Thị trường
Tin tức
Phân tích
Người dùng
24x7
Lịch kinh tế
Học tập
Dữ liệu
- Tên
- Mới nhất
- Trước đây
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T:--
D: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
T:--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
--
D: --
T: --
Không có dữ liệu phù hợp
Quan điểm mới nhất
Quan điểm mới nhất
Chủ đề Hot nhất
Để nhanh chóng tìm hiểu động lực thị trường và theo dõi trọng tâm thị trường trong 15 phút.
Trong thế giới loài người sẽ không có một lời phát biểu nào mà không có lập trường, cũng không có một lời nhận xét nào mà không có mục đích.
Lạm phát, tỷ giá hối đoái và nền kinh tế định hình các quyết định chính sách của ngân hàng trung ương; thái độ và lời nói của các quan chức ngân hàng trung ương cũng ảnh hưởng đến hành động của các nhà giao dịch trên thị trường.
Tiền làm cho thế giới quay tròn và tiền tệ là một loại hàng hóa vĩnh viễn. Thị trường ngoại hối đầy bất ngờ và kỳ vọng.
Tác giả Hot nhất
Tận hưởng những hoạt động thú vị, ngay tại FastBull.
Tin tức và sự kiện tài chính toàn cầu mới nhất.
Tôi có 5 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực phân tích tài chính, đặc biệt là ở khía cạnh diễn biến vĩ mô, nhận định xu hướng trung và dài hạn. Tôi chủ yếu tập trung vào sự phát triển ở Trung Đông, các thị trường mới nổi, Than đá, Lúa mì và các sản phẩm nông nghiệp khác.
7 năm kinh nghiệm phân tích và giao dịch trên thị trường chứng khoán, ngoại hối, kim loại quý, dựa trên phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật với logic giao dịch Top-Down, và tập trung vào kinh tế vĩ mô và kiểm soát rủi ro, sử dụng lý thuyết cung và cầu đa điều kiện để dự đoán biến động giá, tác động của hoạt động giao dịch, phân phối chip và tâm lý thị trường, và ổn định.
Cập nhật mới nhất
Cảnh báo về rủi ro khi đầu tư chứng khoán Hồng Kông
Mặc dù hệ thống pháp luật và khung giám sát tại Hồng Kông tương đối hoàn thiện, nhưng thị trường chứng khoán vẫn đối mặt với một số rủi ro và thách thức đặc biệt, như mối quan hệ giữa HKD và USD, nhà đầu tư nước ngoài còn phải đối mặt với biến động tỷ giá. Những biến động trong chính sách và tình hình kinh tế của Trung Quốc đại lục có thể gây ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán Hồng Kông.
Cấu trúc chi phí và thuế khi đầu tư chứng khoán HK
Chi phí giao dịch trên thị trường chứng khoán Hồng Kông bao gồm phí giao dịch mua bán cổ phiếu, thuế trước bạ, phí thanh toán v.v. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, có thể phải trả thêm phí chuyển đổi tiền tệ thành HKD và các loại thuế khác theo quy định của địa phương.
Ngành hàng tiêu dùng không thiết yếu Hồng Kông
Ngành hàng tiêu dùng không thiết yếu trên thị trường chứng khoán Hồng Kông bao gồm ô tô, giáo dục, du lịch, dịch vụ ăn uống, trang phục và nhiều lĩnh vực khác. Trong số 643 công ty niêm yết, có 35% là công ty Trung Quốc đại lục và chiếm 65% tổng giá trị thị trường, do đó ngành này chịu ảnh hưởng sâu rộng từ nền kinh tế Trung Quốc.
Ngành bất động sản Hồng Kông
Trong chỉ số chứng khoán Hồng Kông, tỷ trọng của ngành xây dưng và bất động sản đã giảm đáng kể trong những năm gần đây, nhưng tính đến năm 2022, nó vẫn chiếm khoảng 10% trên thị trường. Ngành này bao gồm phát triển dự án bất động sản, kỹ thuật xây dựng, đầu tư bất động sản và quản lý tài sản.
Hồng Kông, Trung Quốc
TP Hồ Chí Minh, Việt Nam
Dubai, UAE
Lagos, Nigeria
Cairo, Ai Cập
Nhãn trắng
Data API
Tiện ích Website
Chương trình Tiếp thị Liên kết
Xem tất cả kết quả tìm kiếm
Không có dữ liệu
Chưa đăng nhập
Đăng nhập để xem nội dung nhiều hơn
FastBull VIP
Chưa nâng cấp
Nâng cấp
Đăng nhập
Đăng ký
Hồng Kông, Trung Quốc
TP Hồ Chí Minh, Việt Nam
Dubai, UAE
Lagos, Nigeria
Cairo, Ai Cập
Nhãn trắng
Data API
Tiện ích Website
Chương trình Tiếp thị Liên kết
Ngày 24/12, CTCP Phú Thọ Land huy động thành công 950 tỷ đồng trái phiếu, kỳ hạn 1 năm, lãi suất cố định 10%/năm.
Đây là lô trái phiếu thứ 2 của Phú Thọ Land công bố thông tin phát hành trên Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX). Trái phiếu được bảo lãnh thanh toán bởi một ngân hàng TMCP trong nước; CTCP Chứng khoán Kỹ thương (TCBS) là tổ chức lưu ký, đăng ký chứng khoán.
Trước đó vào 25/08/2024 không còn lưu hành lô trái phiếu PTJCB2324001 trị giá 1.9 ngàn tỷ đồng, phát hành vào 25/08/2023, lãi suất 10.5%/năm. Tương tự lô vừa mới phát hành, trái phiếu này cũng được Ngân hàng TMCP trong nước bảo lãnh thanh toán và TCBS là tổ chức lưu ký, đăng ký.
Nửa đầu năm nay, Công ty lãi khủng gần 519 tỷ đồng, trong khi năm 2023 và 2022 lỗ lần lượt 141 tỷ đồng và 6 tỷ đồng.
Phú Thọ Land thành lập tháng 11/2019, trụ sở chính tại TP. Việt Trì, Phú Thọ. Ngành nghề chính là kinh doanh bất động sản, với vốn điều lệ 20 tỷ đồng. Cổ đông sáng lập khi đó gồm CTCP BV Land góp 70% vốn, CTCP Xây dựng Balimas 1% và CTCP BV Asset 29%. Trong đó, BV Land và BV Asset là thành viên của CTCP Tập đoàn Bách Việt (BV Group). Ông Lưu Vũ Trường Đạm giữ chức Giám đốc kiêm người đại diện pháp luật công ty. Tháng 02/2022, ông Hoàng Ngọc Minh thay thế ông Đạm ở các chức vụ trên.
Ngày 08/08/2023, Phú Thọ Land tăng vọt vốn điều lệ lên 1,750 tỷ đồng, gấp hơn 87 lần so với 20 tỷ đồng vốn ban đầu và cơ cấu cổ đông không được công bố. Đồng thời, chức Giám đốc kiêm người đại diện pháp luật đổi sang ông Nguyễn Danh Toàn. Hai tháng sau, doanh nghiệp chuyển trụ sở chính đến Hà Nội.
Vào ngày 24/08/2024, Phú Thọ Land đăng ký thế chấp tài sản tại TCB với tài sản là quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng hợp tác đầu tư và kinh doanh tại dự án khu đô thị Đại An giữa CTCP Vinhomes (VHM) và Phú Thọ Land nhằm hợp tác đầu tư kinh doanh và phân chia lợi nhuận từ việc bán các sản phẩm bất động sản là nhà ở tại khu đô thị Đại An (tên thương mại Vinhomes Ocean Park 3 – The Crown) do VHM làm chủ đầu tư.
Sau nhiều lần tăng vốn, cập nhật thông tin doanh nghiệp vào cuối tháng 11 vừa qua cho thấy vốn điều lệ của Công ty lên 4,360 tỷ đồng.
Thu Minh
FILI
Trong bối cảnh thị trường bất động sản vẫn còn tương đối trầm lắng, dư nợ tài chính của các doanh nghiệp bất động sản trên sàn sau 9 tháng đầu năm lại đang có xu hướng tăng.
Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cho biết, tính đến 31/8/2024, dư nợ tín dụng đối với hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 1.27 triệu tỷ đồng, tăng 29.2% so với cùng kỳ năm trước và tăng 1.9% so với 1 tháng trước.
Xét về tỷ trọng, dư nợ tín dụng đối với đầu tư kinh doanh bất động sản khác dẫn đầu với 37%, xếp sau là các dự án đầu tư xây dựng khu đô thị, phát triển nhà ở với 26%.
Dư nợ tín dụng kinh doanh bất động sản tại thời điểm 31/8/2024
Về tình hình phát hành trái phiếu đối với lĩnh vực bất động sản, theo dữ liệu Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam (VBMA) tổng hợp từ Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (SSC) thì tính đến ngày 30/9/2024, có 24 đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, trị giá hơn 22.3 ngàn tỷ đồng và 1 đợt phát hành ra công chúng, trị giá 1,467 tỷ đồng, trong tháng 9. Các doanh nghiệp đã mua lại hơn 11.7 ngàn tỷ đồng trái phiếu trước hạn, tăng 2% so với cùng kỳ năm 2023.
Bộ Xây dựng nhận định: trái phiếu bất động sản đã phát hành tăng mạnh trong quý 3, nhóm bất động sản tiếp tục đứng thứ hai, chiếm khoảng 19%. Đối với phần còn lại của năm 2024, ước tính sẽ có gần 79.9 ngàn tỷ đồng trái phiếu đáo hạn; trong đó, 44% từ trái phiếu bất động sản với trên 35.1 ngàn tỷ đồng.
HQC dẫn đầu toàn ngành về mức tăng nợ vay
Theo VietstockFinance, dư nợ tài chính của 87 doanh nghiệp bất động sản trên sàn (HOSE, HNX, UPCoM) tại thời điểm 30/9/2024 tăng gần 11% so với đầu năm, lên hơn 262 ngàn tỷ đồng. Chi phí lãi vay 9 tháng đầu năm tăng hơn 30% so với cùng kỳ, lên hơn 10.3 ngàn tỷ đồng.
Doanh nghiệp có mức tăng nợ vay nhiều nhất kể từ đầu năm là Địa Ốc Hoàng Quân H khi dư nợ vào cuối tháng 9 vượt hơn 1.5 ngàn tỷ đồng, trong khi đầu năm chỉ có 62 tỷ đồng. Phần lớn khoản chênh lệch đến từ khoản vay nợ dài hạn 1.39 ngàn tỷ đồng, cuối năm trước không có.
Nợ dài hạn trên gồm khoản vay tại Ngân hàng TMCP Phát triển TPHCM (HDBank) chi nhánh Thủ Đức (377.7 tỷ đồng) và HDBank chi nhánh Cộng Hòa (1,005 tỷ đồng), cùng với đó là gần 7.5 tỷ đồng từ CTCP Xây dựng và Phát triển Đô thị Tây Ninh.
Trong đó, khoản vay từ Công ty Tây Ninh nhằm bổ sung vốn hoạt động kinh doanh của HQC, kỳ hạn 36 tháng, không có lãi suất. Tại HDBank chi nhánh Thủ Đức, HQC có 2 hạn mức vay 311 tỷ đồng (thời hạn 24 tháng) để góp vốn hợp tác kinh doanh với CTCP Đầu tư Xây dựng Phát triển Nhà Bảo Linh và 243 tỷ đồng (thời hạn 48 tháng) bổ sung vốn thực hiện dự án nhà ở xã hội khu công nghiệp Tân Hương (Tiền Giang). Lãi suất 11-12%/năm. Số dư tại thời điểm 30/9/2024 của 2 khoản vay này lần lượt là 285 tỷ đồng và 92.7 tỷ đồng.
Còn tại HDBank chi nhánh Cộng Hòa, HQC cũng có 2 khoản vay có tài sản bảo đảm 920 tỷ đồng (kỳ hạn 48 tháng) nhằm bổ sung vốn thực hiện dự án chung cư nhà ở xã hội Thành phố Vàng (Golden City) và 500 tỷ đồng (kỳ hạn 24 tháng) để góp vốn hợp tác kinh doanh với CTCP Tư vấn - Thương mại - Dịch vụ Địa ốc Hoàng Quân Mê Kông (HQM). Lãi suất từ 10-11.5%/năm, số dư vào cuối tháng 9 lần lượt là gần 665 tỷ đồng và gần 428 tỷ đồng.
Đáng chú ý, vào tháng 3/2024, Hoàng Quân Mê Kông đã hoàn tất huy động lô trái phiếu HQMCH2328001 cũng với giá trị 500 tỷ đồng. Trái phiếu phát hành ngày 27/12/2023, đáo hạn vào 27/12/2028 (kỳ hạn 5 năm), lãi suất phát hành 12%/năm.
* Hoàng Quân Mê Kông huy động thành công 500 tỷ đồng trái phiếu, lãi suất 12%/năm
Xếp thứ hai về mức tăng dư nợ vay là CTCP Tập đoàn Tư vấn Đầu tư Xây dựng Kiên Giang C, hơn 2 ngàn tỷ đồng vào cuối quý 3, gấp 5 lần đầu năm.
20 doanh nghiệp BĐS có dư nợ vay tăng mạnh nhất trong 9 tháng đầu năm 2024 (Đvt: Tỷ đồng)Nguồn: VietstockFinance
Mặt khác, xét về độ lớn, CTCP Vinhomes và CTCP Tập đoàn Đầu tư Địa ốc No Va vẫn là 2 doanh nghiệp dẫn đầu ngành về số dư nợ vay, lần lượt gần 72.2 ngàn tỷ đồng (tăng 27%) và hơn 59.8 ngàn tỷ đồng (tăng 4%).
Trong cơ cấu nợ vay của VHM, dư nợ từ phát hành trái phiếu chiếm gần 27.5 ngàn tỷ đồng (tăng 38%), vay ngân hàng chiếm xấp xỉ 33 ngàn tỷ đồng (tăng 45.7%), còn lại là vay từ đối tác khác.
Tại NVL, dư nợ phát hành trái phiếu gần 38.9 ngàn tỷ đồng (tăng 65%), vay ngân hàng hơn 11.8 ngàn tỷ đồng (tăng 19.7%), còn lại là vay bên thứ ba.
20 doanh nghiệp BĐS có dư nợ vay lớn nhất tại thời điểm 30/9/2024 (Đvt: Tỷ đồng)Nguồn: VietstockFinance
Số lượng doanh nghiệp giảm nợ chiếm đa số
Dù dư nợ toàn ngành tăng, số doanh nghiệp có nợ vay giảm hoặc “nói không” với nợ vay lại chiếm hơn nửa số doanh nghiệp được thống kê, tương đương 49 đơn vị.
Có 4 doanh nghiệp đã thành công đưa dư nợ vay về 0 sau 9 tháng đầu năm gồm: CTCP Phát triển Đô thị Từ Liêm N, CTCP Sonadezi Giang Điền S, CTCP Xây dựng Công nghiệp và Dân dụng Dầu khí P và CTCP Xây dựng Số 3 Hải Phòng (UPCoM: HC3). Trong đó, NTL đang tập trung nghiên cứu đầu tư phát triển dự án mới nên doanh thu chủ yếu đến từ lãi tiền gửi ngân hàng.
Có 8 doanh nghiệp vẫn không vay nợ từ đầu năm đến cuối quý 3, gồm: CTCP Phát triển Đô thị Công nghiệp số 2 (HOSE: D2D), CTCP Đầu tư Nhà Đất Việt P, CTCP Đầu tư Khu Công nghiệp Dầu khí Long Sơn P, CTCP Đầu tư Phát triển Sài Gòn Co.op S, CTCP Phát triển Nhà Thủ Đức T, CTCP Sản xuất Kinh doanh Xuất nhập khẩu Dịch vụ và Đầu tư Tân Bình T, CTCP Phát triển Đô thị U và CTCP Phát triển Đô thị và Khu công nghiệp Cao su Việt Nam .
CTCP Đầu tư và Phát triển Bất động sản An Gia cũng góp mặt trong số doanh nghiệp có nợ vay giảm đáng kể khi xử lý dứt điểm gần 315 tỷ đồng trái phiếu, qua đó nợ vay giảm 29%, về mức hơn 1 ngàn tỷ đồng.
20 doanh nghiệp BĐS có dư nợ vay giảm mạnh nhất trong 9 tháng đầu năm 2024 (Đvt: Tỷ đồng)Nguồn: VietstockFinance
Như đã đề cập ở trên, chi phí lãi vay trên báo cáo kết quả kinh doanh 9 tháng đầu năm 2024 của 87 doanh nghiệp bất động sản tăng hơn 30% so với cùng kỳ, lên hơn 10.3 ngàn tỷ đồng.
Dẫn đầu là VHM, hơn 4.6 ngàn tỷ đồng, gấp 2.2 lần cùng kỳ. Tuy nhiên, xếp thứ hai không phải NVL mà là Tổng Công ty Đầu tư và Phát triển Công nghiệp - CTCP với 939 tỷ đồng, tăng 54%. Xếp thứ ba là CTCP Vincom Retail với 419 tỷ đồng, tăng 63%. Điểm chung của 3 doanh nghiệp này là dù chi phí lãi vay tăng mạnh, tỷ lệ chi phí lãi vay/chi phí tài chính lại giảm, chủ yếu do sự xuất hiện của chi phí tài chính khác.
So với một số khoản mục liên quan, tỷ lệ chi phí lãi vay/chi phí tài chính (CPLV/CPTC) trung bình ngành ở mức 71%, chỉ giảm 1% so với cùng kỳ. Doanh nghiệp có tỷ lệ này cao nhất là DIG với 222%, do trong 9 tháng đầu năm 2024, Công ty được hoàn nhập dự phòng 20 tỷ đồng, dẫn đến tổng chi phí tài chính giảm đáng kể.
Mặt khác, tỷ lệ chi phí lãi vay/doanh thu thuần cũng thay đổi đáng kể khi giảm từ 230% cùng kỳ xuống còn 75%. DRH là doanh nghiệp có chỉ số này cao nhất với 4,528%, do chi gần 98 tỷ đồng để trả lãi vay, nhưng doanh thu thuần chỉ hơn 2 tỷ đồng.
20 doanh nghiệp có chi phí lãi vay lớn nhất 9 tháng đầu năm 2024 (Đvt: Tỷ đồng)
Hà Lễ
FILI
CTCP Tập đoàn Masan công bố BCTC quý 3/2024 với lãi 701 tỷ đồng trong quý 3/2024, đạt 130% kế hoạch lợi nhuận năm sau 9 tháng.
“Quý 3/2024, WinCommerce và Masan MEATLife đã đạt lợi nhuận sau thuế dương và là động lực then chốt giúp tối đa hóa giá trị cho cổ đông. Xu hướng này sẽ tăng tốc hơn nữa khi chúng tôi tiếp tục thực hiện các phát kiến chiến lược trong trung hạn. Masan Consumer tiếp tục đà tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận hai con số và đang bước vào giai đoạn tăng tốc khi các xu hướng cao cấp hóa, đổi mới sản phẩm và tiêu dùng bên ngoài gia đình tăng lên. Với đà này, tôi tin rằng Masan sẽ tiến gần đến kế hoạch lợi nhuận sau thuế theo kịch bản tích cực là 2,000 tỷ đồng. Chúng tôi đã và đang tập trung kết hợp toàn bộ nền tảng tiêu dùng bán lẻ của mình, hướng đến mức tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận hợp nhất hai chữ số cho năm 2025", Tiến sĩ Nguyễn Đăng Quang, Chủ tịch Tập đoàn Masan chia sẻ.
Cụ thể, doanh thu thuần của Masan Group đạt 21,487 tỷ đồng, tăng 6.6% so với mức 20,155 tỷ đồng trong quý 3/2023, nhờ sự tăng trưởng bền vững từ các mảng kinh doanh tiêu dùng bán lẻ giúp bù đắp lại hoạt động tái cấu trúc mảng gà trang trại của MML và hoạt động kinh doanh bị gián đoạn tạm thời của MHT.
EBITDA đạt 4,233 tỷ đồng, tăng 13.2% so với cùng kỳ năm ngoái. Mức tăng đáng kể này được thúc đẩy bởi đà tăng lợi nhuận của tất cả mảng kinh doanh tiêu dùng bán lẻ.
Lợi nhuận sau thuế sau phân bổ cổ đông thiểu số (NPAT Post-MI) đạt 701 tỷ đồng, tăng 1,349% so với cùng kỳ năm ngoái. Kết quả tích cực này là thành quả của khả năng sinh lời mạnh mẽ xuyên suốt các mảng kinh doanh tiêu dùng bán lẻ và 788 tỷ đồng cải thiện nhờ chi phí lãi vay ròng giảm và việc không phát sinh chi phí do biến động tỷ giá hối đoái.
Masan đã phòng ngừa rủi ro 100% khoản vay USD dài hạn kể từ đầu năm, điều này đã giúp cho Masan giữ vững được kết quả kinh doanh trước những tác động tiêu cực của biến động tỷ giá giúp LNST sau phân bổ cổ đông thiểu số (NPAT Post-MI) tăng 511 tỷ đồng so với cùng kỳ năm ngoái. Chi phí lãi vay ròng cải thiện 277 tỷ đồng nhờ dòng tiền từ hoạt động kinh doanh và nguồn vốn tăng thêm trong kỳ.
Mảng kinh doanh tiêu dùng bán lẻ duy trì đà tăng trưởng tích cực cùng với lợi nhuận cao hơn của các hoạt động ngoài ngành.
Cụ thể, Masan Consumer Corporation (UpCOM: MCH) đạt doanh thu tăng 10.4% so với cùng kỳ, đạt 7,987 tỷ đồng. Con số tích cực này được đóng góp bởi chiến lược cao cấp hóa được triển khai trong ngành hàng thực phẩm tiện lợi và gia vị giúp đạt tăng trưởng lần lượt 11% và 6.7%; và hoạt động đổi mới trong ngành hàng đồ uống và chăm sóc gia đình và cá nhân giúp đạt tăng trưởng lần lượt 18.8% và 12.4%.
MCH tiếp tục duy trì biên lợi nhuận gộp ở mức cao là 46.8%, cao hơn 20 điểm cơ bản so với qúy 3/2023 nhờ triển khai chiến lược cao cấp hóa trong ngành hàng gia vị và thực phẩm tiện lợi thông qua việc kết hợp các sản phẩm có biên lợi nhuận cao và chiến lược giá phù hợp tại các danh mục sản phẩm phụ quan trọng, trong khi chi phí vật liệu và bao bì tăng.
MCH có chiến lược giảm các hoạt động xúc tiến thương mại để đầu tư vào các hoạt động có tỷ suất hoàn vốn (ROI) cao hơn như phát triển kênh mới và tiếp thị xây dựng thương hiệu, giúp tối ưu hóa chi phí hoạt động trên doanh thu thêm 70 điểm cơ bản. Theo đó, biên lợi nhuận sau thuế (LNST) sau phân bổ cổ đông thiểu số (NPAT Post-MI margin) ghi nhận 25.9%, tăng 90 điểm cơ bản so với cùng kỳ năm ngoái. Hàng tồn kho tại các nhà phân phối duy trì ở mức ổn định là 14 ngày.
WinCommerce (WCM) ghi nhận doanh thu tăng 9.1% trong quý 3/2024, đạt 8,603 tỷ đồng trên toàn mạng lưới, được đóng góp chủ yếu bởi các mô hình cửa hàng mới WIN (phục vụ người mua sắm ở thành thị) và WinMart+ Rural (phục vụ cho người mua sắm ở nông thôn), đạt mức tăng LFL so với cùng kỳ lần lượt 12.5% và 11.5%. Mô hình cửa hàng truyền thống tăng 8%. LNST của WCM đạt con số dương là 20 tỷ đồng trong quý 32024, lần đầu tiên kể từ thời kỳ COVID. Đây là dấu hiệu rõ ràng của một lộ trình gặt hái lợi nhuận bền vững trong thời gian tới.
Tính đến tháng 9 năm 2024, WCM vận hành 3,733 cửa hàng WCM, mở ròng thêm 60 cửa hàng mới kể từ quý 2/2024. Công tác mở cửa hàng mới đã và đang được đẩy mạnh trở lại. Tăng trưởng LFL tiếp tục được cải thiện, các mô hình cửa hàng mới với giá trị khác biệt và vượt trội cho khách hàng giúp WCM linh hoạt hơn trong việc lựa chọn địa điểm mở cửa hàng.
Các siêu thị WinMart đạt lợi nhuận hoạt động (EBIT) dương trong khi tăng trưởng doanh thu không thay đổi, chủ yếu nhờ tỷ lệ hao hụt được cải thiện.
Masan MEATLife (MML) ghi nhận mức tăng EBIT 43 tỷ đồng so với cùng kỳ năm ngoái và tăng 105 tỷ đồng so với cùng kỳ cho LNST trước phân bổ cổ đông thiểu số (NPAT Pre-MI) trong quý 3/2024. Đây là quý thứ ba liên tiếp MML báo cáo EBIT dương và quý đầu tiên đạt NPAT Pre-MI dương (20 tỷ đồng) kể từ năm 2023. Kết quả tích cực này được thúc đẩy bởi doanh số mảng thịt chế biến tăng lên đồng thời được hưởng lợi từ giá thị trường thịt gà và thịt lợn cao hơn. Trong quý 3/2024, doanh thu mảng thịt bao gồm thịt lợn tươi, thịt gà và thịt chế biến tăng 13.6% so với cùng kỳ trong khi doanh thu mảng trang trại giảm 28.2% so với cùng kỳ do MML triển khai chiến lược tái cấu trúc mảng gà trang trại và tập trung hơn vào chuỗi giá trị ở hạ nguồn. Nhờ đó, doanh thu của MML tăng nhẹ 1.7% lên 1,936 tỷ đồng.
MML tiếp tục sứ mệnh cách mạng hóa thị trường thịt chế biến đang phát triển của Việt Nam bằng các sản phẩm thơm ngon, tốt cho sức khỏe, chất lượng cao, với hai thương hiệu mạnh là Ponnie và Heo Cao Bồi. Hai thương hiệu này đã đạt được xấp xỉ 50% thị phần trong thị trường sản phẩm xúc xích tiệt trùng.
Việc triển khai những đổi mới sản phẩm giúp đóng góp 130 tỷ đồng, là động lực chính cho mức tăng 19.4% của mảng thịt chế biến. Theo đó, trọng tâm chiến lược là đa dạng hóa các sản phẩm để mở rộng cơ hội tiêu dùng.
Việc sử dụng thịt lợn để làm thịt chế biến đã tăng từ 5.8% trong quý 3/2023 lên 7.4%, phù hợp với chiến lược của MML nhằm tăng biên lợi nhuận gộp chung và tăng cường phát triển liên kết theo chiều dọc.
Việc tái cấu trúc mảng trang trại là nỗ lực của doanh nghiệp nhằm giảm thiểu rủi ro trong thị trường trang trại đầy biến động, đồng thời duy trì mảng này ở quy mô phù hợp để đảm bảo nguồn cung nguyên liệu thô không bị gián đoạn cho nhu cầu sản xuất thịt trong nước.
Doanh thu thuần của Phúc Long Heritage (PLH) tăng 12.8% so với cùng kỳ năm ngoái lên 425 tỷ đồng, chủ yếu nhờ đóng góp từ 21 cửa hàng mới ngoài WCM được mở trong cùng quý. PLH hiện vận hành 174 cửa hàng trên toàn quốc. Doanh thu LFL hàng ngày của các cửa hàng PLH ngoài WCM tăng 2%.
EBIT của Masan High-Tech Materials (MHT) giảm 117 tỷ đồng so với cùng kỳ năm ngoái. Điều này là do nhu cầu thị trường thấp hơn, hoạt động doanh nghiệp bị gián đoạn do cơn bão Yagi và kế hoạch bảo trì nhà máy trong bối cảnh được thuận lợi về giá bán trên thị trường.
Ban lãnh đạo đã và đang tập trung vào việc bán lượng đồng tồn kho. Theo đó, tổng doanh số bán đồng trong quý 4/2024 dự kiến nhiều hơn tổng doanh số bán trong 9 tháng đầu năm 2024. Việc bán H.C. Starck cho Mitsubishi Materials Corporation với giá mua cổ phần là 134.5 triệu USD dự kiến sẽ hoàn tất trước cuối năm 2024. Khi đó, MHT dự kiến sẽ được hưởng lợi từ việc tăng LNST trong dài hạn lên 20 - 30 triệu USD. Số tiền thu được từ giao dịch sẽ được sử dụng để giảm nợ của MHT, đồng thời việc bán HCS cũng giúp MHT được giải tỏa khỏi khoản nợ từ quỹ hưu trí của HCS với giá trị khoảng 196 triệu USD tính đến quý 3/2024.
Về Techcombank - công ty liên kết của Masan, đóng góp 1,136 tỷ đồng vào EBITDA, tăng 8.7% cùng kỳ.
Kết quả kinh doanh quý 3 và lũy kế 9 tháng năm 2024 của Masan GroupĐvt: Tỷ đồng
Nhiều triển vọng cho quý 4
Đạt 2,726 tỷ đồng LNST trước phân bổ cổ đông thiểu số (NPAT Pre-MI) và 1,308 tỷ đồng LNST sau phân bổ cổ đông thiểu số (NPAT Post-MI) trong 9 tháng năm 2024, MSN đã hoàn thành 130.8% kế hoạch LNST kịch bản cơ sở được cổ đông phê duyệt vào đầu năm.
Ban lãnh đạo Tập đoàn cho biết sẽ tiếp tục cải thiện kết quả kinh doanh trong quý 4/2024 với kỳ vọng tiến gần đến kế hoạch lợi nhuận kịch bản tích cực của năm 2024 nhờ vào các trọng tâm chiên lược: Tiếp tục tập trung vào tăng trưởng lợi nhuận với trọng tâm là mảng kinh doanh tiêu dùng bán lẻ cốt lõi; Tối ưu hóa chương trình Hội viên WIN để tạo ra giá trị cho doanh nghiệp và các thương hiệu đối tác của Masan; Giảm nợ hơn nữa để cải thiện bảng cân đối kế toán và giảm chi phí tài chính; Giảm sở hữu ở các lĩnh vực kinh doanh ngoài ngành trong khi vẫn duy trì chiến lược phân bổ vốn chặt chẽ.
Với MCH, Tập đoàn đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng doanh thu trong quý 4/2024 bằng cách tiếp tục thực hiện chiến lược cao cấp hóa các ngành hàng Gia vị và Thực phẩm tiên lợi, thực hiện các đổi mới trong ngành hàng đồ uống, chăm sóc gia đình và cá nhân và cà phê hòa tan, đồng thời tinh giản các SKU hoạt động kém hiệu quả để tối ưu hóa lợi nhuận.
Tiếp tục đạt LNST dương tại WCM, đẩy mạnh tăng trưởng LFL đồng thời tăng tốc độ mở cửa hàng để đạt xấp xỉ 100 cửa hàng mở mới mỗi quý. WCM sẽ tiếp tục củng cố vị thế ở khu vực nông thôn với mô hình WinMart+ Rural đã chứng minh thành công.
Tập đoàn cũng đầu tư thêm vào nguồn lợi nhuận dài hạn từ mảng thịt chế biến để đạt được lợi nhuận bền vững tại MML; Cải thiện tăng trưởng LFL và tích hợp vào chương trình Hội viên WIN để tối ưu hóa biên lợi nhuận của Phúc Long; Hoàn tất thương vụ bán HCS để giảm đòn bẩy tài chính, bán lượng đồng tồn kho, tối ưu hóa chi phí và cải thiện hiệu quả hoạt động.
FILI
BV Land muốn thay Chủ tịch HĐQT
BV Land là thành viên của Tập đoàn Bách Việt.
CTCP BV Land (mã chứng khoán BVL, sàn UPCoM) vừa thông báo lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản về việc miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch HĐQT và thành viên HĐQT của ông Tạ Hoài Hạnh, đồng thời bầu bổ sung thành viên HĐQT cho thời gian còn lại của nhiệm kỳ 2023 - 2028.
Theo tờ trình, ông Tạ Hoài Hạnh thôi giữ các chức vụ kể từ ngày 21/9/2024 và bà Khương Hải Ninh sẽ được đề cử vào vị trí thành viên HĐQT. Danh sách thành viên HĐQT sau khi thay đổi gồm ông Nguyễn Tân Thành, ông Lý Tuấn Anh, ông Nguyễn Vũ Thiện, bà Khương Hải Ninh và ông Phạm Trọng Bình (thành viên HĐQT độc lập).
BV Land được thành lập năm 2008 với ngành nghề kinh doanh chính ban đầu là nhà thầu xây dựng. Năm 2020, công ty được tái cơ cấu để trở thành đơn vị chuyên triển khai các dự án bất động sản của Tập đoàn Bách Việt (BV Group), với danh mục hoạt động gồm: Khu đô thị, chung cư, trung tâm thương mại, văn phòng cho thuê, khách sạn, khu nghỉ dưỡng…
Tại thời điểm cuối tháng 6/2024, Tập đoàn Bách Việt sở hữu 63,36% cổ phần tại BV Land; CTCP BV Asset giữ 5,45% vốn. Hai tổ chức này đều do ông Tạ Hoài Hạnh làm Chủ tịch HĐQT. Ngoài ra, ông Hạnh còn là Chủ tịch HĐQT tại CTCP BV Education, Chủ tịch Công ty TNHH MTV BV EDU, Chủ tịch Trường liên cấp THCS-TH Vietschool Pandore. Đây đều là các thành viên trong hệ sinh thái của Tập đoàn Bách Việt.
BV Land được biết đến với các dự án bất động sản như Khu đô thị Bách Việt Lake Garden (Bắc Giang), Chung cư Areca Garden (Bắc Giang), Tổ hợp Rivera Park, Tổ hợp bất động sản cao cấp BV Diamond Hill (Bắc Giang), Khu đô thị BV Bavella Lạc Ngàn (Phú Thọ)...
Năm 2022 và 2023, công ty ghi nhận doanh thu chạm mốc hơn 1.000 tỷ đồng mỗi năm, tăng vọt so với những năm trước đó. Lợi nhuận của công ty trong năm 2022 đạt 144 tỷ đồng, gấp 6 lần năm 2021; còn năm 2023 đạt 56 tỷ đồng, giảm hơn 60% so với năm 2022, chủ yếu do “hụt” phần lợi nhuận khác.
Năm 2024, BV Land đặt mục tiêu doanh thu gần 1.350 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế hơn 118 tỷ đồng, tăng lần lượt 30% và 110% so với năm 2023. Công ty dự kiến cùng các đơn vị thành viên khởi công 3 dự án mới là Khu đô thị thương mại Bavella Green Park (TP Bắc Giang), Toà nhà BV Diamond Hill Thái Nguyên và Khu đô thị thương mại Bavella Thanh Ba (Phú Thọ). Trong đó, dự án Bavella Green Park dự kiến hoàn thành cơ bản trong quý 3/2024 và bắt đầu bán hàng.
6 tháng đầu năm, công ty mang về 422 tỷ đồng doanh thu, tăng 18% so với cùng kỳ năm ngoái; lợi nhuận sau thuế đạt 12 tỷ đồng, tăng 50%. Tuy nhiên so với kế hoạch đề ra, công ty mới hoàn thành 31% mục tiêu doanh thu và 10% mục tiêu lợi nhuận.
Cổ phiếu BVL của BV Land được giao dịch trên UPCoM từ tháng 6/2021. Tại ĐHĐCĐ thường niên năm 2024 tổ chức hồi tháng 4 năm nay, cổ đông công ty đã thông qua phương án chuyển niêm yết cổ phiếu sang Sở Giao dịch Chứng khoán TP HCM (HoSE).
Kết phiên 13/9, BVL tăng hơn 12% lên giá 11.100 đồng/cp.
6 tháng đầu năm nay, tổng nợ vay của các doanh nghiệp bất động sản đã công bố BCTC quý 2/2024 tăng 7%, lên hơn 491 ngàn tỷ đồng. Nếu so với thời điểm đầu năm 2020, nợ vay của các doanh nghiệp mảng này tăng tới gần 60%.
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), tính đến 31/5/2024, dư nợ tín dụng đối với hoạt động kinh doanh bất động sản (BĐS) lên hơn 1.2 triệu tỷ đồng, tăng gần 4% so với thời điểm 31/3.
Dư nợ tín dụng hoạt động kinh doanh BĐS tính đến 31/5/2024 (Đvt: tỷ đồng)
NHNN cho biết, một trong những lĩnh vực cho vay chính của tăng trưởng tín dụng là BĐS thời gian qua giảm mạnh, nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp và người dân đều chậm lại vì giá nhà cao, chênh lệch lớn so với thu nhập của người dân trong bối cảnh kinh tế khó khăn.
Đối với thị trường trái phiếu doanh nghiệp, quý 2/2024, có 4 đợt phát hành trái phiếu ra công chúng, trị giá 2,500 tỷ đồng, chiếm gần 3% tổng giá trị phát hành; 84 đợt phát hành riêng lẻ trị giá 88,719 tỷ đồng, chiếm hơn 97%.
Trong đó, tổng giá trị phát hành trái phiếu của doanh nghiệp BĐS là 16,900 tỷ đồng, chiếm 19% tổng giá trị phát hành và gấp 2.6 lần cùng kỳ.
Mặt khác, giá trị trái phiếu sẽ đáo hạn trong nửa cuối năm nay rất lớn, lên tới 139,765 tỷ đồng; trong đó có 58,782 tỷ đồng là trái phiếu BĐS, chiếm 42%.
Phần lớn nợ vay gia tăng
Theo thống kê từ VietstockFinance, 116 doanh nghiệp BĐS trên sàn chứng khoán (HOSE, HNX, UPCoM) đã công bố BCTC quý 2/2024 có tổng dư nợ vay tại ngày 30/6/2024 là hơn 491 ngàn tỷ đồng, tăng 7% so với đầu năm. Nếu so với đầu năm 2020, mức dư nợ vay này tăng tới gần 60%.
Trong đó, 4 doanh nghiệp đầu ngành cũng là những cái tên có nợ vay lớn nhất, gồm: Tập đoàn VINGROUP hơn 222.4 ngàn tỷ đồng, Vinhomes hơn 70.5 ngàn tỷ đồng, Novaland hơn 59.2 ngàn tỷ đồng và Becamex IDC gần 21.3 ngàn tỷ đồng. Chỉ tính riêng 4 ông lớn này đã chiếm tới 76% tổng nợ vay của nhóm doanh nghiệp BĐS trên sàn được thống kê.
Theo thống kê top 20 doanh nghiệp có dư nợ vay lớn nhất thị trường, chỉ có 7 doanh nghiệp giảm nợ vay, 13 cái tên tiếp tục tăng nợ sau nửa đầu năm. Trong nhóm 20 vừa nêu, dư nợ vay của CTCP Đầu tư Sài Gòn VRG S tăng 81%, lên 3,043 tỷ đồng, chiếm 13% tổng tài sản. Nguyên nhân do SIP phát sinh thêm khoản vay dài hạn tại Vietcombank (VCB) hơn 780 tỷ đồng ngày 28/6, kỳ hạn 84 tháng, nhằm chi trả bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án khu liên hợp công nghiệp - đô thị - dịch vụ Phước Đông Bời Lời (giai đoạn 3) và gần 600 tỷ đồng vay nợ ngắn hạn tại các ngân hàng khác.
Nợ vay của Nhà Khang Điền tăng 22%, lên 7,740 tỷ đồng, chiếm 27% tổng tài sản. KDH tăng vay dài hạn tại các ngân hàng từ hơn 4,900 tỷ đồng hồi đầu năm lên 6,070 tỷ đồng để tài trợ cho các dự án: khu nhà ở Bình Trưng Đông, khu trung tâm dân cư Tân Tạo - khu A và khu nhà ở Bình Hưng 11A.
Xét về mức tăng, ông trùm nhà ở xã hội - Địa Ốc Hoàng Quân H tăng nhiều nhất khi nợ vay vào cuối tháng 6 tăng gấp 22 lần so với đầu năm, lên 1,370 tỷ đồng và chiếm 13% tổng tài sản. Sở dĩ có khoản tăng đột biến này là do HQC mua cổ phần và hợp nhất BCTC CTCP Đầu tư Thành phố Vàng (HQC sở hữu 98.04%) trong quý 1/2024.
Trong đó, gần 1.3 ngàn tỷ đồng là khoản vay dài hạn tại HDBank, gồm 340 tỷ đồng để thanh toán hợp đồng hợp tác kinh doanh và thi công xây dựng với CTCP Đầu tư Xây dựng Phát triển nhà Bảo Linh, gần 450 tỷ đồng để bổ sung vốn thực hiện dự án chung cư nhà ở xã hội thành phố vàng (Golden City) và 500 tỷ đồng góp vốn hợp tác kinh doanh với CTCP Tư vấn - Thương mại - Dịch vụ Địa ốc Hoàng Quân Mê Kông.
4 doanh nghiệp sạch nợ
Ở chiều ngược lại, 4 doanh nghiệp sạch nợ vay tại thời điểm 30/6/2024, gồm: Sonadezi Giang Điền S, Đô thị Từ Liêm N, Xây dựng Số 3 Hải Phòng P.
Ngoài ra, một số doanh nghiệp giảm mạnh dư nợ vay có thể kể đến như Tập đoàn Nam Mê Kông (HNX: VC3) giảm 71%, còn 121 tỷ đồng, chỉ chiếm 4% tổng tài sản; nợ vay của Khu Công nghiệp Nam Tân Uyên (UPCoM: NTC) còn khoảng 90%, giảm 67% so với đầu năm và chiếm 2% tổng tài sản. Hay Tập đoàn C.E.O cũng giảm 32% nợ vay, còn 563 tỷ đồng, do Công ty trả nợ khoảng 300 tỷ đồng khoản vay ngắn hạn tại BIDV.
Tỷ lệ nợ vay trên tổng tài sản là một trong những chỉ số quan trọng để đánh giá sức khỏe tài chính của doanh nghiệp. Nếu nợ vay cao nhưng hoạt động không hiệu quả sẽ gánh thêm khoản lãi khổng lồ hàng năm, bào mòn lợi nhuận của doanh nghiệp.
Theo thống kê, tại ngày 30/6/2024, 3 cái tên có tỷ lệ nợ vay chiếm trên 50% tổng tài sản là Đầu tư Văn Phú - INVEST , ghi nhận con số 6,219 tỷ đồng nợ vay, tăng 16% và chiếm 53% tổng tài sản.
Chi phí lãi vay tăng mạnh
Tổng chi phí lãi vay của 116 doanh nghiệp BĐS trong quý 2/2024 ở mức 9,081 tỷ đồng, tăng 34% so với cùng kỳ năm 2023 và đang có xu hướng tăng dần đều qua các quý.
Với dư nợ cao nhất toàn ngành, VIC và VHM có chi phí lãi vay cao nhất, nhì lần lượt là hơn 5,490 tỷ đồng, tăng 54%, chiếm 61% chi phí tài chính và gần 1,465 tỷ đồng, tăng 87%, chiếm 60% chi phí tài chính.
Ông lớn khu công nghiệp Bình Dương (BCM) cũng tăng 39% chi phí lãi vay, lên 374 tỷ đồng và chiếm 100% chi phí tài chính.
Thanh Tú
FILI
Dù thị trường bất động sản trong 6 tháng đầu năm 2024 đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất, nhưng kết quả kinh doanh của nhiều doanh nghiệp bất động sản nhà ở trên sàn vẫn đi lùi, thậm chí có doanh nghiệp còn lỗ cả trăm tỷ đồng.
Theo Bộ Xây dựng, thị trường bất động sản 6 tháng đầu năm 2024 đã có tín hiệu tích cực như mức độ quan tâm, tìm kiếm thông tin về bất động sản của khách hàng, nhà đầu tư tăng cao; lượng giao căn hộ chung cư, nhà ở riêng lẻ và đất nền có xu hướng tăng khi quý sau cao hơn quý trước và cao hơn cùng kỳ 2023. Nguồn cung bất động sản sau một thời gian dài còn hạn chế đang có dấu hiệu chuyển biến tích cực, hàng loạt dự án cũ được tái khởi động cùng với đó là mở bán dự án mới. Lãi suất ngân hàng giảm, các chủ đầu tư đưa ra nhiều chính sách có lợi cho người mua nhà đã tạo niềm tin khách hàng, thanh khoản trên thị trường.
Tuy vậy, cơ quan này cũng lưu ý dù thị trường bất động sản đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất, tuy nhiên, thị trường và các doanh nghiệp bất động sản vẫn đang phải tiếp tục đối diện với nhiều thách thức do ảnh hưởng của nhiều yếu tố bất lợi trong và ngoài nước.
Theo thống kê từ VietstockFinance, doanh thu thuần và lợi nhuận ròng của 78 doanh nghiệp bất động sản nhà ở trên sàn trong 6 tháng đầu năm 2024 lần lượt giảm 27% và 36% so với cùng kỳ, còn gần 64.3 ngàn tỷ đồng và hơn 15.5 ngàn tỷ đồng. Trong đó, có 57 doanh nghiệp có lãi, còn lại đều lỗ.
Chưa đến một nửa doanh nghiệp tăng trưởng lợi nhuận
Trong số doanh nghiệp lãi, CTCP Vinhomes tiếp tục đứng đầu với lãi ròng gần 11.7 ngàn tỷ đồng, song giảm 46% so với nửa đầu năm 2023. Lợi nhuận trong kỳ của VHM được đóng góp chính từ việc ghi nhận giao dịch bán lô lớn tại dự án Vinhomes Royal Island và tiếp tục bàn giao các dự án hiện hữu.
Top 10 doanh nghiệp BĐS nhà ở có lãi ròng lớn nhất 6 tháng đầu năm 2024 (Đvt: Tỷ đồng)Nguồn: VietstockFinance
Không chỉ có đứng thứ ba toàn ngành, lợi nhuận ròng của Tập đoàn Sunshine K trong 6 tháng đầu năm 2024 còn gấp gần 11 lần cùng kỳ, với 526 tỷ đồng. Động lực tăng trưởng chủ yếu đến từ doanh thu thuần đạt 2 ngàn tỷ đồng, gấp hơn 17 lần cùng kỳ.
Novaland lãi ròng 374 tỷ đồng nửa đầu năm, dù không quá ấn tượng nhưng cải thiện so với khoản lỗ hơn 1 ngàn tỷ đồng cùng kỳ. Một trong những sự kiện đáng chú ý nhất của NVL thời gian qua là khoản lỗ hơn 797 tỷ đồng từ thương vụ thoái vốn hết 99.98% vốn công ty con là CTCP Huỳnh Gia Huy - chủ đầu tư dự án NovaHills Mui Ne, giá chuyển nhượng xấp xỉ 2 tỷ đồng. Sau giao dịch, ông Lê Đình Tuấn đã trở thành Chủ tịch HĐQT kiêm đại diện pháp luật của Huỳnh Gia Huy. Ông Tuấn hiện là Thành viên HĐQT kiêm Phó Tổng Giám đốc CTCP Tập đoàn EverLand E.
CTCP Phát triển Đô thị Từ Liêm N bất ngờ lãi gấp hơn 145 lần cùng kỳ, đạt 401 tỷ đồng, qua đó góp mặt đầu tiên trong top 10 doanh nghiệp có mức tăng trưởng lợi nhuận cao nhất ngành. Kết quả này có được là nhờ doanh thu thuần và tài chính đều tăng đột biến sau khi Công ty phản ánh doanh thu bán sản phẩn đã thu đủ tiền của dự án 23ha Bãi Muối, tỉnh Quảng Ninh. Doanh thu gấp 7.3 lần đạt hơn 878 tỷ đồng, còn doanh thu tài chính gấp 456 lần đạt gần 12 tỷ đồng.
Trong nửa đầu năm, 57 doanh nghiệp có lợi nhuận chỉ có 21 doanh nghiệp tăng trưởng so cùng kỳ.
Sau NTL, doanh nghiệp xếp thứ hai về mức tăng lợi nhuận là Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Nhà và Đô thị Nam Hà Nội N với 41 tỷ đồng, gấp gần 51 lần cùng kỳ. NHA cho biết, sở dĩ có mức tăng này là hoạt động kinh doanh bất động sản chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu doanh thu kỳ này (hơn 79 tỷ đồng, chiếm 83% tổng doanh thu), trong khi kỳ trước chỉ đến từ hoạt động xây lắp và dịch vụ, đồng thời biên lãi gộp kinh doanh bất động sản cũng cao hơn nhiều lần so với hoạt động khác.
21 doanh nghiệp bất động sản có lãi ròng tăng trưởng trong 6 tháng đầu năm 2024 (Đvt: Tỷ đồng)Nguồn: VietstockFinance
Nhiều doanh nghiệp lớn lợi nhuận vẫn đi lùi
Nhiều ông lớn trong ngành xuất hiện trong danh sách 36 doanh nghiệp lãi giảm, có thể kể đến như Tổng CTCP Địa ốc Sài Gòn S, Tổng CTCP Đầu tư Phát triển Xây dựng , CTCP Phát triển Bất động sản Phát Đạt , CTCP Đầu tư Nam Long ,…
36 doanh nghiệp bất động sản có lãi ròng giảm trong 6 tháng đầu năm 2024 (Đvt: Tỷ đồng)Nguồn: VietstockFinance
Ghi nhận mức giảm nhiều nhất là SGR với 93%, lợi nhuận chỉ còn hơn 2 tỷ đồng. Quý 1 SGR lỗ gần 14 tỷ đồng, sang quý 2 lợi nhuận giảm 62%. Đáng chú ý doanh thu SGR gấp gần 2.7 lần cùng kỳ đạt gần 78 tỷ đồng. Tuy nhiên, quý 2 năm trước SGR có khoản lãi cho vay và chậm thanh toán trong nửa đầu năm hơn 38 tỷ đồng, trong khi năm nay chưa đến 600 triệu đồng. Theo đó, phần doanh thu thuần tăng thêm không đủ bù cho khoản sụt doanh thu tài chính.
Câu chuyện tương tự cũng xảy ra với DIG khi lợi nhuận 6 tháng đầu năm đi lùi 90%, chỉ còn hơn 9 tỷ đồng, chủ yếu là do khoản lỗ 117 tỷ đồng từ quý 1. Trong khi đó, quý 2 tăng đột biến nhờ chuyển nhượng căn hộ tại dự án Cap Saint Jacques (CSJ), chuyển nhượng nhà xây thô tại dự án Đại Phước và dự án Vị Thanh, qua đó lãi ròng quý 2 gấp đến 12 lần cùng kỳ với hơn 126 tỷ đồng, dù vậy vẫn không đủ để có kết quả nửa đầu năm tăng trưởng.
Cuối cùng là 21 doanh nghiệp lỗ, đáng chú ý nhất trong đó là CTCP Đầu tư LDG không chỉ có mức lỗ cao nhất ngành trong 6 tháng đầu năm mà còn là doanh nghiệp duy nhất âm doanh thu thuần. Nguyên nhân là giá trị bất động sản bị trả lại lên đến 316 tỷ đồng, trong khi doanh thu bán hàng xấp xỉ 156 tỷ đồng, dẫn tới doanh thu thuần âm hơn 149 tỷ đồng nửa đầu năm. Cộng với chi phí trong kỳ giảm không đáng kể nên LDG phải chịu lỗ ròng hơn 296 tỷ đồng. Đưa lỗ lũy kế tính tới cuối tháng 6 lên hơn 175 tỷ đồng.
21 doanh nghiệp BĐS nhà ở lỗ trong 6 tháng đầu năm 2024 (ĐVt: Tỷ đồng)Nguồn: VietstockFinance
CTCP Quốc Cường Gia Lai Q cũng đang thu hút sự chú ý trong thời gian qua. Ngoài việc Tổng Giám đốc Nguyễn Thị Như Loan bị bắt vào tháng 7 thì Công ty còn trải qua quý 2/2024 với khoản lỗ nặng nhất từ năm 2012 đến nay.
Doanh thu thuần quý 2 giảm 41%, chỉ còn hơn 26 tỷ đồng do thị trường bất động sản nói chung còn nhiều khó khăn. QCG cho biết quý 2 hàng năm vẫn chưa bước vào mùa mưa nên sản lượng điện khai thác còn thấp. Cùng với đó, cao su chỉ được đưa vào khai thác từ cuối tháng 5 dẫn đến doanh thu giảm so với cùng kỳ. Mặt khác, chi phí khấu hao và lãi vay hàng tháng không phụ thuộc vào sản lượng khai thác, dẫn đến giá vốn cao hơn doanh thu. Hệ quả là lỗ ròng hơn 16 tỷ đồng trong quý 2, kéo kết quả 6 tháng âm hơn 15 tỷ đồng.
Chỉ có 10 doanh nghiệp đạt trên một nửa kế hoạch năm sau 6 tháng
Với nhiều kết quả lỗ và lãi đi lùi, tỷ lệ thực hiện kế hoạch kinh doanh năm 2024 của đa số doanh nghiệp bất động sản nhà ở trong nửa đầu năm không mấy khả quan. Trong 57 doanh nghiệp có lãi thì chỉ có 10 doanh nghiệp thực hiện trên 50% mục tiêu năm sau 6 tháng.
Tỷ lệ thực hiện kế hoạch kinh doanh 2024 của 57 doanh nghiệp có lãi sau 6 thángNguồn: VietstockFinance
Ba doanh nghiệp gồm CTCP Đầu tư Phát triển Sài Gòn Co.op S, NTL và CTCP Địa ốc Sài Gòn Thương Tín đều vượt kế hoạch lợi nhuận năm. Trong đó, NTL vượt 57% kế hoạch nhờ tăng trưởng lợi nhuận đột biến. Còn SID và SCR đặt mục tiêu lợi nhuận khiêm tốn khi thấp hơn mức thực hiện của năm 2023.
Đối với PDR, tại ĐHĐCĐ thường niên 2024 hồi tháng 4, ban lãnh đạo đã lường trước mức thực hiện kế hoạch lợi nhuận chỉ đạt 12% trong nửa đầu năm. Chủ tịch HĐQT Nguyễn Văn Đạt cho biết, lợi nhuận của Công ty chủ yếu ghi nhận vào nửa cuối năm khi dự án trọng điểm là Bắc Hà Thanh dự kiến từ tháng 5-6 hoàn thành đóng tiền sử dụng đất và đủ điều kiện bán hàng. Theo kế hoạch, dự án sẽ bắt đầu bán hàng từ quý 2 và ghi nhận doanh thu, lợi nhuận vào hai quý cuối năm.
Hà Lễ
FILI
Bài dịch vụ
“Masan Consumer tiếp tục ghi nhận mức tăng trưởng hai con số cho cả doanh thu và lợi nhuận, đồng thời các nền tảng tiêu dùng khác cũng đạt mức sinh lời bền vững – WinCommerce đã mang về lợi nhuận trong tháng 6 và Masan MEATLife ghi nhận EBIT dương quý thứ hai liên tiếp. Chúng tôi tự tin sẽ hoàn thành kế hoạch lợi nhuận năm 2024, tăng trưởng trong cả ngắn hạn và trung hạn để tạo ra giá trị vượt trội cho cổ đông của công ty”, Tiến sĩ Nguyễn Đăng Quang - Chủ tịch CTCP Tập đoàn Masan chia sẻ.
Lãi tăng gần 400% trong quý 2/2024
Theo BCTC quý 2/2024 vừa được công bố, MSN ghi nhận 20,134 tỷ đồng doanh thu thuần, tăng hơn 8% so với mức 18,609 tỷ đồng trong quý 2/2023, nhờ kết quả kinh doanh khả quan ở các mảng kinh doanh tiêu dùng bán lẻ cốt lõi.
EBITDA đạt 3,823 tỷ đồng, tăng gần 21%. Kết quả tích cực này được thúc đẩy bởi sự phục hồi của TCB và MHT. Trong khi đó, tất cả các mảng kinh doanh tiêu dùng bán lẻ cốt lõi đều duy trì đà tăng trưởng lợi nhuận tích cực.
Lợi nhuận sau thuế Post-MI (Lợi nhuận sau thuế sau phân bổ cổ đông thiểu số) là 503 tỷ đồng, tăng gần 379% và cao hơn kết quả 419 tỷ đồng của cả năm 2023. Đây là thành quả của sự cải thiện xuyên suốt các mảng kinh doanh tiêu dùng bán lẻ, sự phục hồi của các hoạt động hoặc mảng không cốt lõi và chi phí tài chính ròng giảm 138 tỷ đồng.
Xét theo từng mảng, kinh doanh tiêu dùng bán lẻ của MSN duy trì đà tăng trưởng bền vững với sự phục hồi của các mảng không cốt lõi.
Với Masan Consumer Corporation (MSC), doanh thu đạt 7,387 tỷ đồng trong quý 2, tăng trưởng 14% so với cùng kỳ. Mức tăng trưởng này được đóng góp bởi ngành hàng thực phẩm tiện lợi, đồ uống và cà phê với mức tăng lần lượt gần 21%, gần 18% và 16%. MSC tiếp tục duy trì biên lợi nhuận gộp ở mức cao là 46.3%. Kết quả này có được nhờ vào các thương hiệu mạnh, tăng tốc chiến lược cao cấp hóa giúp có mức giá bán cao trong bối cảnh chi phí nguyên vật liệu thô thấp hơn ở ngành hàng thực phẩm tiện lợi. MSC đạt biên lợi nhuận sau thuế trước phân bổ cổ đông thiểu số (NPAT- Pre MI) ở mức 24.2%.
WinCommerce (WCM) ghi nhận doanh thu tăng trưởng hơn 9% so với cùng kỳ, đạt 7,844 tỷ đồng trên toàn mạng lưới. Đây là thành quả của công tác nâng cấp, cải tiến cửa hàng WiN (hướng đến người tiêu dùng ở khu vực thành thị) và WinMart+ Rural (phục vụ người tiêu dùng ở khu vực ở nông thôn). Hai mô hình cửa hàng này đạt hiệu quả vượt trội so với mô hình truyền thống với mức tăng trưởng LFL lần lượt là hơn 6% và gần 11% so với cùng kỳ.
Tăng trưởng LFL của WCM tăng tốc gần 7% trong quý 2 và gần 10% riêng trong tháng 6 nhờ vào lượng khách đến cửa hàng tăng. WCM ghi nhận lợi nhuận sau thuế dương trong tháng 6. Đây là dấu hiệu rõ ràng của một lộ trình gặt hái lợi nhuận bền vững trong thời gian tới.
Tính đến cuối tháng 6, WCM vận hành 3,673 điểm bán, mở 40 cửa hàng mới kể từ tháng 12/2023. Ban lãnh đạo thận trọng trong bối cảnh điều kiện kinh doanh còn nhiều bất định. WCM dự kiến sẽ đẩy nhanh tốc độ mở cửa hàng trong nửa cuối năm 2024.
Trong quý 2, WCM ghi nhận 172 tỷ đồng EBITDA, tăng hơn 11% so với cùng kỳ. Nếu loại trừ lợi nhuận một lần từ việc thí điểm phân phối sản phẩm tài chính trong năm 2023, EBITDA tăng 33% so với cùng kỳ năm trước.
Masan MEATLife (MML) ghi nhận EBIT tăng 105 tỷ đồng so với cùng kỳ. Đây là quý thứ hai liên tiếp MML đạt EBIT dương. Đóng góp tích cực vào kết quả này là doanh thu từ mảng thịt chế biến tăng lên nhờ những thuận lợi như thịt gà, thịt lợn tăng giá và chi phí thức ăn chăn nuôi giảm. MML tiếp tục sứ mệnh chuyển đổi và phát triển tối đa ngành thịt chế biến của Việt Nam bằng các sản phẩm thơm ngon, tốt cho sức khỏe, chất lượng cao, không phụ gia với hai “Love brand” là Ponnie và Heo Cao Bồi. Hai thương hiệu này đã đạt được xấp xỉ 50% thị phần trong thị trường sản phẩm xúc xích tiệt trùng.
Doanh thu thuần của Phúc Long Heritage (PLH) trong quý 2 tăng hơn 5% so với cùng kỳ năm ngoái, lên 391 tỷ đồng, nhờ đóng góp từ 15 cửa hàng mở mới từ quý 2/2023. Ban lãnh đạo tiếp tục thận trọng với 4 cửa hàng ngoài WCM được bổ sung vào hệ thống. PLH hiện có 163 cửa hàng trên toàn quốc. Doanh thu LFL hàng ngày của các cửa hàng PLH ngoài WCM tăng hơn 2% so với mức đáy trong quý 4/2023, báo hiệu nhu cầu dịch vụ ăn uống trong nước đang phục hồi.
Masan High-Tech Materials (MHT) ghi nhận EBIT cải thiện 193 tỷ đồng nhờ giá APT và đồng tăng. Thương vụ bán H.C. Starck Holding GmbH cho Mitsubishi Materials Corporation với giá 134.5 triệu USD dự kiến sẽ hoàn tất trước cuối năm 2024. Theo đó, MHT dự kiến sẽ ghi nhận khoản lãi một lần khoảng 40 triệu USD trong nửa cuối năm 2024 và được hưởng lợi từ lợi nhuận sau thuế tăng 20-30 triệu USD trong dài hạn. Số tiền thu được từ giao dịch sẽ được dùng để giảm nợ của MHT. Việc thoái vốn HCS giúp MHT được giải tỏa khỏi nghĩa vụ nợ của HCS tính đến quý 2/2024.
Techcombank (TCB) - công ty liên kết của Masan, đóng góp 1,236 tỷ đồng vào EBITDA trong quý 2, tương ứng mức tăng trưởng gần 39% so với cùng kỳ năm trước.
Kết quả kinh doanh quý 2 và lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 của MSNĐvt: Tỷ đồng
Nắm giữ gần 22,000 tỷ đồng tiền mặt
Tiền và tương đương tiền tăng lên 21,977 tỷ đồng trong quý 2/2024, so với 16,919 tỷ đồng vào quý 4/2023 do dòng tiền tự do và dòng tiền đến từ các hoạt động tài chính của doanh nghiệp được cải thiện.
Nợ ròng trên EBITDA 12 tháng gần nhất giảm xuống 3.3x, so với mức 3.9x của quý 4/2023. Công ty đã đạt mục tiêu tỷ lệ nợ ròng trên EBITDA dưới 3.5x.
Dòng tiền tự do 12 tháng gần nhất tăng lên 7,429 tỷ đồng trong quý 2/2024, tăng 71% so với cùng kỳ năm trước.
Một số chỉ tiêu chính về tài sản của MSNĐvt: Tỷ đồngNguồn: MSN
Dự kiến vượt mục tiêu năm 2024
Ghi nhận 1,425 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế Pre-MI và 607 tỷ đồng cho lợi nhuận sau thuế Post-MI trong nửa đầu năm 2024, MSN đã đạt hơn 60% kế hoạch cả năm theo kịch bản cơ sở được cổ đông phê duyệt vào đầu năm. Ban lãnh đạo MSN cho biết sẽ tiếp tục tối ưu hóa kết quả kinh doanh trong nửa cuối năm 2024 và dự kiến vượt mục tiêu cả năm với nhiều phát kiến chiến lược.
Các trọng tâm chiến lược bao gồm việc tiếp tục tập trung vào tăng trưởng lợi nhuận nhờ vào mảng kinh doanh tiêu dùng bán lẻ cốt lõi; tối ưu hóa chương trình Hội viên WiN để tạo ra giá trị cho doanh nghiệp và các thương hiệu đối tác của Masan; giảm đòn bẩy tài chính hơn nữa để cải thiện bảng cân đối kế toán và giảm chi phí tài chính; giảm sở hữu ở các mảng kinh doanh không cốt lõi trong khi vẫn duy trì chiến lược phân bổ vốn chặt chẽ.
Về từng mảng, MSC sẽ được đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng doanh thu trong nửa cuối năm 2024 bằng cách tiếp tục thực hiện các phát kiến chiến lược và cao cấp hóa, đồng thời luân chuyển các SKU hoạt động kém hiệu quả để tối ưu hóa lợi nhuận.
WCM tiếp tục tập trung vào mục tiêu đạt điểm hòa vốn lợi nhuận sau thuế bằng cách đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng LFL lên 8-9% so với cùng kỳ, đồng thời tăng tốc độ mở cửa hàng để đạt xấp xỉ 100 cửa hàng mới mỗi quý. WCM sẽ tiếp tục tăng cường vị thế ở khu vực nông thôn với mô hình WinMart+ Rural.
MML đầu tư thêm vào nguồn lợi nhuận dài hạn từ mảng thịt chế biến để đạt được lợi nhuận bền vững.
PLH cải thiện sự tăng trưởng LFL và tham gia vào chương trình hội viên WiN để nâng cao biên lợi nhuận.
Cuối cùng, MHT hoàn tất thương vụ bán HCS để giảm đòn bẩy tài chính và ghi nhận khoản lợi nhuận một lần, đồng thời tiếp tục tối ưu hóa chi phí và cải thiện hiệu quả hoạt động.
FILI
Nhãn trắng
Data API
Tiện ích Website
Công cụ thiết kế Poster
Chương trình Tiếp thị Liên kết
Giao dịch các công cụ tài chính như cổ phiếu, tiền tệ, hàng hóa, hợp đồng tương lai, trái phiếu, quỹ hoặc tiền kỹ thuật số tiềm ẩn mức độ rủi ro cao, bao gồm rủi ro mất một phần hoặc toàn bộ vốn đầu tư, và có thể không phù hợp với mọi nhà đầu tư.
Trước khi quyết định giao dịch các công cụ tài chính hoặc tiền điện tử, bạn cần hiểu đầy đủ về rủi ro và chi phí giao dịch trên thị trường tài chính, thận trọng cân nhắc đối tượng đầu tư, và tiến hành tư vấn chuyên môn cần thiết. Dữ liệu trên trang web này không nhất thiết là theo thời gian thực hay chính xác. Dữ liệu và giá cả trên trang web không nhất thiết là thông tin do bất kỳ sở giao dịch nào cung cấp, nhưng có thể được cung cấp bởi các nhà tạo lập thị trường. Bạn chịu trách nhiệm hoàn toàn về tất cả quyết kết giao dịch bạn đã thực hiện. Chúng tôi không chấp nhận bất cứ nghĩa vụ nào trước bất kỳ tổn thất hay thiệt hại nào xảy ra từ kết quả giao dịch của bạn, hoặc trước việc bạn dựa vào thông tin có trong trang web này.
Bạn không được phép sử dụng, lưu trữ, sao chép, hiển thị, sửa đổi, truyền hay phân phối dữ liệu có trên trang web này và chưa nhận được sự cho phép rõ ràng bằng văn bản của Trang web này. Tất cả các quyền sở hữu trí tuệ đều được bảo hộ bởi các nhà cung cấp và/hoặc sở giao dịch cung cấp dữ liệu có trên trang web này.