Cotizaciones
Noticias
Análisis
Usuario
24/7
Calendario económico
Educación
Datos
- Nombres
- Último
- Anterior
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A:--
P: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
Sin datos que coincidan
Gráficos Gratis para siempre
Charlar P&R con expertos Filtros Calendario económico Datos HerramientaMembresía CaracterísticasTendencias del mercado
Indicadores populares
Últimas perspecivas
Últimas perspecivas
Temas en Tendencia
En el mundo de la humanidad no habrá una declaración sin posición, ni un comentario sin propósito.
La inflación, los tipos de cambio y la economía dan forma a las decisiones políticas de los bancos centrales; Las actitudes y palabras de los funcionarios del banco central también influyen en las acciones de los operadores del mercado.
La economía está hoy en el centro de toda actividad. Los datos económicos y los cambios de indicadores, los ajustes de políticas y los modelos emergentes afectan las decisiones de los comerciantes.
Vea ideas comerciales y aprenda estrategias comerciales.
Columnistas Principales
Disfruta de emocionantes actividades, aquí mismo en FastBull.
Las últimas noticias de última hora y los acontecimientos financieros mundiales.
Cuento con 5 años de experiencia en análisis financiero, especialmente en aspectos de desarrollo macro y juicio de tendencias de mediano y largo plazo. Mi atención se centra principalmente en los acontecimientos de Oriente Medio, los mercados emergentes, el carbón, el trigo y otros productos agrícolas.
Entrenador y orador jefe de operaciones de BeingTrader, más de 8 años de experiencia en el mercado de divisas operando principalmente con XAUUSD, EUR/USD, GBP/USD, USD/JPY y petróleo crudo. Un comerciante y analista confiado que tiene como objetivo explorar diversas oportunidades y guiar a los inversores en el mercado. Como analista, busco mejorar la experiencia del operador apoyándolo con suficientes datos y señales.
Última actualización
Risk Warning on Trading HK Stocks
Despite Hong Kong's robust legal and regulatory framework, its stock market still faces unique risks and challenges, such as currency fluctuations due to the Hong Kong dollar's peg to the US dollar and the impact of mainland China's policy changes and economic conditions on Hong Kong stocks.
HK Stock Trading Fees and Taxation
Trading costs in the Hong Kong stock market include transaction fees, stamp duty, settlement charges, and currency conversion fees for foreign investors. Additionally, taxes may apply based on local regulations.
HK Non-Essential Consumer Goods Industry
The Hong Kong stock market encompasses non-essential consumption sectors like automotive, education, tourism, catering, and apparel. Of the 643 listed companies, 35% are mainland Chinese, making up 65% of the total market capitalization. Thus, it's heavily influenced by the Chinese economy.
HK Real Estate Industry
In recent years, the real estate and construction sector's share in the Hong Kong stock index has notably decreased. Nevertheless, as of 2022, it retains around 10% market share, covering real estate development, construction engineering, investment, and property management.
Hongkong, China
Vietnam·Ho Chi Minh
Dubai, UAE
Lagos, Nigeria
El Cairo, Egipto
Etiqueta blanca
API de datos
Complementos web
Programa de afiliados
Ver todo
Sin datos
No conectado
Inicia sesión para acceder a más funciones
Membresía FastBull
Todavia no
Comprar
Iniciar sesión
Registrarse
Hongkong, China
Vietnam·Ho Chi Minh
Dubai, UAE
Lagos, Nigeria
El Cairo, Egipto
Etiqueta blanca
API de datos
Complementos web
Programa de afiliados
5 ngân hàng sinh lời từ lãi suất trong quý 3
Top 5 ngân hàng dẫn đầu về NIM trong quý III/2024 gồm: VPBank (VPB), HDBank (HDB), MB (MBB), Techcombank (TCB) và KienlongBank (KLB). Đáng chú ý, KienlongBank đã thăng hạng thêm 16 bậc so với cùng kỳ.
Top 5 ngân hàng có NIM hiệu quả nhất quý III/2024
Thị trường hiện tại rất giống đoạn 2015-2016, VN-Index giằng co sau đó là bùng nổ?
Chứng khoán BSC cho rằng thị trường giai đoạn 2023-2025 sẽ khá tương đồng với giai đoạn 2015-2016, ngoài ra tăng trưởng lợi nhuận sau thuế 2025 sẽ chủ yếu đến từ hoạt động kinh doanh cốt lõi...
Trong báo cáo cập nhật triển vọng thị trường mới đây, dựa trên báo cáo tài chính Q2/2024 và Q3/2023, BSC cho rằng kết quả kinh doanh các doanh nghiệp dự kiến sẽ ghi nhận mức phục hồi đáng kể so với cùng kỳ 2023, ước mức tăng khoảng từ 16-20% so với cùng kỳ.
Kết quả này dựa trên mức nền thấp của một số ngành Q3/2023 gồm Ngân hàng, Bán lẻ, Hoá Chất, Tiện ích, Vật liệu xây dựng, Tài Nguyên cơ bản; Doanh thu tiếp tục cải thiện nhờ lượng đơn hàng phục hồi PMI tháng 8 duy trì ở mức 58,4 điểm, và biên lợi nhuận dự kiến phục hồi nhờ vào giá nguyên vật liệu đầu vào giảm đi kèm với sức mua dần phục hồi.
Bên cạnh đó, chi phí lãi vay sẽ ở mức thấp hơn cùng kỳ, điều này đã được phản ánh trong Q2/2024. Chi phí lỗ tỷ giá & chi phí tài chính khác ghi nhận mức tăng đột biến trong Q2/2024, tuy nhiên luỹ kế đến ngày 30/9/2024, tỷ giá chỉ ghi nhận mức 1,31% từ đầu năm so với mức 4,31% tại ngày 30/6/2024. Do đó, kỳ vọng các doanh nghiệp ghi nhận mức lỗ tỷ giá lớn trong Q2/2024 sẽ được ghi nhận lại mức lãi tỷ giá trong Q3/2024.
Thực tế theo số liệu từ FiinTrade, tính đến ngày 22/10/2024 đã có 433 doanh nghiệp niêm yết đại diện 19,2% vốn hóa toàn thị trường công bố kết quả kinh doanh quý 3, bao gồm 5/27 Ngân hàng, 28/35 công ty chứng khoán và 395/1483 doanh nghiệp Phi tài chính.
Tổng lợi nhuận sau thuế Q3/2024 của 433 doanh nghiệp tăng 28,3% so với cùng kỳ, thấp hơn mức tăng trong quý 2 trước đó tăng 42,2% chủ yếu do nền so sánh đã cao hơn. Tính chung 9 tháng năm 2024, lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp này đạt mức tăng 38,7% cao hơn mục tiêu cả năm tăng 16,2%. Với Ngân hàng, 5/27 Ngân hàng bao gồm TCB, SSB, LPB, PGB, và KLB cùng báo cáo lợi nhuận tăng trưởng cao so với cùng kỳ, đạt mức tăng chung là 37,8%.
So sánh tỷ suất sinh lời của thị trường và lãi suất gửi tiết kiệm, BSC nhận thấy điều kiện cần để hình thành xu hướng tăng trung và dài hạn thị trường đến từ tỷ suất sinh lời của thị trường chứng khoán hấp dẫn hơn các kênh đầu tư khác, và điều kiện đủ là EPS duy trì tốc độ tăng nhằm đảm bảo tỷ suất sinh lời kỳ vọng tiếp tục duy trì mức hấp dẫn, tương tự đã xảy ra thời điểm 2015-2016, 2020-2021.
BSC nhận thấy giai đoạn 2023-2025 sẽ khá tương đồng với giai đoạn 2015-2016, ngoài ra tăng trưởng lợi nhuận sau thuế 2025 sẽ chủ yếu đến từ hoạt động kinh doanh cốt lõi thay vì có sự đóng góp của các chi phí tài chính môi trường lãi suất cho vay giảm, và thanh lý các tài sản khác.
Ở giai đoạn 2015-2016, Vn-Index đi ngang suốt trong năm 2015 nhưng bước sang năm 2016 chỉ số tăng một mạch từ 542 điểm đầu năm đóng cửa năm ở vùng giá 672 điểm, tương ứng tăng 130 điểm.
Trong giai đoạn này, theo BSC, nhóm cổ phiếu vốn hoá lớn kỳ vọng sẽ tiếp tục duy trì hiệu suất vượt trội hơn nhóm Mid-small cap cho đến khi tăng trưởng lợi nhuận nhóm cổ phiếu vừa và nhỏ bắt kịp trong năm 2025. Khuyến nghị ưu tiên nhóm cổ phiếu vốn hoá lớn trong nửa đầu năm 2025 và nửa sau năm 2025 là cơ hội cho các cổ phiếu vừa & nhỏ.
Các ngân hàng Trung ương bắt đầu chu kỳ nới lỏng tiền tệ khi tăng trưởng kinh tế có dấu hiệu suy yếu dẫn đến sự đảo ngược dần dòng vốn sang các khu vực thị trường mới nổi có định giá và câu chuyện hấp dẫn cũng như giảm áp lực rủi ro tỷ giá với các nước khu vực này. Theo BSC, nhà đầu tư nên ưu tiên các cổ phiếu có vốn hoá lớn cho câu chuyện trên.
Trước đó, hồi tháng 10 như VnEconomy đề cập, ông Nguyễn Việt Đức – Giám đốc Kinh doanh Số, Công ty CP Chứng khoán VPBank cũng cho rằng thị trường hiện tại rất giống với uptrend thế kỷ gần nhất 2015.
"Năm 2015 câu chuyện Trung Quốc suy thoái, ảnh hưởng rất nhiều đến thị trường chứng khoán Việt Nam. Thời điểm đó, Mỹ cũng sợ suy thoái nhưng là suy thoái mềm. Đồng thời, câu chuyện nâng hạng thị trường cũng rất nổi. Tôi cảm giác những câu chuyện ở hiện tại cũng tương tự như vậy, tích lũy dần dần để bứt phá.
Nếu như năm 2015 tích lũy để 2016 bứt phát thì năm 2024 tích lũy để 2025 bứt phá, tháng 9/2025 kỳ vọng thị trường chứng khoán Việt Nam được nâng hạng", Giám đốc Kinh doanh Số, Công ty CP Chứng khoán VPBank kỳ vọng.
"Chiến thần" tăng trưởng: Báo cáo quý III hé lộ những ngôi sao mới
Tổng lợi nhuận sau thuế quý III/2024 của 433 doanh nghiệp tăng 28,3% so với cùng kỳ.
Tính đến ngày 22/10/2024 đã có 433 doanh nghiệp niêm yết (đại diện 19,2% vốn hóa toàn thị trường) công bố kết quả kinh doanh quý III, bao gồm 5/27 ngân hàng, 28/35 công ty chứng khoán và 395/1.483 doanh nghiệp phi tài chính.
Báo cáo của Fiintrade cho thấy, tổng lợi nhuận sau thuế quý III/2024 của 433 doanh nghiệp tăng 28,3% so với cùng kỳ, thấp hơn mức tăng trong quý II trước đó (+42,2% so với cùng kỳ năm trước) chủ yếu do nền so sánh đã cao hơn. Tính chung 9 tháng đầu năm 2024, lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp này đạt mức tăng 38,7% so với cùng kỳ, cao hơn mục tiêu cả năm 16,2%.
Với ngân hàng, 5/27 ngân hàng (bao gồm TCB, SSB, LPB, PGB, và KLB) cùng báo cáo lợi nhuận tăng trưởng cao so với cùng kỳ, đạt mức tăng bình quân là 37,8%. Tuy nhiên, lợi nhuận sau thuế giảm 10% so với quý trước chủ yếu do thu nhập từ lãi và ngoài lãi kém đi (TCB), chi phí hoạt động tăng lên (LPB). Một điểm đáng chú ý là tỉ lệ lãi và phí phải thu so với thu nhập lãi trong xu hướng tăng ở cả TCB và LPB.
Với chứng khoán, quý III là quý đáng thất vọng đối với ngành chứng khoán khi lợi nhuận sau thuế của 29/35 công ty chứng khoán giảm 18,3% so với cùng kỳ năm trước và giảm 18,8% so với quý trước, tuy nhiên kết quả này không quá bất ngờ trong bối cảnh thị trường lình xình với thanh khoản thấp trong giai đoạn này.
Với nhóm phi tài chính, nhóm có tăng trưởng vượt trội so với cùng kỳ là phân bón, chăn nuôi, vật liệu xây dựng, thép, lữ hành, cao su, ô tô & phụ tùng, vận tải thủy.
Ngược lại, lợi nhuận của nhóm than, nước, dược phẩm giảm so với cùng kỳ trong quý III (đảo chiều từ mức tăng trưởng cao trong quý II). Với công nghệ thông tin (bị chi phối bởi FPT), tăng trưởng lợi nhuận duy trì ổn định ở mức 22,7%.
Chi tiết từng doanh nghiệp, báo cáo của Fiintrade cho thấy nhiều doanh nghiệp đạt mức tăng trưởng lợi nhuận bằng lần trong quý III/2024, thậm chí đã “về đích” 2024 chỉ trong 3 quý đầu năm.
Dẫn đầu tăng trưởng lợi nhuận trên thị trường đang là Công ty Cổ phần Tập đoàn Dabaco Việt Nam (mã DBC) với mức tăng trưởng hơn 2.400% về lợi nhuận sau thuế so với cùng kỳ. Giá nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước và nhập khẩu tương đối ổn định, giá lợn hơi trên thị trường tăng giúp cho lợi nhuận của các công ty chăn nuôi tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu tăng mạnh trong khi các chi phí của công ty như chi phí tài chính, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp của Công ty chỉ tăng nhẹ đã tạo nên sự cộng hưởng tốt vào kết quả kinh doanh của Dabaco.
Đứng thứ hai trong bảng xếp hạng “chiến thần” tăng trưởng lợi nhuận quý III là Công ty Cổ phần Dịch vụ Ô tô Hàng Xanh (Haxaco, mã HAX) với mức tăng 983,1% so với cùng kỳ.
Haxaco cho biết, đi cùng sự phục hồi kinh tế và chính sách hỗ trợ kịp thời từ Chính phủ thông qua việc giảm lệ phí trước bạ ô tô sản xuất trong nước kể từ ngày 1/9-30/11/2024 đã kích thích nhu cầu sở hữu xe sang của người tiêu dùng tăng mạnh.
Hệ thống đại lý kinh doanh xe MG rộng khắp cả nước trực thuộc Haxaco Group đã có 12 Đại lý đang hoạt động hiệu quả góp phần tăng trưởng tăng trưởng nhanh, mạnh doanh số bán xe MG trong kỳ. Các yếu tố này đã tác động tích cực đến hiệu quả kinh doanh của Công ty.
Ngoài ra, dữ liệu từ Fiintrade cũng cho thấy nhiều doanh nghiệp vốn hóa lớn cũng đạt mức tăng trưởng hai chữ số trong quý III/2024.
Hé lộ bức tranh lợi nhuận quý III, xuất hiện ngân hàng báo lãi xấp xỉ 1 tỉ USD
Số liệu của Ngân hàng Nhà nước đến hết 30-9, tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng đạt hơn 9%.
Dẫn đầu con số lợi nhuận quý III/2024 của ngành ngân hàng tính đến chiều 22-10 phải kể tới là Techcombank, khi lãi trước thuế của ngân hàng này đạt tới 22.800 tỉ đồng (xấp xỉ 1 tỉ USD), tăng 33,5% so với cùng kỳ năm ngoái.
Techcombank tiếp tục thuộc nhóm dẫn đầu về tỉ lệ tiền gửi không kỳ hạn (CASA) đạt 40,5%, nhờ số dư CASA đạt mức cao kỷ lục 200.000 tỉ đồng. Tỉ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA) tiếp tục duy trì vị thế đầu ngành, đạt 2,6%.
Thu nhập từ hoạt động dịch vụ của Techcombank ghi nhận tăng 17,1%, trong đó mức tăng khả quan từ phí dịch vụ ngân hàng đầu tư đạt 2.541 tỉ đồng, tăng tới 110,6%.
Tại cuối tháng 9-2024, tính riêng ngân hàng, dư nợ tín dụng tăng trưởng 17,4% so với đầu năm là mức tăng cao so với mặt bằng chung của toàn ngành. Trong đó, tăng trưởng tín dụng cá nhân được thúc đẩy bởi mảng cho vay mua nhà, tăng 13,2% so với đầu năm lên mức cao kỷ lục 193.600 tỉ đồng.
Đáng chú ý, số dư trả trước hạn vay mua nhà giảm xuống mức thấp nhất trong một năm trở lại, trong khi khối lượng giải ngân trong quý tiếp tục đạt mức cao.
Một ngân hàng khác vừa báo lãi tăng mạnh so với cùng kỳ là SeABank, khi lợi nhuận trước thuế trong 9 tháng đầu năm 4.508 tỉ đồng, tăng 43% so với cùng kỳ năm ngoái.
CASA cũng là một trong những điểm sáng của ngân hàng này. Khi tính đến hết ngày 30-9-2024, số dư tại CASA đạt 20.677 tỉ đồng tăng 24% so với cuối năm ngoái và chiếm 13,46% huy động từ tiền gửi của khách hàng.
Bất chấp lãi suất cho vay bình quân giảm, tỉ lệ biên lãi ròng (NIM) của SeABank vẫn tăng lên 3,94%. Ngân hàng đang hoàn tất thủ tục theo quy định để chính thức hoàn thành tăng vốn điều lệ lên 28.350 tỉ đồng sau khi phát hành 329 triệu cổ phiếu để trả cổ tức năm 2023 và phát hành thêm 10,3 triệu cổ phiếu tăng vốn cổ phần từ nguồn vốn chủ sở hữu.
Số liệu của Ngân hàng Nhà nước đến hết 30-9, tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng đạt hơn 9%. Ghi nhận của phóng viên, một số ngân hàng có mức tăng trưởng tín dụng cao hơn mặt bằng chung.
Tại VIB, tăng trưởng tín dụng trong 9 tháng đầu năm ở mức 12%, cao hơn bình quân toàn ngành, đã đóng góp vào lợi nhuận của ngân hàng.
Theo đó, dư nợ tín dụng đạt hơn 298.000 tỉ đồng, tăng gần 12% so với đầu năm và riêng quý III, tăng trưởng tín dụng tại VIB đạt gần 7%, là một trong những ngân hàng bán lẻ có tăng trưởng tín dụng tốt nhất ngành. Huy động vốn tăng 8%, cao gần gấp đôi trung bình ngành, đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động tín dụng.
Dù vậy, sau 9 tháng đầu năm, VIB đạt tổng doanh thu 15.300 tỷ đồng, trong đó thu nhập lãi thuần giảm 9% so với cùng kỳ. Tính chung, lợi nhuận trước thuế của VIB sau 9 tháng đầu năm đạt 6.600 tỉ đồng, giảm 21% so với cùng kỳ. Đại diện ngân hàng này lý giải lợi nhuận giảm do hỗ trợ lãi suất, đầu tư mở rộng và trích lập dự phòng thận trọng…
Bức tranh lợi nhuận ở các ngân hàng vừa công bố kết quả kinh doanh quý III cũng bắt đầu có sự phân hóa.
Theo Báo cáo tài chính hợp nhất vừa công bố, lũy kế 9 tháng đầu năm, Kienlongbank ghi nhận lợi nhuận trước thuế hơn 760 tỉ đồng, tăng 19% so với cùng kỳ.
LPBank công bố lợi nhuận trước thuế trong 9 tháng đầu năm đạt hơn 8.800 tỉ đồng, 8tăng 139% so với cùng kỳ…
KienlongBank báo lợi nhuận lũy kế 9 tháng tăng 19% so với cùng kỳ, hoàn thành 95% kế hoạch năm
Ngân hàng TMCP Kiên Long (KienlongBank, UPCoM: KLB) vừa chính thức công bố Báo cáo tài chính hợp nhất (BCTC HN) quý 3 năm 2024, với lợi nhuận trước thuế 9 tháng đầu năm tăng 19 % so với cùng kỳ, hoàn thành 95% kế hoạch năm.
Theo Báo cáo tài chính hợp nhất, lãi trước thuế của KienlongBank trong quý 3/2024 đạt gần 209 tỷ đồng. Lũy kế 9 tháng đầu năm, hoạt động kinh doanh của ngân hàng ghi nhận đà tăng trưởng tích cực với lợi nhuận trước thuế hơn 760 tỷ đồng, tăng 19% so với cùng kỳ. Năm nay, KienlongBank đặt mục tiêu lợi nhuận trước thuế 800 tỷ đồng. Như vậy, kết thúc quý 3, ngân hàng đã hoàn thành đến 95% chỉ tiêu đặt ra.
Tại thời điểm ngày 30/9/2024, tổng tài sản hợp nhất và tổng huy động vốn của KienlongBank là 91,827 tỷ đồng và 82,533 tỷ đồng, tăng lần lượt 9,294 tỷ đồng và 11,114 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước. Cho vay khách hàng trong quý đạt 59,275 tỷ đồng, tăng hơn 14% so với cuối năm trước đó.
Chi phí hoạt động trong kỳ ghi nhận gia tăng, chủ yếu đến từ chiến lược tăng cường chính sách đãi ngộ cho cán bộ nhân viên, cũng như định hướng mở rộng quy mô kinh doanh đang được thúc đẩy trong năm 2024, bao gồm đẩy mạnh đầu tư hạ tầng công nghệ; cải tạo cơ sở vật chất tại các đơn vị; đồng thời tiếp tục ra mắt các sản phẩm, dịch vụ Số đáp ứng đa dạng nhu cầu khách hàng. Theo đó, hơn 100 máy giao dịch ngân hàng tự động thế hệ mới (STM) được KienlongBank lắp đặt trên cả nước, với mục tiêu mang tới những trải nghiệm đột phá cho khách hàng về giao dịch số, giảm thiểu tối đa các giao dịch truyền thống tại quầy.
Không chỉ vượt kế hoạch lợi nhuận, các chỉ tiêu về an toàn tiếp tục được ngân hàng quản trị chặt chẽ, đặc biệt là công tác giám sát và xử lý nợ xấu. Trong bối cảnh nợ xấu toàn ngành có xu hướng gia tăng, tỷ lệ nợ xấu trung bình 9 tháng của KienlongBank tiếp tục được kiểm soát dưới mức 2%, đảm bảo tuân thủ quy định của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và thấp hơn so với mặt bằng chung toàn ngành.
Đồng thời, để đảm bảo bộ đệm dự phòng vững chắc trước mọi diễn biến thị trường, KienlongBank vẫn chủ động tăng cường trích lập dự phòng nhằm nâng cao chất lượng tài sản, tích lũy nguồn lực xử lý rủi ro, tăng tỷ lệ bao phủ nợ xấu, ứng phó tích cực với những biến động khó lường trong tương lai.
KienlongBank cũng đã lên kế hoạch tổ chức ĐHĐCĐ bất thường vào cuối tháng 10 này nhằm chủ động đáp ứng sớm các yêu cầu theo Luật tổ chức tín dụng 2024. Đại hội dự kiến sẽ bầu bổ sung thêm thành viên HĐQT độc lập, thành viên BKS; thông qua một số văn bản, tờ trình, đảm bảo sự phát triển bền vững ổn định của ngân hàng trong giai đoạn 2023 - 2027.
Kết quả tăng trưởng lợi nhuận quý 2 và nửa đầu năm 2024 cho thấy, thu nhập lãi thuần vẫn là động lực chính của ngân hàng. Mảnh đất màu mỡ này cũng được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng trưởng tốt với dư địa tăng trưởng tín dụng còn lại khoảng gần 9% trong nửa cuối năm.
Nếu như quý 1/2024, tăng trưởng tín dụng èo uột, do cầu tín dụng yếu trong bối cảnh kinh tế toàn cầu tiếp tục gặp khó khăn cùng căng thẳng địa chính trị leo thang, làm gia tăng rủi ro và ảnh hưởng của yếu tố mùa vụ thì sang quý 2, tăng trưởng tín dụng đã khởi sắc nhờ sự phục hồi của nền kinh tế dẫn tới nhu cầu vay vốn để mở rộng sản xuất cũng như tiêu dùng tăng lên. Bên cạnh đó, ngành bất động sản đã qua cơn bĩ cực cũng góp phần thúc đẩy nhu cầu tín dụng.
Tính đến hết quý 2/2024, tín dụng đã tăng lên khoảng 6% so với cuối năm 2023, đạt mục tiêu theo chỉ đạo của Chính phủ là phấn đấu tăng từ 5-6%.
Lợi nhuận ngân hàng quý 2 “nảy nở” trên mảnh đất tín dụng màu mỡ
Nhờ tín dụng tăng tốc, thu nhập mảng này của ngân hàng cũng cải thiện. Đồng thời thu nhập phi tín dụng duy trì ổn định, góp phần thúc đẩy lợi nhuận nhà băng leo cao trong quý 2, dù áp lực chi phí hoạt động và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng vẫn đè nặng.
Nguồn: VietstockFinance
Thống kê của VietstockFinance cho thấy, nguồn thu chính từ lãi của 29 ngân hàng đạt 129,584 tỷ đồng, tăng 20% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ trọng đóng góp của thu nhập tín dụng trong tổng thu nhập của các ngân hàng cải thiện từ 76% lên hơn 78%.
Nguồn: VietstockFinance
Trong khi đó, thu nhập từ hoạt động phi tín dụng giảm tỷ lệ đóng góp vào tổng thu nhập - từ 24% xuống còn 22%. Dù vậy, xét về giá trị tuyệt đối, tổng thu nhập từ hoạt động phi tín dụng của các ngân hàng vẫn cải thiện nhẹ so với cùng kỳ, đạt hơn 35,750 tỷ đồng trong quý 2/2024, tăng 5%; chủ yếu nhờ lãi thuần dịch vụ tăng 9%, lên 17,228 tỷ đồng và kinh doanh ngoại hối, vàng tăng 36%, lên 7,384 tỷ đồng.
MB là ngân hàng có mức tăng trưởng thu nhập phi tín dụng cao với 73%. Kết quả này do trong kỳ nhà băng lãi đột biến từ hoạt động kinh doanh chứng khoán, đạt hơn 1.5 ngàn tỷ đồng, gấp 9 lần cùng kỳ.
Nguồn: VietstockFinance
Cả hoạt động tín dụng và phi tín dụng đều có thu nhập cải thiện, giúp tổng lợi nhuận trước thuế toàn ngành ngân hàng tăng 22% trong quý 2/2024, đạt 75,583 tỷ đồng; bất chấp chi phí hoạt động (53,054 tỷ đồng) và chi phí trích lập dự phòng rủi ro tín dụng (36,421 tỷ đồng) lần lượt tăng 7% và 18% so với cùng kỳ. Trong đó, NVB và KLB là 2 ngân hàng có chi phí dự phòng rủi ro tín dụng tăng gấp nhiều lần cùng kỳ, lần lượt ở mức 52 lần và 24.4 lần.
Nguồn: VietstockFinance
Trong quý 2/2024, đa số các nhà băng còn lại đều thu lãi cao hơn cùng kỳ.
Nguồn: VietstockFinance
Ở gam màu sáng hơn, 2 nhà băng có lãi trước thuế thuộc “top dưới”, nhưng NCB và BVB lại có tốc độ tăng trưởng lợi nhuận mạnh nhất hệ thống, lần lượt gấp 6.1 lần và 5.9 lần cùng kỳ năm trước.
Cán đích mục tiêu lợi nhuận cả năm trong quý 3, liệu có khả thi?
Nguồn: VietstockFinance
Nguồn: VietstockFinance
Lũy kế 6 tháng đầu năm, thu nhập lãi thuần của 30 ngân hàng đạt 276,879 tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước. Đồng thời, tổng thu nhập ngoài lãi của ngành ngân hàng cũng cải thiện 5%, lên 73,085 tỷ đồng.
Nguồn: VietstockFinance
Nguồn: VietstockFinance
Về phần chi phí, 30 ngân hàng ghi nhận tổng chi phí hoạt động 114,572 tỷ đồng và chi phí dự phòng rủi ro tín dụng 73,115 tỷ đồng, lần lượt tăng 5% và 6% so với cùng kỳ năm trước.
Nguồn: VietstockFinance
Có thể thấy, sự gia tăng nguồn thu từ lãi và ngoài lãi đã hợp lực nâng lợi nhuận trước thuế của nhóm ngân hàng lên mốc mới, ghi nhận con số 161,309 tỷ đồng, tăng 14% so với cùng kỳ.
Nguồn: VietstockFinance
Các ngân hàng có mức tăng trưởng lợi nhuận cao trong nửa đầu năm phải kể đến: BVBank (gấp 3.8 lần), LPBank (gấp 2.4 lần), VPBank (tăng 65%), HDBank (tăng 49%) và Techcombank (tăng 39%). Kết quả này đến từ nhiều yếu tố như tăng trưởng tín dụng được đẩy mạnh, tốc độ tăng trưởng chi phí thấp hơn tăng thu nhập lãi thuần. Đồng thời, ngân hàng cũng lạc quan hơn trong việc trích lập dự phòng và có nguồn thu ngoài lãi cao đột biến.
Nguồn: VietstockFinance
Không quá bất ngờ khi BVB là ngân hàng có tỷ lệ thực hiện mục tiêu lợi nhuận cao đột biến so với mặt bằng chung nhờ dẫn đầu tốc độ tăng trưởng lợi nhuận trong quý đầu tiên và giữ ngôi á quân trong quý 2.
Theo đó, với tham vọng lợi nhuận trước thuế tăng đến 178% so với mức nền thấp của năm 2023, BVB đạt được 76% kế hoạch, dù chỉ mới đi qua nửa chặng đường năm. Việc BVB có thể cán đích mục tiêu lợi nhuận năm sớm nhất chỉ trong quý 3 có khả năng xảy ra nếu nhà băng này tiếp tục duy trì đà tăng trưởng lợi nhuận tính bằng lần như 2 quý đầu năm.
Cuộc đua lợi nhuận ngân hàng chưa có nhiều “gay cấn”
Nguồn: VietstockFinance
Tương tự bảng xếp hạng top 10 lợi nhuận ngân hàng trong quý đầu năm 2024, thứ hạng lợi nhuận của các nhà băng sau quý 2 vẫn không biến động.
Trong đó, dù lợi nhuận ông lớn ngân hàng quốc doanh Vietcombank chỉ nhích 2% ở nửa đầu năm, nhưng vẫn bỏ xa các ngân hàng khác với mức lãi 20,835 tỷ đồng, tiếp tục đứng nhất bảng.
Tiếp nối đà tăng lãi quý 1, Techcombank có thêm quý thứ 2 trong năm tăng lãi, giúp giữ vững ngôi á quân lợi nhuận, đạt 15,628 tỷ đồng.
Có tốc độ tăng lợi nhuận chậm hơn Techcombank, BIDV theo liền sau với thành tích 15,549 tỷ đồng.
Lợi nhuận ngân hàng 2024 dâng theo đà tăng nhu cầu vốn
Theo Agriseco Research, thu nhập lãi thuần của ngành ngân hàng cả năm 2024 sẽ tăng trưởng tốt khi tín dụng được đẩy mạnh với dư địa tăng trưởng còn lại là khoảng 9% trong nửa cuối năm 2024. Các yếu tố giúp tăng trưởng tín dụng đến từ mặt bằng lãi suất thấp sẽ hỗ trợ tiến độ giải ngân cho vay các doanh nghiệp sản xuất; Các chỉ số vĩ mô có dấu hiệu khởi sắc, thể hiện qua số liệu PMI, kim ngạch xuất nhập khẩu, thị trường bất động sản ấm lên… cũng như các chính sách, biện pháp hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng tín dụng của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước.
KBSV Research cũng chỉ ra những dấu hiệu khởi sắc trong các tháng cuối quý 2 với tín dụng tăng trưởng tốt hơn và các chỉ số vĩ mô có sự cải thiện theo chiều hướng tích cực. KBSV dự báo tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế sẽ hoàn thành kế hoạch 15% khi tiếp tục triển khai chủ trương duy trì mặt bằng lãi suất cho vay thấp để hỗ trợ kinh tế hồi phục.
“Động lực tăng trưởng tín dụng trong nửa cuối năm còn được đóng góp nhiều hơn từ phân khúc khách hàng cá nhân và thị trường bất động sản tiếp tục đà hồi phục sau những nỗ lực tháo gỡ vấn đề pháp lý của Chính phủ”, KBSV nêu.
Tương tự, BETA Research kỳ vọng tăng trưởng tín dụng tiếp tục cải thiện trong nửa cuối năm 2024 với động lực từ nhu cầu tín dụng cá nhân hồi phục ở nhu cầu tiêu dùng và mua nhà. Bên cạnh đó là nhu cầu mở rộng sản xuất của doanh nghiệp sản xuất được duy trì khi xuất khẩu có nhiều cải thiện và nhu cầu nhập hàng từ các nước lớn; thị trường bất động sản dần hồi phục và sôi động hơn vào nửa cuối năm 2024.
Khang Di
FILI
Xu hướng NIM của hệ thống ngân hàng
Nhóm ngân hàng chuyên cho vay cá nhân gặp khó khăn trong việc duy trì tăng trưởng tín dụng, phần lớn do sự phục hồi chậm của tiêu dùng. Điều này dẫn đến NIM của nhóm giảm mạnh so với năm trước và đi ngang ở mức 4,31% trong quí 2.
Biên lãi ròng (NIM) của hệ thống ngân hàng đã sụt giảm trong suốt hai năm qua và đã bắt đầu tạo đáy, dựa vào báo cáo kết quả kinh doanh được công bố cuối quí 2 vừa rồi. NIM đóng một vai trò quan trọng đối với việc đánh giá mức độ sinh lời của hệ thống ngân hàng và nó cũng thể hiện rõ những thách thức mà hệ thống ngân hàng Việt Nam đang đối mặt trong nỗ lực duy trì tăng trưởng tín dụng để hỗ trợ cho nền kinh tế.
Cuối tháng 6-2024, tăng trưởng tín dụng đạt 6,1%, hoàn thành chỉ tiêu đề ra cho nửa đầu năm 2024. Kết quả kinh doanh của ngành ngân hàng trong quí 2-2024 diễn biến tích cực, với lợi nhuận trước thuế tăng 22,6% so với cùng kỳ năm trước và thu nhập lãi thuần toàn ngành tăng 19,6%. Tuy nhiên, NIM của ngành đã liên tục giảm từ mức đỉnh vào cuối năm 2022. Theo khảo sát về xu hướng tăng trưởng tín dụng trong quí 3-2024, các tổ chức tín dụng dự kiến sẽ tiếp tục giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ người dân và doanh nghiệp. Điều này tạo áp lực lớn cho các ngân hàng khi họ phải vừa đạt được chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng, vừa cân đối chi phí đầu vào, trong bối cảnh huy động vốn trong nền kinh tế tăng chậm, chỉ tăng 0,37% đến tháng 5-2024 so với cuối năm trước.
Động lực tăng trưởng tín dụng hiện tại cho thấy nhiều điểm tương đồng với năm 2023 khi phần lớn các ngân hàng chuyển hướng tập trung vào cho vay các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn, trong khi cho vay bán lẻ đang gặp nhiều khó khăn trước sức cầu yếu của thị trường. Xét về khả năng sinh lời, cho vay tiêu dùng hộ gia đình thường mang lại biên lợi nhuận cao hơn so với cho vay bán buôn dành cho các doanh nghiệp lớn. Sự tăng trưởng chậm của mảng cho vay bán lẻ cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến NIM.
NIM có dấu hiệu tạo đáy nhưng vẫn phân hóa
Trong quí 2-2024, lãi suất huy động 12 tháng của các ngân hàng gốc quốc doanh đạt mức 4,68%, trong khi nhóm ngân hàng tư nhân lớn như MBBank, Techcombank, ACB và VPBank dao động từ 4,5-5%, thấp hơn so với mức dao động 6-8% cùng kỳ năm trước. Mặt khác, lãi suất cho vay đầu ra cũng giảm mạnh tương ứng. Theo khảo sát của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), vào tháng 6-2023, lãi suất cho vay bình quân của các ngân hàng thương mại trong nước đối với các khoản vay còn dư nợ dao động từ 9,4-11,4%/năm, nhưng đến năm 2024 mức lãi suất này đã giảm xuống còn 7,3-9,5%/năm.
Trong bối cảnh chi phí đầu vào và đầu ra đều giảm, NIM của ngành tiếp tục xu hướng giảm. Ước tính từ 27 ngân hàng thương mại niêm yết cho thấy NIM trong quí 1-2024 giảm xuống 3,4% từ mức 3,73% cùng kỳ năm trước, và chỉ cải thiện nhẹ lên 3,41% trong quí 2 vừa rồi. Dù thu nhập lãi thuần tăng 19,6% so với cùng kỳ, nhưng mức tăng trưởng bốn quí liên tiếp chỉ đạt 7,2%. Sự suy giảm NIM, bất kể tăng trưởng tín dụng nhanh, phản ánh áp lực từ lãi suất cho vay. Bên cạnh đó, khó khăn trong tăng trưởng tín dụng bán lẻ, vốn mang lại biên lãi cao hơn, đã gây trở ngại lớn cho việc phục hồi NIM về mức cao như trong giai đoạn 2021 và nửa đầu năm 2023.
Các ngân hàng với chiến lược kinh doanh khác nhau đã ghi nhận những diễn biến khác nhau về NIM. Theo dữ liệu của 27 ngân hàng thương mại niêm yết, có thể phân chia thành bốn nhóm dựa trên quy mô và tệp khách hàng: nhóm quốc doanh, nhóm chuyên cho vay cá nhân, nhóm chuyên cho vay doanh nghiệp, và nhóm khác. Trong quí 2, các ngân hàng quốc doanh đã nỗ lực đẩy mạnh tín dụng, nhưng NIM của nhóm này vẫn giảm từ 2,82% trong quí 1 xuống còn 2,78%. Dù sở hữu nguồn vốn giá rẻ và chiếm từ 50-60% lượng tiền gửi không kỳ hạn (CASA) trong ngành, lãi suất cho vay thấp đã khiến NIM của nhóm này luôn ở mức trung bình ngành.
Đối với các ngân hàng thương mại tư nhân, nhóm chuyên cho vay doanh nghiệp ghi nhận mức NIM cải thiện từ 4,01% trong quí 1 lên 4,06% trong quí 2-2024. Nhóm này được hưởng lợi từ dư địa tăng trưởng tín dụng dồi dào kể từ năm 2023, giúp thu nhập lãi tăng và duy trì NIM ổn định. Về chi phí vốn, những ngân hàng phát triển hệ sinh thái khách hàng doanh nghiệp cũng có tỷ lệ CASA tốt hơn, giúp giảm chi phí huy động vốn.
Trong khi đó, nhóm ngân hàng chuyên cho vay cá nhân gặp khó khăn trong việc duy trì tăng trưởng tín dụng, phần lớn do sự phục hồi chậm của tiêu dùng. Điều này dẫn đến NIM của nhóm giảm mạnh so với năm trước và đi ngang ở mức 4,31% trong quí 2.
Nhóm ngân hàng khác, với quy mô tài sản nhỏ hơn, không có lợi thế trong việc thu hút nguồn vốn giá rẻ và tăng trưởng tín dụng thấp hơn, chỉ đạt 6,09%, thấp hơn mức trung bình 8% của toàn ngành. Tuy nhiên, nhóm này là nhóm duy nhất có NIM phục hồi tích cực, từ 2,27% trong quí 1 lên 2,41% trong quí 2-2024. Mức phục hồi này chủ yếu do YEA (tỷ suất sinh lời trên tài sản sinh lãi) giảm từ 8,51% xuống 7,93% và COF (chi phí vốn) giảm mạnh từ 6,48% xuống 5,72%. Mặc dù không có lợi thế về CASA, chi phí vốn của nhóm được cải thiện nhờ lãi suất huy động giảm sâu và việc tăng gần 140 lần các khoản nợ vay Chính phủ và NHNN so với quí trước, hưởng lợi từ lãi suất điều hành thấp.
Mức NIM phân hóa giữa các ngân hàng
NIM của các ngân hàng có sự phân hóa rõ rệt, tùy thuộc vào chiến lược tệp khách hàng của từng nhóm, và ngay trong cùng một nhóm NIM cũng khác nhau giữa các ngân hàng, phản ánh câu chuyện kinh doanh riêng của mỗi ngân hàng.
Các ngân hàng gốc quốc doanh hiện đang chịu áp lực giảm NIM. Việc đẩy mạnh cho vay khách hàng hiện hữu giúp các ngân hàng này đạt chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng nhanh trong quí 2 với rủi ro thấp hơn. Vietcombank cũng đã chuyển hướng sang cho vay các doanh nghiệp FDI có sức khỏe tài chính tốt và dòng tiền ổn định. Tuy nhiên, do rủi ro thấp và để duy trì mức lãi suất cho vay cạnh tranh so với các ngân hàng nước ngoài, nhóm khách hàng này có mức biên lãi suất cho vay thấp.
Đáng chú ý, dù trước đây Vietcombank luôn duy trì NIM cao hơn khoảng 0,3-0,5 điểm phần trăm so với VietinBank và BIDV nhờ danh mục cho vay tập trung hơn vào nhóm bán lẻ, nhưng gần đây, việc đẩy mạnh tín dụng bán buôn để tăng trưởng tín dụng tổng thể đã khiến Vietcombank phải hy sinh một phần lợi nhuận ngắn hạn và có mức NIM đi ngang so với BIDV và VietinBank.
Các ngân hàng chuyên cho vay doanh nghiệp có khả năng duy trì NIM ổn định. Mặc dù các ngân hàng đã phải duy trì lãi suất cho vay thấp từ năm 2023 đến nay, xu hướng tăng trưởng tín dụng doanh nghiệp gần đây đã thúc đẩy thu nhập lãi của nhóm này cao hơn mức trung bình ngành. Thêm vào đó, tỷ lệ tiền CASA cao giúp các ngân hàng trong nhóm tối ưu hóa chi phí vốn, đạt được NIM tốt hơn bất chấp lãi suất đầu ra thấp hiện tại.
HDBank đứng đầu nhóm với mức NIM là 5,4%. Tuy nhiên, một số ngân hàng trong nhóm đã giảm NIM để thúc đẩy tăng trưởng tín dụng từ đầu năm, với mức tăng trưởng từ 10-15%. LPBank ghi nhận NIM thấp nhất trong nhóm, trong khi MBBank giảm 0,15 điểm phần trăm còn khoảng 4,51%, và MSB giảm 0,18 điểm phần trăm xuống 3,69% trong quí 2.
Đối với các ngân hàng chuyên cho vay cá nhân, việc duy trì NIM trở nên ngày càng thách thức. Các ngân hàng với tỷ lệ cho vay cá nhân cao từ 60-90% như ACB, Sacombank và VIB đã tiếp tục ghi nhận sự giảm sút NIM trong quí 2. Trong đó, VIB ghi nhận mức giảm mạnh nhất, với NIM giảm gần 0,3 điểm phần trăm so với quí trước, đạt 4,11% trong quí 2.
Ngược lại, TPBank và VPBank là hai ngân hàng duy nhất trong nhóm cải thiện NIM nhờ chiến lược tăng dư nợ cho các doanh nghiệp từ đó giúp cải thiện CASA, với mức NIM lần lượt là 4,13% và 5,69%. Tỷ trọng cho vay doanh nghiệp của TPBank và VPBank đã tăng nhẹ từ khoảng 47% cuối năm 2023 lên 50% trong quí 2-2024, tương đương với việc gia tăng dư nợ thêm gần 9.300 tỉ đồng tại TPBank và 47.300 tỉ đồng tại VPBank cho khách hàng doanh nghiệp.
Trái ngược với xu hướng giảm NIM ở phần lớn các ngân hàng lớn, nhóm ngân hàng khác lại chứng kiến sự cải thiện rõ rệt về NIM, với 80% ngân hàng trong nhóm này ghi nhận mức NIM tốt hơn so với quí 1. Đặc biệt, các ngân hàng có sự gia tăng dư nợ mạnh mẽ trong quí 2 cũng là những ngân hàng có mức cải thiện NIM đáng kể.
Cụ thể, NIM của NAB đã tăng 0,2 điểm phần trăm lên 3,58%, EIB tăng 0,56 điểm phần trăm lên 3,17%. Ngân hàng Quốc dân (NCB) hiện có mức NIM thấp nhất toàn hệ thống, chỉ đạt 0,06%. Bên cạnh việc gia tăng vay từ NHNN, việc đẩy mạnh tín dụng đã giúp VietBank tăng thu nhập lãi thuần lên 80% và KLB tăng gần 50% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, việc tăng quá nhanh thu nhập lãi thuần trong thời gian ngắn cũng đi kèm mức rủi ro nợ xấu khó lường.
Etiqueta blanca
API de datos
Complementos web
Creador de carteles
Programa de afiliados
El riesgo de pérdida en el comercio de activos financieros como acciones, divisas, materias primas, futuros, bonos, ETF o criptomonedas puede ser considerable. Puede sufrir una pérdida total de los fondos que deposita con su corredor. Por lo tanto, debe considerar cuidadosamente si dicha negociación es adecuada para usted tomando en cuenta sus circunstancias y recursos financieros.
No se debe considerar invertir sin llevar a cabo, su propia diligencia de manera minuciosa o consultar con sus asesores financieros. Nuestro contenido web puede no ser adecuado para usted, ya que no conocemos su situación financiera ni sus necesidades de inversión. Es posible que nuestra información financiera tenga latencia o contenga inexactitudes, por lo que usted debe ser completamente responsable de cualquiera de sus transacciones y decisiones de inversión. La empresa no se hará responsable de su capital perdido.
Sin obtener el permiso del sitio web, no se le permite copiar los gráficos, textos o marcas comerciales del sitio web. Los derechos de propiedad intelectual sobre los contenidos o datos incorporados a este sitio web pertenecen a sus proveedores y comerciantes de intercambio.