Cotizaciones
Noticias
Análisis
Usuario
24/7
Calendario económico
Educación
Datos
- Nombres
- Último
- Anterior
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A:--
P: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
Sin datos que coincidan
Gráficos Gratis para siempre
Charlar P&R con expertos Filtros Calendario económico Datos HerramientaMembresía CaracterísticasTendencias del mercado
Indicadores populares
Últimas perspecivas
Últimas perspecivas
Temas en Tendencia
La inflación, los tipos de cambio y la economía dan forma a las decisiones políticas de los bancos centrales; Las actitudes y palabras de los funcionarios del banco central también influyen en las acciones de los operadores del mercado.
En el mundo de la humanidad no habrá una declaración sin posición, ni un comentario sin propósito.
La economía está hoy en el centro de toda actividad. Los datos económicos y los cambios de indicadores, los ajustes de políticas y los modelos emergentes afectan las decisiones de los comerciantes.
Vea ideas comerciales y aprenda estrategias comerciales.
Columnistas Principales
Disfruta de emocionantes actividades, aquí mismo en FastBull.
Las últimas noticias de última hora y los acontecimientos financieros mundiales.
Cuento con 5 años de experiencia en análisis financiero, especialmente en aspectos de desarrollo macro y juicio de tendencias de mediano y largo plazo. Mi atención se centra principalmente en los acontecimientos de Oriente Medio, los mercados emergentes, el carbón, el trigo y otros productos agrícolas.
Entrenador y orador jefe de operaciones de BeingTrader, más de 8 años de experiencia en el mercado de divisas operando principalmente con XAUUSD, EUR/USD, GBP/USD, USD/JPY y petróleo crudo. Un comerciante y analista confiado que tiene como objetivo explorar diversas oportunidades y guiar a los inversores en el mercado. Como analista, busco mejorar la experiencia del operador apoyándolo con suficientes datos y señales.
Última actualización
Risk Warning on Trading HK Stocks
Despite Hong Kong's robust legal and regulatory framework, its stock market still faces unique risks and challenges, such as currency fluctuations due to the Hong Kong dollar's peg to the US dollar and the impact of mainland China's policy changes and economic conditions on Hong Kong stocks.
HK Stock Trading Fees and Taxation
Trading costs in the Hong Kong stock market include transaction fees, stamp duty, settlement charges, and currency conversion fees for foreign investors. Additionally, taxes may apply based on local regulations.
HK Non-Essential Consumer Goods Industry
The Hong Kong stock market encompasses non-essential consumption sectors like automotive, education, tourism, catering, and apparel. Of the 643 listed companies, 35% are mainland Chinese, making up 65% of the total market capitalization. Thus, it's heavily influenced by the Chinese economy.
HK Real Estate Industry
In recent years, the real estate and construction sector's share in the Hong Kong stock index has notably decreased. Nevertheless, as of 2022, it retains around 10% market share, covering real estate development, construction engineering, investment, and property management.
Hongkong, China
Vietnam·Ho Chi Minh
Dubai, UAE
Lagos, Nigeria
El Cairo, Egipto
Etiqueta blanca
API de datos
Complementos web
Programa de afiliados
Ver todo
Sin datos
No conectado
Inicia sesión para acceder a más funciones
Membresía FastBull
Todavia no
Comprar
Iniciar sesión
Registrarse
Hongkong, China
Vietnam·Ho Chi Minh
Dubai, UAE
Lagos, Nigeria
El Cairo, Egipto
Etiqueta blanca
API de datos
Complementos web
Programa de afiliados
Có lo ngại chất lượng tài sản ngân hàng?
Các ngân hàng đang sử dụng mọi nguồn vốn để cung ứng tín dụng, là các giải pháp tạm thời để kích thích nền kinh tế, nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro nếu không kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng..
Ngành ngân hàng cho vay ra nền kinh tế nhiều hơn số dư huy động. Một số ngân hàng nhỏ có thể gặp thách thức về chất lượng tài sản…
Theo Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú, năm 2025, ngành ngân hàng đặt chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng 16%, tương đương sẽ có thêm 2,5 triệu tỷ đồng được bơm ra nền kinh tế. Hiện quy mô GDP cả nước 12 triệu tỷ đồng trong khi dư nợ tín dụng đạt gần 16 triệu tỷ, chiếm tương đương 135% GDP. Đây là tỷ lệ nợ dư nợ tín dụng trên quy mô GDP cao và mục tiêu mở rộng tín dụng để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế từ 8-10%, là nhiệm vụ nặng nề với ngành ngân hàng.
Chia sẻ tại hội thảo về chủ đề sử dụng do báo Tuổi trẻ tổ chức cuối tuần qua, Phó Thống đốc cho biết, hiện ngành ngân hàng cho vay ra nền kinh tế nhiều hơn số dư huy động. Tuy nhiên như nhiều Phó Thống đốc khẳng định, tổng nguồn vốn ngành ngân hàng cho vay ra nền kinh tế không chỉ dựa trên duy nhất nguồn vốn huy động, còn từ vốn tự có, vốn điều lệ, vốn tái cấp vốn từ Ngân hàng Nhà nước…
Theo đó, năm nay, Phó Thống đốc khẳng định ngành ngân hàng sẽ tập trung vốn vào các lĩnh vực ưu tiên, đặc biệt có các chính sách thúc đẩy mạnh mẽ cho tín dụng tiêu dùng. Cũng do đó, mặc dù lãi suất điều hành ổn định xuyên suốt 2 năm qua, song vẫn có những biến động theo quan hệ cung cầu và tác động của các biến số vĩ mô khác. Thị trường có nhiều ngân hàng nên không thể có 1 mức lãi suất giống nhau. Việc một vài nhà băng nhỏ thời gian qua tăng lãi suất là vì cần vốn để giải ngân tín dụng, ông Đào Minh Tú nêu.
Trên thực tế, năm 2024, theo ghi nhận của VIS Rating, ngành ngân hàng vẫn tồn tại rủi ro thanh khoản ở mức cao đối với các ngân hàng nhỏ do gia tăng huy độngnguồn vốn thị trường ngắn hạn để bổ sung cho tăng trưởng cho vay.
Theo hãng tín nhiệm thống kê, tỷ lệ tiền gửi CASA/tổng dư nợ cho vay của ngành duy trì ổn định ở mức 21% so với năm trước, trong đó các ngân hàng lớn (ví dụ: TCB, VCB, CTG) cải thiện mạnh nhất nhờ vào mạng lưới chi nhánh rộng lớn và năng lực chuyển đổi số. Các ngân hàng lớn (ví dụ: BID, VCB, HDB, TCB) cũng đã đa dạng hóa các nguồn huy động vốn và cam kết cho vay bền vững trong các kế hoạch chiến lược của họ thông qua việc phát hành khung trái phiếu xanh và bền vững và/hoặc phát hành trái phiếu.
Rủi ro thanh khoản của các ngân hàng nhỏ (ví dụ: ABB, VAB, SGB) tăng lên so với một năm trước đó, do gia tăng sử dụng nguồn vốn vay liên ngân hàng ngắn hạn trong bối cảnh tăng trưởng tiền gửi chậm lại.
VIS Rating cũng thống kê trong năm 2024, các ngân hàng tại Việt Nam đã tăng phát hành trái phiếu tăng vốn cấp 2 lên 92 nghìn tỷ đồng, tăng 18% so với năm trước để hỗ trợ tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ hơn và duy trì tuân thủ các quy định về tỷ lệ an toàn vốn.
Trong đó, 55% trái phiếu tăng vốn cấp 2 mới được phát hành bởi các ngân hàng quốc doanh (ví dụ: Agribank, BID, CTG) do việc khấu trừ vốn cấp 2 của các ngân hàng này. Một số ngân hàng quy mô lớn và vừa (ví dụ: MBB, HDB) đã thúc đẩy việc phát hành trái phiếu tăng vốn cấp 2 để đáp ứng sự gia tăng tài sản có trọng số rủi ro.
Mặc dù đánh giá triển vọng tín nhiệm của ngành ngân hàng sẽ dần tích cực hơn trong 2025, song ông Phan Duy Hưng, CFA, MBA – Giám đốc – Chuyên gia phân tích cao cấp, VIS Rating cho rằng, ở các ngân hàng quy mô nhỏ và một vài ngân hàng quy mô vừa có thể phải đối mặt với nhiều thách thức trong việc cải thiện khả năng sinh lời để tăng trích lập dự phòng rủi ro và giải quyết các vấn đề về chất lượng tài sản, do sự hồi phục không đồng đều của thị trường bất động sản, cạnh tranh cho vay và chi phí tiền gửi cao hơn trong bối cảnh áp lực tỷ giá.
Tỷ lệ thanh khoản của các ngân hàng nhỏ giảm đáng kể.
Chia sẻ tại một hội thảo, ông Ivan Tan – CEO S&P Global Ratings cũng nhận định, sự phục hồi của thị trường bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp có thể tiếp tục, nhờ vào triển vọng kinh tế tích cực và nỗ lực của chính phủ trong việc cải thiện khung pháp lý cho doanh nghiệp. Điều này sẽ kéo theo tác động tích cực đến chất lượng tài sản và sự mở rộng của bảng cân đối ngân hàng. Tuy vậy, do Việt Nam vẫn là thị trường có đặc điểm tăng trưởng tín dụng và giá tài sản mang tính chu kỳ cao, tạo ra những rủi ro đặc thù cho hệ thống ngân hàng.
Một điểm đáng lo ngại là nhiều ngân hàng vẫn có bộ đệm vốn mỏng. Do đó, các ngân hàng có thể sẽ tiếp tục duy trì chính sách chi trả cổ tức bằng cổ phiếu để đảm bảo nguồn vốn nội bộ đáp ứng tốc độ tăng trưởng tín dụng.
Trong thời gian tới, 2 nội dung mà các chuyên gia dự báo các ngân hàng sẽ tiếp thúc đẩy để vừa đảm bảo gia tăng bộ đệm vốn, đáp ứng nguồn vốn nhằm phục vụ nhu cầu vốn - mở rộng tín dụng trong bối cảnh việc cạnh tranh bằng chạy đua lãi suất được kiểm soát, là: Thứ nhất, các ngân hàng sẽ tăng tốc chia cổ tức và phát hành tăng vốn. Thứ hai, các ngân hàng cũng sẽ tiếp tục tăng đẩy mạnh phát hành trái phiếu tăng vốn cấp 2 ra công chúng trong năm 2025.
Một số kế hoạch phát hành có thể kể đến như HDBank dự kiến phát hành 10 nghìn tỷ VND trái phiếu ra công chúng từ quý IV/2024 đến quý III/2025; SHB từ quý IV/2024-quý 1/2025 dự kiến huy động qua phát hành trái phiếu 5 nghìn tỷ đồng; trong quý I/2024 LPB cũng có kế hoạch sử dụng công cụ nợ trái phiếu phát hành ra công chúng 4 nghìn tỷ đồng. Ngoài ra còn MBB, KLB, BVB, VAB… đều có kế hoạch phát hành trái phiếu ra công chúng tới đây.
Dự báo ngành ngân hàng có thể duy trì sự ổn định trong tương lai gần và có thể vượt mức mục tiêu tăng trưởng tín dụng 16% trong năm 2025, ông Nguyễn Anh Quân – Quản lý Cấp cao, Phụ trách Xếp Hạng Các Định Chế Tài Chính, FiinRatings cũng lưu ý, tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng cho vay quá nhanh cũng tiềm ẩn nguy cơ làm gia tăng áp lực lên chất lượng tài sản của các ngân hàng, vốn chưa có dấu hiệu cải thiện rõ rệt trong các quý gần đây. Để đảm bảo hiệu quả hoạt động trong xu hướng biên lãi ròng của ngành giảm và khó cải thiện đáng kể trong năm nay, cùng với nguồn thu ngoài lãi (phí dịch vụ) phục hồi chậm, các ngân hàng sẽ phải tìm cách tối ưu hóa hiệu suất hoạt động, cắt giảm chi phí để duy trì lợi nhuận trong trung và dài hạn.
Làn sóng "nam tiến" bùng nổ tại các công ty chứng khoán
Mới đây, Công ty Chứng khoán Quốc tế Việt Nam (VISecurities) đã công bố kế hoạch tổ chức Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2025 vào tháng 3, với nhiều chiến lược quan trọng, bao gồm thay đổi thương hiệu, di dời trụ sở và định hướng phát triển trong năm tới.
Theo đó, VISecurities dự kiến đổi tên thành Chứng khoán OCBS (OCBS), đồng thời chuyển trụ sở chính từ tầng 3, số 59 Quang Trung, phường Nguyễn Du, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, đến tầng 26, tòa nhà The HallMark, số 15 đường Trần Bạch Đằng, phường Thủ Thiêm, thành phố Thủ Đức, TP.HCM.
Không chỉ thay đổi trụ sở chính, công ty cũng tái định vị chi nhánh tại TP.HCM, chuyển từ tầng 2, số 194 Nguyễn Công Trứ, phường Nguyễn Thái Bình, quận 1, đến tầng 8, số 265 Cầu Giấy, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội.
Trước đó, Công ty Chứng khoán Việt Tín cũng có bước đi tương tự khi đổi tên thành Chứng khoán VTG (VTGS) và chuyển trụ sở từ tầng 1-2, tòa nhà 40 Phan Bội Châu, phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, vào trung tâm tài chính TP.HCM, cụ thể là tầng 1 và lửng tầng 1, Bến Thành Tower, số 172-174 đường Ký Con, phường Nguyễn Thái Bình, quận 1.
Đáng chú ý, Việt Tín không rời bỏ hoàn toàn Hà Nội mà vẫn duy trì sự hiện diện tại đây bằng việc thành lập chi nhánh ngay tại vị trí trụ sở cũ, đồng thời đóng cửa văn phòng đại diện tại số 21 Nguyễn Trung Ngạn, phường Bến Nghé, quận 1, TP.HCM.
Hòa vào làn sóng dịch chuyển này, Công ty Chứng khoán APG cũng thông qua kế hoạch di dời trụ sở chính vào tháng 12/2024. Theo đó, APG sẽ rời khỏi tầng 5, tòa nhà Grand Building, số 30-32 Hòa Mã, phường Phạm Đình Hổ, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, để chuyển đến tòa nhà văn phòng OSC Việt Nam, số 161 Võ Văn Tần, phường Võ Thị Sáu, quận 3, TP.HCM.
Cùng với đó, APG cũng thông báo đóng cửa chi nhánh TP.HCM và phòng giao dịch tại số 132 Mai Hắc Đế, Hà Nội. Ban lãnh đạo công ty nhấn mạnh rằng, đây là một phần trong chiến lược tái cấu trúc, hướng tới mô hình tinh gọn và tập trung hoạt động tại một trụ sở duy nhất ở TP.HCM.
Nhiều ý kiến cho rằng, làn sóng dịch chuyển trụ sở của các công ty chứng khoán vào TP.HCM chủ yếu nhằm tối ưu hóa vị trí địa lý, tiếp cận gần hơn với tập khách hàng tiềm năng và tận dụng lợi thế của hệ sinh thái tài chính sôi động. Thành phố này đang hướng tới mục tiêu trở thành trung tâm tài chính quốc tế, quy tụ hệ thống ngân hàng, thị trường vốn và các tổ chức tài chính lớn, thu hút dòng vốn đầu tư mạnh mẽ. Không phải ngẫu nhiên mà những tên tuổi hàng đầu trong ngành như SSI, HSC, Vietcap hay Yuanta Việt Nam đều đặt trụ sở chính tại đây.
Tuy nhiên, giới phân tích nhận định rằng bên cạnh những lợi thế về thị trường, làn sóng di dời trụ sở còn gắn liền với các thương vụ mua bán sáp nhập (M&A) và sự thay đổi trong cơ cấu sở hữu.
Khi các nhóm cổ đông mới xuất hiện, chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp cũng có sự điều chỉnh đáng kể, trong đó có quyết định dịch chuyển địa điểm hoạt động nhằm phù hợp với tầm nhìn dài hạn của chủ sở hữu mới.
Thực tế, không chỉ các công ty chứng khoán, trước đó một số ngân hàng cũng từng điều chỉnh vị trí trụ sở để phù hợp hơn với cổ đông lớn và đội ngũ lãnh đạo chủ chốt. Đơn cử, năm 2019, Ngân hàng Thương mại Cổ phần An Bình (ABBank) đã quyết định rời số 170 Hai Bà Trưng, phường Đa Kao, quận 1, TP.HCM để chuyển về tòa nhà Geleximco, số 36 Hoàng Cầu, phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, Hà Nội. Đây là nơi đặt trụ sở chính của Geleximco - cổ đông lớn thứ hai của ABBank với tỷ lệ sở hữu 12,78%, chỉ sau Malayan Banking Berhad (16,4%).
Theo lý giải của ABBank, trụ sở cũ tại TP.HCM không còn đủ không gian đáp ứng nhu cầu mở rộng, chưa kể đến kế hoạch phát triển nhân sự và tái cơ cấu bộ máy trong tương lai.
Thêm vào đó, phần lớn các thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và lãnh đạo cấp cao của ngân hàng này đều làm việc tại Hà Nội. Việc di dời được đánh giá là không tốn kém nhiều chi phí, do đó ABBank đã quyết định Bắc tiến.
Một trường hợp khác là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank), khi các cổ đông đã thông qua kế hoạch di dời trụ sở từ tầng 8, tòa nhà Vincom Center, số 72 Lê Thánh Tôn, phường Bến Nghé, quận 1, TP.HCM ra số 27-29 Lý Thái Tổ, phường Lý Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Quyết định này diễn ra ngay sau khi Eximbank chứng kiến sự thay đổi trong cơ cấu cổ đông, với sự gia nhập của Tập đoàn Gelex và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), trong khi cổ đông ngoại Sumitomo Mitsui Banking Corporation (SMBC) rút lui. Hiện tại, hai cổ đông lớn nhất của Eximbank đều có trụ sở tại Hà Nội.
Theo ban lãnh đạo Eximbank, sau 35 năm hoạt động tại TP.HCM, trong đó có 10 năm không tăng trưởng về số lượng khách hàng, thị trường phía Nam đã bước vào giai đoạn bão hòa. Vì vậy, đây là thời điểm thích hợp để ngân hàng mở rộng ra khu vực phía Bắc, tìm kiếm cơ hội tăng trưởng mới.
Nhóm ngân hàng nhỏ nhất thị trường đạt được kết quả gì trong năm 2024?
Năm 2024, các ngân hàng nhỏ ghi nhận lợi nhuận tăng trưởng tích cực, nhưng vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức lớn như nợ xấu gia tăng, chi phí huy động vốn cao và khó khăn trong tăng vốn.
Năm 2024, các ngân hàng có quy mô vốn điều lệ nhỏ như SaigonBank, KienLong Bank, VietABank, PGBank… đã ghi nhận những cải thiện tích cực trong kết quả kinh doanh. Tuy nhiên, dù đang trên đà tăng trưởng, họ vẫn phải đối mặt với không ít thử thách.
Bức tranh trái chiều của các ngân hàng quy mô nhỏ trong năm 2024
Năm 2024 được nhìn nhận là một năm thành công đối với ngành ngân hàng, mặc dù vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn. Các ngân hàng lớn, như Vietcombank, VietinBank, BIDV, Techcombank và MB, tiếp tục duy trì vị thế dẫn đầu với mức lợi nhuận kỷ lục. Tuy nhiên, nhóm ngân hàng có vốn điều lệ nhỏ cũng không kém phần ấn tượng, với những bước tiến tích cực trong kết quả kinh doanh.
Tính đến cuối năm 2024, toàn ngành có 7 ngân hàng có vốn điều lệ dưới 10.000 tỷ đồng, bao gồm SaigonBank (3.387 tỷ đồng), KienLong Bank (3.652 tỷ đồng), PGBank (4.200 tỷ đồng), BVBank (5.118 tỷ đồng), VietBank (7.139 tỷ đồng), PVcomBank (9.000 tỷ đồng), VietA Bank (5.399 tỷ đồng) và Bac A Bank (8.959 tỷ đồng). Cùng với đó, một số ngân hàng có vốn điều lệ “nhỉnh” hơn như ABBank (10.350 tỷ đồng) và NCB (11.800 tỷ đồng).
Báo cáo tài chính quý IV/2024 cho thấy, hầu hết các ngân hàng trong nhóm này đều ghi nhận lợi nhuận sau thuế tăng so với năm 2023. Trong đó, BVBank ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng nhất, lên tới 450%, đạt 311,2 tỷ đồng. Tuy nhiên, mức tăng trưởng này xuất phát từ nền tảng thấp của năm 2023, khiến BVBank vẫn chỉ đứng gần cuối bảng xếp hạng lợi nhuận, xếp trên PGBank với 291,3 tỷ đồng.
Các ngân hàng như KienLong Bank, ABBank, VietA Bank, VietBank và Bac A Bank đều chứng kiến lợi nhuận sau thuế tăng trưởng 2 chữ số. Cụ thể, KienLong Bank ghi nhận lợi nhuận 887,5 tỷ đồng (tăng 55%), ABBank đạt 601,7 tỷ đồng (tăng 32,6%), VietA Bank là 876,7 tỷ đồng (tăng 17,8%), VietBank đạt 900,9 tỷ đồng (tăng 39%) và Bac A Bank có lợi nhuận 1.260,2 tỷ đồng (tăng 18,8%).
Tuy nhiên, SaigonBank lại là một trong ba ngân hàng duy nhất ghi nhận sự sụt giảm lợi nhuận sau thuế trong năm 2024. Cụ thể, lợi nhuận của ngân hàng này giảm từ 266,7 tỷ đồng năm 2023 xuống còn 79,17 tỷ đồng, giảm tới 70,3%.
Ngân hàng nhỏ: Thành công và thách thức không nhỏ
Dù nhiều ngân hàng nhỏ ghi nhận lợi nhuận sau thuế tăng trưởng, nhưng trên thực tế, họ vẫn phải đối mặt với nhiều rủi ro và thách thức, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt. Theo báo cáo của VIS Rating, một trong những rủi ro lớn nhất là chất lượng tài sản có thể xấu đi khi Thông tư 02 hết hiệu lực vào năm 2025, buộc các ngân hàng phải ghi nhận chi phí tín dụng đối với các khoản nợ tái cơ cấu, làm tăng chi phí dự phòng rủi ro. Các ngân hàng nhỏ, với tỷ lệ nợ tái cơ cấu cao hơn trung bình ngành, đặc biệt là các khoản vay liên quan đến bất động sản và doanh nghiệp nhỏ và vừa, sẽ phải đối mặt với sự gia tăng chi phí dự phòng, có thể lên đến 20-30% trong năm 2025.
Trong thực tế, nhiều ngân hàng nhỏ như SaigonBank, Bac A Bank và VietBank đã ghi nhận sự gia tăng nợ xấu. Tại SaigonBank, tỷ lệ nợ xấu tăng từ 2,03% vào cuối năm 2023 lên 2,66% vào cuối năm 2024, trong khi Bac A Bank cũng chứng kiến tỷ lệ này tăng từ 0,92% lên 1,24%. Mặc dù KienLong Bank ghi nhận tỷ lệ nợ xấu giảm xuống còn 1,91%, chất lượng tín dụng của ngân hàng này vẫn giảm sút, đặc biệt là khi nợ có khả năng mất vốn tăng 82% so với năm trước.
Mặc dù tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng nhỏ có xu hướng tăng, tỷ lệ bao nợ xấu vẫn còn thấp, đặc biệt là SaigonBank với tỷ lệ bao nợ xấu chỉ đạt 38,25%, thấp hơn nhiều so với các ngân hàng khác trong nhóm.
Ngoài vấn đề nợ xấu, một thách thức lớn nữa là việc huy động vốn. Ngân hàng nhỏ thiếu lợi thế về thương hiệu, hệ thống khách hàng và nền tảng công nghệ, điều này khiến chi phí huy động vốn cao hơn. Báo cáo của VIS Rating cho thấy chi phí huy động vốn tại các ngân hàng nhỏ đã tăng 50-70 điểm cơ bản trong nửa cuối năm 2024, do sự cạnh tranh gay gắt để thu hút tiền gửi.
Chỉ số NIM (biên lợi nhuận thuần) của các ngân hàng nhỏ cũng ở mức thấp, với ABBank có NIM thấp nhất toàn ngành, chỉ đạt 1,89%. NIM của nhiều ngân hàng như VietBank, VietA Bank, SaigonBank, PGBank và Bac A Bank cũng dưới 3%, thấp hơn mức trung bình ngành là 3,17%.
Chỉ số CIR (tỷ lệ chi phí hoạt động/tổng thu nhập) của các ngân hàng nhỏ cũng tăng đáng kể so với năm trước. SaigonBank là ngân hàng có tỷ lệ CIR cao nhất toàn ngành, với 69,98% vào cuối năm 2024, so với mức 48,7% vào cuối năm 2023. Các ngân hàng như Bac A Bank và ABBank cũng ghi nhận tỷ lệ CIR tăng trong năm 2024.
Một thách thức khác mà các ngân hàng nhỏ phải đối mặt là vấn đề tăng vốn. Với mục tiêu nâng cao xếp hạng tín nhiệm quốc gia và yêu cầu về tỷ lệ CAR (hệ số an toàn vốn) tối thiểu, các ngân hàng phải đẩy mạnh tăng vốn để đáp ứng tiêu chuẩn này. Tuy nhiên, việc huy động vốn đối với các ngân hàng nhỏ lại gặp khó khăn hơn, nhất là khi các ngân hàng này ít danh tiếng và không có nhiều lợi thế trong việc sử dụng nguồn vốn hiệu quả.
Một số ngân hàng nhỏ đã lên kế hoạch phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, như VietBank phát hành gần 142,8 triệu cổ phiếu để tăng vốn điều lệ lên hơn 7.100 tỷ đồng, hay Bac A Bank phát hành cổ phiếu để nâng vốn điều lệ lên hơn 10.500 tỷ đồng. Tuy nhiên, đây chỉ là một trong những giải pháp cần thiết để các ngân hàng nhỏ duy trì sự ổn định và tăng trưởng trong tương lai.
10 ngân hàng có định giá theo P/B rẻ nhất năm 2024
Các ông lớn Big4 như Vietcombank, BIDV đang sở hữu định giá cao nhất toàn ngành.
Thực trạng nợ xấu nhóm 5 của các ngân hàng Việt: Nhiều 'ông lớn' tăng mạnh
Nợ nhóm 5 tại hầu hết các ngân hàng niêm yết đều tăng mạnh theo báo cáo tài chính quý IV/2024. Chỉ có 3 ngân hàng ghi nhận tốc độ suy giảm về nợ nhóm 5 trong năm 2024.
Tính đến 31/12/2024, nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) của 25 ngân hàng niêm yết lên đến 118.915 tỷ đồng (khoảng 4,75 tỷ USD), tăng 39,30% so với đầu năm 2024.
Con số trên chưa bao gồm nợ nhóm 5 tại LPBank và VIB do hai nhà băng này chỉ công bố số liệu nợ quá hạn và không công bố chi tiết từng nhóm nợ.
Với các ngân hàng thương mại đã công bố báo cáo, có thể thấy nợ nhóm 5 chiếm phần lớn nợ xấu. Thậm chí có những nhà băng tỷ lệ nợ nhóm 5 chiếm trên 90% tổng dư nợ xấu (nợ nhóm 3-5).
Nam A Bank, Techcombank và ABBank có tỷ lệ nợ nhóm 5 tăng cao nhất, lần lượt tăng 165%, 136,9%, và 103% so với đầu năm.
Trong đó, con số tuyệt đối nợ có nguy cơ mất vốn của Nam A Bank là trên 2.600 tỷ đồng, chiếm gần 70% tổng nợ xấu của ngân hàng này. Dự phòng rủi ro cho vay khách hàng vì thế cũng tăng thêm 500 tỷ đồng so với đầu năm, đạt 2.065 tỷ đồng tại ngày 31/12/2024.
Techcombank với hơn 3.269 tỷ đồng nợ xấu được xếp vào nhóm 5, chiếm tỷ lệ 0,54% tổng dư nợ tín dụng, đồng thời tăng gần 137% so với nợ xấu nhóm 5 tại thời điểm đầu năm 2024. Nợ ngắn hạn chiếm 34,95% tổng dư nợ tại Techcombank. Nợ trung hạn và dài hạn lần lượt chiếm 14,07% và 50,98%.
Cho vay hoạt động kinh doanh bất động sản chiếm tỷ trọng cao nhất tại Techcombank, lên tới 30,88% tổng dư nợ tín dụng (năm 2023 tỷ lệ này là 35,21%).
Còn tại ABBank, nợ nhóm 5 tăng 103% so với đầu năm 2024 và chiếm tới 57% tổng nợ xấu của ngân hàng này.
Ngoài ra, một số ngân hàng có tỷ lệ nợ nhóm 5 tăng cao lần lượt gồm: Saigonbank (72,41%), Bac A Bank (73,4%), ACB (74%), Sacombank (81,36%), KLB (82%)…
Đáng chú ý, báo cáo tài chính quý IV/2024 cho thấy, 3 ngân hàng gồm SHB, NCB, và TPBank ghi nhận nợ nhóm 5 suy giảm so với đầu năm.
Cụ thể, nợ nhóm 5 tại SHB giảm 3,67% còn 9.704 tỷ đồng; nợ nhóm 5 tại NCB giảm 3,49% còn 13.665 tỷ đồng, và tại TPBank giảm nhẹ 0,28% còn 1.115 tỷ đồng.
Với trường hợp của NCB, việc giảm đáng kể nợ xấu nói chung và nợ nhóm 5 nói riêng là tín hiệu tích cực cho thấy nhà băng này đã và đang đạt được những thành tựu đáng kể trong quá trình cơ cấu lại theo “Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025” theo Quyết định 689/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn của NHNN.
Một số ngân hàng có tỷ lệ nợ nhóm 5 tăng thấp nhất bao gồm: Viet A Bank (3%), VietBank (5,2%), PGBank và SeABank (cùng tăng 25%), và BVBank (29%).
Nhóm ngân hàng quốc doanh như Vietcombank, BIDV, và VietinBank dù đứng đầu về con số tuyệt đối do dẫn đầu hệ thống về cung ứng vốn cho thị trường, nhưng cả 3 “ông lớn” đều không thuộc nhóm đầu về tỷ lệ tăng thêm của nợ nhóm 5.
Cụ thể, tỷ lệ này tại Vietcombank là 30%, VietinBank 49%, trong khi nợ nhóm 5 tại BIDV tăng thêm 55% so với đầu năm 2024.
Trả lời chất vấn trước Quốc hội vào tháng 11/2024, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho hay, nợ xấu trong các TCTD do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đã tác động nghiêm trọng đến mọi mặt của đời sống, xã hội; doanh nghiệp và người dân khó khăn, giảm nguồn thu dẫn đến việc trả nợ càng khó khăn hơn.
Để kiểm soát nợ xấu, Ngân hàng Nhà nước cũng đề ra một số giải pháp. Đối với các TCTD, khi cho vay cần thẩm định, đánh giá kỹ lưỡng về khả năng trả nợ của khách hàng vay, đảm bảo kiểm soát nợ xấu mới phát sinh.
Đối với các nợ xấu hiện hữu, cần tích cực xử lý nợ xấu thông qua việc đôn đốc khách hàng trả nợ, thu nợ, phát mại tài sản của nợ xấu. Ngân hàng Nhà nước cũng đã có khuôn khổ pháp lý đối với các công ty mua bán nợ để có thể tham gia xử lý nợ xấu.
Những nhà băng không lãi nổi 1.000 tỷ đồng
Số ngân hàng lãi dưới 1.000 tỷ đồng đã giảm xuống trong năm 2024.
Năm 2024, số nhà băng báo lãi dưới 1.000 tỷ đồng chỉ đếm trên đầu ngón tay, cho thấy bức tranh rực rỡ ngành ngân hàng.
Theo báo cáo tài chính đã công bố của 26 ngân hàng thương mại, năm 2024 ghi nhận 6 nhà băng có lợi nhuận trước thuế dưới 1.000 tỷ đồng. So với năm 2023 khi có tới 9 đơn vị nằm trong nhóm này, có thể thấy một số nhà băng đã bứt phá đáng kể trong năm vừa qua.
Song, tình hình chung của những cái tên còn lại trong danh sách vẫn còn đầy thách thức.
"Giấc mơ" lãi nghìn tỷ còn xa
Ngân hàng Bản Việt (BVBank) là cái tên có mức tăng trưởng lợi nhuận mạnh nhất trong nhóm ngân hàng lợi nhuận thấp.
Năm 2024, ngân hàng này báo lãi trước thuế 391 tỷ đồng, gấp hơn 5 lần so với năm trước và hoàn thành gần 200% kế hoạch đề ra. Động lực tăng trưởng chính đến từ thu nhập lãi thuần tăng 56% đạt 2.306 tỷ đồng, cùng với lãi từ kinh doanh ngoại hối tăng 105%, mang về 46 tỷ đồng.
Sự bứt phá mạnh mẽ của BVBank phần lớn đến từ kết quả kinh doanh quý IV/2024 với khoản lợi nhuận trước thuế hợp nhất hơn 200 tỷ đồng, cao gấp 20 lần cùng kỳ năm trước. Đây cũng là mức lợi nhuận theo quý cao nhất của BVBank kể từ năm 2020, đánh dấu bước tiến đáng chú ý.
Tính đến cuối năm 2024, tổng tài sản của nhà băng này đạt 103.536 tỷ đồng, tăng 18% so với cùng kỳ. Trong đó, dư nợ cho vay khách hàng đạt 68.063 tỷ đồng, với hơn 75% tập trung vào khách hàng cá nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quy mô huy động vốn đạt 95.400 tỷ đồng, tăng 19%, động lực chính đến từ phân khúc khách hàng nhỏ lẻ.
Dù tăng trưởng mạnh, song để chạm mốc lợi nhuận nghìn tỷ, BVBank cần một chiến lược dài hơi hơn. Bài toán kiểm soát nợ xấu cũng là một thách thức khi số dư nợ xấu của ngân hàng đã tăng 10% lên 2.106 tỷ đồng, dù tỷ lệ nợ xấu đã cải thiện nhẹ xuống còn 3,09%.
Ngân hàng TMCP Thịnh Vượng và Phát Triển (PGBank) cũng nằm trong nhóm lợi nhuận dưới 1.000 tỷ đồng dù có sự tăng trưởng nhất định. Năm 2024, ngân hàng này đạt thu nhập lãi thuần 1.659 tỷ đồng, tăng 28% so với năm trước. Lợi nhuận trước thuế đạt 421 tỷ đồng, tăng 20%, nhưng vẫn cách xa kế hoạch 554 tỷ đồng đặt ra đầu năm.
Một điểm đáng chú ý là thu nhập ngoài lãi của PGBank sụt giảm mạnh. Doanh thu từ hoạt động dịch vụ chỉ đạt 18 tỷ đồng, giảm 48%, trong khi kinh doanh ngoại hối gần như không đóng góp đáng kể. Ngoài ra, hoạt động mua bán chứng khoán đầu tư cũng chịu lỗ gần 55 tỷ đồng.
Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, lãi thuần từ hoạt động khác lại tăng mạnh, đạt 209 tỷ đồng, gấp 5 lần cùng kỳ và trở thành yếu tố giúp PGBank tránh khỏi mức tăng trưởng âm. Tính riêng quý IV/2024, lãi thuần từ hoạt động khác tăng đột biến 15 lần, đây cũng là một trong những nhân tố chính góp phần vào tỷ lệ tăng trưởng cho quý cuối năm.
Tổng tài sản của PGBank tính tới cuối năm 2024 đạt 73.211 tỷ đồng, tăng 32%. Dư nợ cho vay khách hàng tăng 18%, đạt 41.437 tỷ đồng, trong khi tiền gửi khách hàng tăng 21%, đạt 43.326 tỷ đồng. Dù vậy, nợ xấu vẫn là một vấn đề khi tổng nợ xấu của ngân hàng tăng 5% lên 1.061 tỷ đồng, với tỷ lệ bao phủ nợ xấu chỉ đạt 41%.
Ngoài hai nhà băng trên, ABBank, SaigonBank, Baoviet Bank, NCB cũng báo lãi dưới 1.000 tỷ đồng năm qua.
"Thoát" nhóm ngân hàng lợi nhuận thấp
Không phải tất cả ngân hàng trong nhóm lợi nhuận thấp đều "giậm chân tại chỗ". VietABank và KienlongBank là hai cái tên đã thành công vượt mốc nghìn tỷ trong năm 2024. Theo báo cáo tài chính hàng năm, VietABank và KienlongBank là 2 nhà băng ghi nhận lợi nhuận trước thuế dưới 1.000 tỷ đồng trong năm 2023 nhưng sang tới 2024 đã tăng trưởng tốt để vượt mốc này.
Báo cáo tài chính hợp nhất 2024 cho thấy VietABank đạt lợi nhuận trước thuế 1.085 tỷ đồng, tăng 18% so với năm 2023, chính thức thoát khỏi nhóm ngân hàng có lợi nhuận dưới 1.000 tỷ đồng. Động lực tăng trưởng chủ yếu đến từ thu nhập lãi thuần (+29%) và hoạt động dịch vụ (+68%). Với kết quả này, ngân hàng đã thực hiện 102% kế hoạch lợi nhuận của cả năm.
Tuy nhiên nếu chỉ tính trong quý IV/2024, khoản thu nhập lãi thuần chỉ tăng 3% lên 814 tỷ đồng, chủ yếu do tăng trưởng tín dụng cao (trên 33%) và chi phí lãi giảm 20% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, các hoạt động khác cũng chỉ thu về 40 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ năm trước đem về 123 tỷ đồng.
Ngân hàng cũng chứng kiến sự sụt giảm ở một số mảng kinh doanh, đáng chú ý là thu nhập ngoài lãi giảm 77% do lãi từ hoạt động chứng khoán đầu tư giảm mạnh từ 243 tỷ đồng xuống 23 tỷ đồng. Các hoạt động kinh doanh ngoại hối cũng ghi nhận lỗ trong quý. Cũng trong quý cuối năm, VietABank trích lập dự phòng rủi ro tín dụng 378 tỷ đồng, khiến lãi sau thuế giảm 10% còn 291 tỷ đồng.
Tính đến cuối năm 2024, tổng tài sản của VietABank đạt 119.832 tỷ đồng, tăng 7%, dư nợ cho vay khách hàng tăng 33% lên 79.916 tỷ đồng. Một điểm tích cực là tỷ lệ nợ xấu giảm từ 1,47% xuống 1,31%, phản ánh khả năng kiểm soát rủi ro tốt hơn.
Tương tự, KienlongBank cũng có một năm kinh doanh ấn tượng khi lợi nhuận trước thuế vượt mốc 1.100 tỷ đồng, hoàn thành 139% kế hoạch. Trong quý IV/2024, ngân hàng báo lãi 352 tỷ đồng, góp phần đáng kể vào kết quả chung cả năm.
Tổng tài sản vào cuối năm 2024 của KienlongBank đạt 92.176 tỷ đồng, tăng 6%, trong khi huy động vốn tăng 9% lên 82.906 tỷ đồng. Tín dụng cũng có sự mở rộng mạnh mẽ với dư nợ đạt 61.431 tỷ đồng, tăng 17%. Tỷ lệ nợ xấu của KienlongBank được kiểm soát ở mức 1,91%, một trong những mức thấp nhất trong nhóm ngân hàng tầm trung.
Năm 2024, ABBank ghi nhận tăng trưởng về quy mô hoạt động, lợi nhuận tăng 58% so với 2023
Kết thúc Quý 4/2024, Ngân hàng TMCP An Bình (ABBANK) ghi nhận lợi nhuận trước thuế tăng 58% so với năm 2023, đạt 809 tỷ đồng. Cùng với sự tăng trưởng về quy mô hoạt động, số lượng giao dịch qua kênh số tại ABBANK cũng có sự bứt phá đáng kể nhờ việc đầu tư nguồn lực nhằm tăng tiện ích và trải nghiệm khách hàng.
Tính đến hết ngày 31/12/2024, quy mô hoạt động của ABBANK tiếp tục tăng trưởng thông qua ghi nhận từ các chỉ số: Tổng tài sản đạt 176.628 tỷ đồng, tăng 9% so với năm 2023, đạt 104% kế hoạch năm; Tổng huy động đạt 155.900 tỷ đồng, tăng 7,7% so với năm 2023, đạt 108% kế hoạch năm; Tổng dư nợ đạt 154.426 tỷ đồng, tăng 14,1% so với năm 2023, đạt 110% kế hoạch năm.
Theo đó, lợi nhuận trước thuế năm 2024 của ABBANK tăng 58% so với năm 2023, đạt 809 tỷ đồng, tương đương hoàn thành 81% kế hoạch năm.
Tỷ lệ nợ xấu của ABBANK tính đến hết ngày 31/12/2024 tiếp tục được kiểm soát chặt chẽ và duy trì dưới mức 3% theo quy định tại Thông tư số 11/2021/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Cùng với danh mục tài sản đảm bảo có giá trị cao cho các khoản vay, ABBANK thực hiện trích lập 1.387 tỷ đồng cho dự phòng rủi ro tín dụng, đảm bảo tuân thủ đúng quy định về quản trị chất lượng tài sản. Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) tiếp tục được đảm bảo theo tiêu chuẩn của NHNN.
Công tác chuyển đổi số của ABBANK trong năm 2024 cũng đạt được những kết quả tích cực. Với chiến lược am hiểu khách hàng để phát triển các giải pháp tài chính hiệu quả, tháng 11/2024 ABBANK đã cho ra mắt thị trường nền tảng Ngân hàng số ABBANK Business, mang đến cho khách hàng doanh nghiệp những trải nghiệm giao dịch ngân hàng số an toàn và tiện lợi. Việc dịch chuyển thành công khách hàng doanh nghiệp hiện hữu lên kênh số đã góp phần giúp lượng giao dịch qua kênh số của nhóm khách hàng doanh nghiệp tại ABBANK tăng mạnh, ghi nhận trên 32% so với Quý 3/2024 và tăng hơn 129% so với năm 2023. Đối với giao dịch của khách hàng cá nhân, số lượng giao dịch trên kênh số cũng tiếp tục tăng trưởng tốt với mức tăng 34% so với Quý 3/2024, và hơn 66% so với năm 2023 - thể hiện sự gắn kết của khách hàng nhờ các trải nghiệm tích cực khi giao dịch qua Ngân hàng số ABBANK.
Ông Phạm Duy Hiếu – Tổng Giám đốc ABBANK nhận định: “Năm 2024, ABBANK tập trung cho việc củng cố nền tảng, tối ưu bộ máy, từ quy trình vận hành cho đến sản phẩm dịch vụ để phục vụ tốt hơn tập khách hàng hiện hữu. Những nỗ lực trong việc liên tục cải tiến sản phẩm dịch vụ, tích cực và chủ động triển khai các chương trình đồng hành, hỗ trợ khách hàng về phí và lãi suất… đã góp phần giúp ABBANK tăng cường gắn kết khách hàng hiện hữu, thu hút khách hàng mới trải nghiệm dịch vụ, từ đó tăng trưởng về quy mô hoạt động.”
Năm 2024, ABBANK tiếp tục dành sự ưu tiên cho việc kiện toàn hệ thống về nền tảng công nghệ, nhân sự nhằm sẵn sàng nguồn lực cho các yêu cầu trong tiến trình chuyển đổi số của Ngân hàng cũng như việc cải tiến sản phẩm dịch vụ hướng tới trải nghiệm tốt nhất cho khách hàng. Cùng với nền tảng ngân hàng số ABBANK Business dành cho doanh nghiệp, ABBANK cũng đang hoàn thiện các bước cuối cùng, chuẩn bị cho việc ra mắt nền tảng ngân hàng số hoàn toàn mới dành cho khách hàng cá nhân vào Quý 1/2025.
Bên cạnh đó, công tác nâng cao năng lực quản trị và năng lực cạnh tranh theo chiến lược phát triển hiệu quả gắn với bền vững bắt đầu được ABBANK thực thi thông qua việc khởi động dự án “Hệ thống Quản lý Môi trường và Xã hội” (Environmental and Social Management System - ESMS) dành riêng cho nghiệp vụ Tài trợ Thương mại, và thành lập Uỷ ban Chiến lược Phát triển bền vững ESG với sự tham gia của các nhân sự cấp cao trong Ban lãnh đạo ABBANK.
ABBANK cũng để lại nhiều dấu ấn tích cực trên thị trường trong năm 2024, thông qua rất nhiều các chiến dịch chung tay cùng cộng đồng vì một tương lai Việt Nam phát triển và bền vững: dự án trồng rừng “Xanh An Bình – Xanh Việt Nam” góp phần chống sạt lở, xói mòn, tạo sinh kế cho người dân, hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi bão Yagi, xây công trình giáo dục trọng điểm cho học sinh vùng cao, đóng góp ngân sách xây nhà cho các đối tượng ưu tiên đặc biệt… Trong đó,
ABBANK đã hỗ trợ cho hơn 5.600 khách hàng bị ảnh hưởng bởi bão Yagi với tổng giá trị giải ngân lên tới trên 7.500 tỷ đồng.
Etiqueta blanca
API de datos
Complementos web
Creador de carteles
Programa de afiliados
El riesgo de pérdida en el comercio de activos financieros como acciones, divisas, materias primas, futuros, bonos, ETF o criptomonedas puede ser considerable. Puede sufrir una pérdida total de los fondos que deposita con su corredor. Por lo tanto, debe considerar cuidadosamente si dicha negociación es adecuada para usted tomando en cuenta sus circunstancias y recursos financieros.
No se debe considerar invertir sin llevar a cabo, su propia diligencia de manera minuciosa o consultar con sus asesores financieros. Nuestro contenido web puede no ser adecuado para usted, ya que no conocemos su situación financiera ni sus necesidades de inversión. Es posible que nuestra información financiera tenga latencia o contenga inexactitudes, por lo que usted debe ser completamente responsable de cualquiera de sus transacciones y decisiones de inversión. La empresa no se hará responsable de su capital perdido.
Sin obtener el permiso del sitio web, no se le permite copiar los gráficos, textos o marcas comerciales del sitio web. Los derechos de propiedad intelectual sobre los contenidos o datos incorporados a este sitio web pertenecen a sus proveedores y comerciantes de intercambio.