mặt với nhiều áp lực lớn:
Gia tăng chi phí dự phòng: Các khoản nợ xấu phải trích lập với tỷ lệ cao, từ 5% (nợ N2) lên tới 100% (nợ N5). Điều này tạo ra gánh nặng tài chính cho ngân hàng, làm giảm khả năng sinh lời.
Áp lực thanh khoản: Ngân hàng cần tìm kiếm nguồn vốn mới qua phát hành trái phiếu hoặc các biện pháp khác để cân đối tài chính.
Doanh nghiệp yếu kém bị đào thải: Những doanh nghiệp không đủ khả năng tái cấu trúc sẽ dễ dàng bị loại khỏi thị trường.
3. Tác động đối với hệ thống ngân hàng
Hệ thống ngân hàng nhỏ, đặc biệt là những ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao, sẽ chịu áp lực lớn trong việc duy trì thanh khoản và đáp ứng các yêu cầu quản lý rủi ro. Ngược lại, các ngân hàng lớn, vốn đã tích cực chuẩn bị thông qua phát hành trái phiếu và quản trị rủi ro chặt chẽ, sẽ có lợi thế vượt trội để tiếp tục phát triển.
4. Cơ hội thanh lọc cần thiết
Dù có thể dẫn đến khó khăn tạm thời, việc Thông tư 02 không được gia hạn cũng mang đến cơ hội thanh lọc hệ thống. Những doanh nghiệp và ngân hàng nhỏ, yếu kém sẽ buộc phải tái cơ cấu hoặc rời khỏi thị trường, từ đó nâng cao chất lượng tổng thể của nền kinh tế.
5. Kinh nghiệm từ quá khứ
Giai đoạn 2012-2015, nợ xấu từng là vấn đề lớn nhưng đã được giải quyết hiệu quả nhờ các biện pháp như thành lập VAMC và chính sách quản lý chặt chẽ. Với kinh nghiệm này, hệ thống tài chính Việt Nam hoàn toàn có khả năng ứng phó, miễn là có sự điều chỉnh chính sách phù hợp.
6. Kết luận
Việc không gia hạn Thông tư 02 không 'quá xấu' nếu hệ thống ngân hàng và doanh nghiệp đã chuẩn bị đủ năng lực. Đây là thời điểm để toàn hệ thống bước qua giai đoạn hỗ trợ, tự đứng vững trên đôi chân của mình, hướng đến một thị trường tài chính minh bạch và bền vững hơn.
Vnindex sẽ giảm "gắt hơn" sau khi thủng hỗ trợ 1240?
Những cơ sở cho thấy thị trường sẽ đi xuống với tốc độ nhanh hơn(góc rơi gắt) và biên giảm cũng nhiều hơn sau khi thủng hỗ trợ 1240, sẽ được trình bày ở trong bài viết này:
1.Xu hướng hiện tại của thị trường:
-Xu hướng trung hạn và ngắn hạn của Vnindex đều đang trong trạng thái điều chỉnh, hiện tại đang phản ứng ở đáy ngắn hạn gần nhất, vùng hỗ trợ 1240.
2.Dòng tiền mua vào yếu, xu hướng bán ra đang là chủ đạo
-Phần lớn thời gian thị trường giao dịch với các phiên thanh khoản thấp dưới trung bình 20 phiên. Các phiên thanh khoản cao đột biến trên trung bình 20 phiên lại là vùng phân phối đỉnh gần nhất ở ngưỡng kháng cự 1300.
-Thị trường đã phản ứng lần thứ 2 tại vùng hỗ trợ 1240, tuy nhiên, xu hướng bán ra vẫn đang là chủ đạo khi thị trường có 2 phiên đóng cửa đỏ gần nhất là phiên 11/11 và 12/11.
-Dòng tiền chung trên thị trường đã yếu, nhóm nhà đầu tư nước ngoài lại liên tục bán ròng khối lượng lớn nhiều phiên ở cả giao dịch thỏa thuận và khớp lệnh, trước những lo ngại về tỷ giá USD/VND.
=> Dòng tiền lớn chưa có biểu hiện tham gia mua mạnh tại vùng hỗ trợ 1240, mà chủ yếu vẫn là bán ra, phe bán đang chiếm ưu thế. Không có dòng tiền mua vào mạnh, rất khó tạo ra sự đảo chiều xu hướng từ xuống thành lên trong ngắn hạn( khung ngày), vùng hỗ trợ 1240 sẽ khó giữ.
2.Dòng tiền bán ra nhiều ở các cổ phiếu trụ trong VN30
-Các cổ phiếu trụ trong nhóm VN30 là các cổ phiếu vốn hóa lớn, các cổ phiếu đầu ngành, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp được thẩm định kỹ lưỡng bởi Ủy ban chứng khoán như: HPG, SSI,VCB, BID,MBB, CTG,... cơ bản đủ tiêu chuẩn để các quỹ lớn đẩy tiền to vào.
+Chiếm trọng số lớn trên thị trường, biến động các cổ phiếu này có tác động mạnh đến điểm số của thị trường chung, đặc biệt các mã ngân hàng như VCB, BID,...từ đó, tác động đến tâm lý giao dịch của NĐT trên thị trường.
+Các cổ phiếu trong Vn30 là nơi để quan sát vận động của dòng tiền lớn trên thị trường. Các quỹ đầu tư lớn sẽ dành phần lớn vốn đầu tư cho các cổ phiếu trong VN30, vì cổ phiếu trong VN30 vốn hóa lớn nên thuận tiện để tiền lớn các quỹ mua vào, bán ra.
-Dòng tiền bán mạnh các cổ phiếu trụ, biểu hiện là mức giảm điểm của VN30 lớn hơn hẳn so với chỉ số chung Vnindex
+Phiên 11/11: Vnindex giảm 2.24 điểm, Vn30 giảm lên tới 6.88 điểm.
+Phiên 12/11:Vnindex giảm 5.5 điểm, Vn30 giảm lên tới 8.51 điểm
***Trong các cổ phiếu trụ, đáng chú ý nhất là các cổ phiếu nhóm ngân hàng, ở phần nội dung tiếp theo, chúng ta sẽ cùng phân tích kỹ hơn về nhóm ngân hàng.
3. Cổ phiếu ngân hàng "tiếp tục" thủng đáy, kết thúc sóng tăng giá cuối cùng.
-Nhóm ngân hàng là nhóm có nhiều cổ phiếu nhất trong VN30, chỉ riêng nhóm này đã có tới 13 mã cổ phiếu trong VN30.
-Trước đó, rất nhiều NĐT kỳ vọng vào "sóng ngành ngân hàng" sẽ dẫn dắt Vnindex vượt vùng đi ngang, vượt kháng cự 1300. Giống như giai đoạn cuối 2023, sóng ngân hàng đã kéo Vnindex vượt vùng đi ngang, vượt kháng cự mạnh 1100+/- bước vào pha tăng trung hạn mới.
-Tuy nhiên, nhóm ngân hàng đã thất bại khi Vnindex quay đầu tại 1300. Hiện tại, cổ phiếu ngân hàng đang liên tiếp thủng đáy và phát tín hiệu kết thúc con sóng tăng giá cuối cùng của pha lên dài hạn từ cuối 2022. Ví dụ:
+Cổ phiếu BID ( vốn hóa lớn thứ 2 nhóm ngân hàng): đã xác nhận kết thúc pha tăng trung hạn cuối, pha tăng trung hạn này bị hụt biên độ, gãy xu hướng trước khi về lại đỉnh cũ T3/2024. Điều này sẽ tác động mạnh đến điểm số của Vnindex theo chiều giảm.
**Hiện tượng hụt biên độ như cổ phiếu BID đã được đề cập trong bài nhận định ngày 26/09 "Cận thận với con sóng tăng giá cuối cùng của cổ phiếu ngân hàng"
+Cổ phiếu HDB: pha tăng trung hạn cuối đã hoàn thiện cấu trúc tăng giá với bộ 5 sóng cơ bản-> Thủng đáy ngắn hạn -> phá vỡ cấu trúc tăng giá trong trung hạn hay nói cách khác, pha tăng trung hạn cuối đã kết thúc.
+Hoặc cổ phiếu MBB cũng đã thủng đáy ngắn hạn 2 lần liên tiếp.
=>Điểm tựa cuối cùng của Vnindex là nhóm cổ phiếu ngân hàng( dòng đủ mạnh để dẫn dắt Vnindex vượt 1300) đã không còn -> Vnindex thủng 1240 sẽ rơi tự do.
-Các cổ phiếu trụ khác cũng đang tiếp tục thủng đáy chưa thấy điểm dừng như MSN, MWG, VNM, PLX,..
4.Tổng kết
-Xu hướng thị trường điều chỉnh xuống trong trung và ngắn hạn và dòng tiền vẫn đang bán ra là chủ đạo. Các cổ phiếu trụ tiếp đà giảm, thủng đáy liên tục, đặc biệt là dòng ngân hàng phát tín hiệu kết thúc sóng tăng giá cuối cùng trong pha lên dài hạn.
-> Lực cầu yếu, dòng tiền không mua vào mạnh thì xu hướng xuống vẫn sẽ tiếp diễn trong trung và ngắn hạn. Thị trường thiếu đi điểm tựa, lực đỡ lớn về điểm số từ các cổ phiếu trụ, kịch bản xác suất cao sẽ sớm thủng hỗ trợ 1240.
Khi Vnindex thủng vùng 1240, thị trường sẽ bước vào giai đoạn đi xuống với tốc độ nhanh (góc rơi gắt) và biên giảm lớn hơn; làm nhà đầu tư không kịp trở tay; thậm chí có thể thủng luôn hỗ trợ mạnh 1200(+/-).Hình thái vận động sẽ tương tự như cổ phiếu MWG hay chỉ số Kospi của chứng khoán Hàn Quốc.
-> Thị trường đang tiếp tục củng cố cho kịch bản pha chỉnh C, để sau đó tạo ra một cơ hội lớn mua cổ phiếu giá rẻ ở vùng đáy dài hạn trong giai đoạn cuối 2024 như những nhận định ở các bài viết trước.
***Bài viết chia sẻ góc nhìn, nhận diện dựa trên quan điểm cá nhân, không quyết định đến việc mua bán của NĐT. Chúc quý độc giả đầu tư thành công!
Nhãn trắng
Data API
Tiện ích Website
Công cụ thiết kế Poster
Chương trình Tiếp thị Liên kết
Giao dịch các công cụ tài chính như cổ phiếu, tiền tệ, hàng hóa, hợp đồng tương lai, trái phiếu, quỹ hoặc tiền kỹ thuật số tiềm ẩn mức độ rủi ro cao, bao gồm rủi ro mất một phần hoặc toàn bộ vốn đầu tư, và có thể không phù hợp với mọi nhà đầu tư.
Trước khi quyết định giao dịch các công cụ tài chính hoặc tiền điện tử, bạn cần hiểu đầy đủ về rủi ro và chi phí giao dịch trên thị trường tài chính, thận trọng cân nhắc đối tượng đầu tư, và tiến hành tư vấn chuyên môn cần thiết. Dữ liệu trên trang web này không nhất thiết là theo thời gian thực hay chính xác. Dữ liệu và giá cả trên trang web không nhất thiết là thông tin do bất kỳ sở giao dịch nào cung cấp, nhưng có thể được cung cấp bởi các nhà tạo lập thị trường. Bạn chịu trách nhiệm hoàn toàn về tất cả quyết kết giao dịch bạn đã thực hiện. Chúng tôi không chấp nhận bất cứ nghĩa vụ nào trước bất kỳ tổn thất hay thiệt hại nào xảy ra từ kết quả giao dịch của bạn, hoặc trước việc bạn dựa vào thông tin có trong trang web này.
Bạn không được phép sử dụng, lưu trữ, sao chép, hiển thị, sửa đổi, truyền hay phân phối dữ liệu có trên trang web này và chưa nhận được sự cho phép rõ ràng bằng văn bản của Trang web này. Tất cả các quyền sở hữu trí tuệ đều được bảo hộ bởi các nhà cung cấp và/hoặc sở giao dịch cung cấp dữ liệu có trên trang web này.