Cotizaciones
Noticias
Análisis
Usuario
24/7
Calendario económico
Educación
Datos
- Nombres
- Último
- Anterior
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A:--
P: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A:--
P: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
Sin datos que coincidan
Gráficos Gratis para siempre
Charlar P&R con expertos Filtros Calendario económico Datos HerramientaMembresía CaracterísticasTendencias del mercado
Indicadores populares
Últimas perspecivas
Últimas perspecivas
Temas en Tendencia
La inflación, los tipos de cambio y la economía dan forma a las decisiones políticas de los bancos centrales; Las actitudes y palabras de los funcionarios del banco central también influyen en las acciones de los operadores del mercado.
En el mundo de la humanidad no habrá una declaración sin posición, ni un comentario sin propósito.
La economía está hoy en el centro de toda actividad. Los datos económicos y los cambios de indicadores, los ajustes de políticas y los modelos emergentes afectan las decisiones de los comerciantes.
Vea ideas comerciales y aprenda estrategias comerciales.
Columnistas Principales
Disfruta de emocionantes actividades, aquí mismo en FastBull.
Las últimas noticias de última hora y los acontecimientos financieros mundiales.
Cuento con 5 años de experiencia en análisis financiero, especialmente en aspectos de desarrollo macro y juicio de tendencias de mediano y largo plazo. Mi atención se centra principalmente en los acontecimientos de Oriente Medio, los mercados emergentes, el carbón, el trigo y otros productos agrícolas.
Entrenador y orador jefe de operaciones de BeingTrader, más de 8 años de experiencia en el mercado de divisas operando principalmente con XAUUSD, EUR/USD, GBP/USD, USD/JPY y petróleo crudo. Un comerciante y analista confiado que tiene como objetivo explorar diversas oportunidades y guiar a los inversores en el mercado. Como analista, busco mejorar la experiencia del operador apoyándolo con suficientes datos y señales.
Última actualización
Risk Warning on Trading HK Stocks
Despite Hong Kong's robust legal and regulatory framework, its stock market still faces unique risks and challenges, such as currency fluctuations due to the Hong Kong dollar's peg to the US dollar and the impact of mainland China's policy changes and economic conditions on Hong Kong stocks.
HK Stock Trading Fees and Taxation
Trading costs in the Hong Kong stock market include transaction fees, stamp duty, settlement charges, and currency conversion fees for foreign investors. Additionally, taxes may apply based on local regulations.
HK Non-Essential Consumer Goods Industry
The Hong Kong stock market encompasses non-essential consumption sectors like automotive, education, tourism, catering, and apparel. Of the 643 listed companies, 35% are mainland Chinese, making up 65% of the total market capitalization. Thus, it's heavily influenced by the Chinese economy.
HK Real Estate Industry
In recent years, the real estate and construction sector's share in the Hong Kong stock index has notably decreased. Nevertheless, as of 2022, it retains around 10% market share, covering real estate development, construction engineering, investment, and property management.
Hongkong, China
Vietnam·Ho Chi Minh
Dubai, UAE
Lagos, Nigeria
El Cairo, Egipto
Etiqueta blanca
API de datos
Complementos web
Programa de afiliados
Ver todo
Sin datos
No conectado
Inicia sesión para acceder a más funciones
Membresía FastBull
Todavia no
Comprar
Iniciar sesión
Registrarse
Hongkong, China
Vietnam·Ho Chi Minh
Dubai, UAE
Lagos, Nigeria
El Cairo, Egipto
Etiqueta blanca
API de datos
Complementos web
Programa de afiliados
Xuất khẩu gạo năm 2024 lập đỉnh về giá trị, nhưng lợi nhuận của doanh nghiệp thực tế chỉ như "hạt cát" giữa cơn sóng lớn. Áp lực chi phí, biên lợi nhuận thấp và những khó khăn nội tại khiến ngành gạo rơi vào nghịch lý "bán nhiều nhưng chưa chắc có lời".
Xuất khẩu gạo rực rỡ
Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, Việt Nam xuất khẩu 9.03 triệu tấn gạo trong năm 2024, đạt giá trị 5.67 tỷ USD, tăng lần lượt 11.1% và 21.2% so với năm 2023. Đây là những con số kỷ lục của ngành gạo Việt Nam, đồng thời 2024 cũng là năm thứ 5 liên tiếp kim ngạch xuất khẩu gạo ghi nhận tăng trưởng dương.
Gạo Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu sang các nước ASEAN, chiếm 71% tổng lượng xuất khẩu, tương đương trên 6.4 triệu tấn, tăng 31% so với năm trước. Trong đó, Philippines là thị trường lớn nhất với hơn 4.2 triệu tấn, tăng 34.7%.
Ảnh: ABS Research
Giá gạo xuất khẩu bình quân năm 2024 cũng đạt mức kỷ lục 627 USD/tấn, tăng 9.1% so với năm trước. Trong 9 tháng đầu năm, giá gạo nội địa duy trì ở mức cao nhưng giảm mạnh vào quý 4/2024 do nhu cầu chững lại từ các thị trường tiêu thụ chính và tác động từ việc Ấn Độ dỡ bỏ hạn chế xuất khẩu gạo.
"Mặt trái" của kỷ lục xuất khẩu
Dù xuất khẩu gạo lập kỷ lục, hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành lại không như kỳ vọng. Theo dữ liệu từ VietstockFinance, tổng doanh thu thuần của 9 doanh nghiệp gạo trên các sàn HOSE, HNX và UPCoM đạt 40,400 tỷ đồng, giảm 5% so với năm trước. Lãi ròng giảm mạnh hơn một nửa, chỉ còn 80 tỷ đồng. Biên lãi gộp trung bình giảm nhẹ 0.1 điểm %, còn 8.6%.
Thực tế, gạo là thị trường có biên lợi nhuận thấp và nhiều rủi ro. Do đó, các doanh nghiệp thường chịu áp lực từ chi phí lãi vay cao, áp lực thu mua từ nông dân, giá thành lúa đầu vào.
Nhìn chung, bức tranh kinh doanh năm 2024 của các doanh nghiệp gạo Việt Nam hiện lên với nhiều gam màu khác biệt, phản ánh những khó khăn và thách thức mà ngành phải đối mặt.
"Mưa" giảm lãi bao trùm ngành gạo
Vinaseed (NSC) dù biên lãi gộp vẫn ở mức cao (29.7%), nhưng cũng đã giảm 1.5 điểm phần trăm so với cùng kỳ, kéo theo lãi ròng giảm nhẹ 3%, xuống gần 218 tỷ đồng - mức thấp nhất trong 4 năm qua. Trong khi đó, doanh thu năm 2024 đạt mức đỉnh mới 2,449 tỷ đồng, tăng 20% so với năm 2023.
Kết quả kinh doanh 5 năm qua của Vinaseed
Tương tự, Giống cây trồng Miền Nam (SSC) cũng chứng kiến biên lãi gộp thu hẹp 4.1 điểm %, xuống 28.7%, khiến lãi ròng giảm mạnh 22% so với năm 2023, chỉ còn 42.5 tỷ đồng. Đây cũng là mức thấp nhất trong 4 năm, dù doanh thu tăng 29%, lên 388 tỷ đồng.
SSC lý giải nguyên nhân lợi nhuận giảm còn do Công ty không phát sinh thu nhập từ việc thanh lý tài sản cố định và thu nhập nhận được từ lợi nhuận được chia từ công ty liên kết như năm ngoái.
Vinafood II (VSF) dù thoát lỗ nhưng lại giảm lợi nhuận mạnh nhất ngành. Lãi ròng năm 2024 chỉ đạt 4.2 tỷ đồng, lao dốc 82% so với năm trước. Riêng quý 4, lãi ròng của VSF giảm tới 92%, chỉ còn 1.5 tỷ đồng, chủ yếu do những tháng cuối năm tình hình thị trường xuất khẩu gạo và tỷ giá đồng USD có nhiều biến động.
Doanh thu 2024 của VSF đạt 21,460 tỷ đồng, cao nhất ngành, tương đương thu bình quân gần 59 tỷ đồng/ngày, nhưng biên lãi gộp chỉ còn 7.6%, giảm 0.3 điểm % so với cùng kỳ.
Sau cổ phần hóa năm 2018, VSF gặp nhiều khó khăn do các sai phạm của lãnh đạo cũ và nhiều năm thua lỗ liên tiếp. Công ty chỉ mới có lãi từ năm 2023 với 23 tỷ đồng, chấm dứt chuỗi lỗ kéo dài cả thập niên (2013-2022). Dù vậy, đến cuối năm 2024, VSF vẫn gánh lỗ lũy kế 2,789 tỷ đồng.
Vinafood II hái "trái ngọt" sau hơn thập kỷ thua lỗ kéo dài
Tại Hội nghị tổng kết năm 2024, Ban lãnh đạo VSF đã nhắc lại giai đoạn đầy thách thức trước năm 2022. Từ chỗ hoạt động sản xuất, kinh doanh thua lỗ, tài chính không lành mạnh, các tổ chức tín dụng "quay lưng", mất lòng tin đối với bạn hàng, đến nay, Công ty đã khôi phục vị thế dẫn đầu trong ngành lúa gạo, lấy lại được niềm tin từ các đối tác.
Kigimex (KGM) cũng không tránh khỏi khó khăn khi lãi ròng thấp nhất 5 năm qua, đạt 5.2 tỷ đồng, giảm 58% so với năm trước. Mặc dù doanh thu cán mức kỷ lục mới 7,403 tỷ đồng (tăng 2%), kết quả kinh doanh vẫn bị ảnh hưởng bởi quý 4 thua lỗ 5.3 tỷ đồng, do thị trường xuất khẩu trầm lắng và giá phụ phẩm giảm.
Trong khi phần lớn doanh nghiệp ngành gạo báo lãi giảm sút, Afiex (AFX) và Thương mại Kiên Giang (KTC) nổi lên như 2 điểm sáng hiếm hoi. AFX lãi ròng gần 28 tỷ đồng, tăng 5% so với năm trước, nhờ khoản lợi nhuận khác hơn 2.8 tỷ đồng trong quý cuối năm. Còn KTC đạt lãi ròng gần 26 tỷ đồng, tăng nhẹ 1% và là mức cao nhất trong 4 năm qua.
KTC lãi ròng cao nhất 4 năm qua
"Bóng ma" thua lỗ
Sau giai đoạn 6 năm thua lỗ liên tiếp (2016-2021), Foodcosa (FCS) mới có 2 năm lãi trở lại (2022-2023) thì bất ngờ báo lỗ 1.5 tỷ đồng trong năm 2024. Khoản lỗ này chủ yếu do trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho, khiến lỗ lũy kế tăng lên hơn 194 tỷ đồng.
FCS cho biết, tình hình tài chính vẫn rất khó khăn với vốn lưu động âm, chưa nhận được hỗ trợ vốn từ tổ chức nào, đồng thời phải gánh chịu chi phí khấu hao, định phí lớn và chi phí nhân công. Công ty cam kết sẽ nỗ lực giảm lỗ và cải thiện hiệu quả kinh doanh trong năm 2025, thông qua các giải pháp như đẩy mạnh kinh doanh gạo, xăng dầu, tăng cường dịch vụ và cắt giảm chi phí.
Năm 2024, Foodcosa lần đầu lỗ kể từ chuỗi kinh doanh không có lời từ 2016-2021
Angimex (AGM) - doanh nghiệp gạo lâu năm tại An Giang - tiếp tục chìm sâu vào khủng hoảng sau biến cố của nhóm Louis Holdings từ năm 2022. Năm 2024, AGM lỗ ròng kỷ lục 251 tỷ đồng, lỗ cả 4 quý và là năm thua lỗ thứ 3 liên tiếp. Riêng quý 4/2024, AGM lỗ nặng nhất với 140 tỷ đồng.
Nguyên nhân chủ yếu do kinh doanh dưới giá vốn, chi phí hoạt động hàng chục tỷ đồng và lỗ từ công ty liên doanh, liên kết. Lỗ lũy kế của AGM tính đến cuối năm 2024 đã vượt quá 417 tỷ đồng, âm vốn chủ sở hữu hơn 235 tỷ đồng.
Năm 2024, Angimex báo lỗ kỷ lục, là năm thứ 3 thua lỗ liên tiếp
Việc này khiến cổ phiếu AGM đối diện nguy cơ bị hủy niêm yết bắt buộc từ HOSE, theo công văn số 73 ngày 23/2/2025, nếu BCTC hợp nhất kiểm toán năm 2024 tiếp tục thua lỗ hoặc vốn chủ sở hữu âm.
Kinh doanh thua lỗ cũng khiến AGM liên tục chậm trả lãi và gốc trái phiếu AGMH2123001 và AGMH2223001. Công ty đang trong quá trình thanh lý tài sản để cải thiện dòng tiền, gần đây nhất là kế hoạch bán 55% vốn góp tại Công ty TNHH Lương thực Angimex (Angimex Food) để giảm áp lực nợ hơn 347 tỷ đồng tại BIDV CN Bắc An Giang, dù đã tái cơ cấu khoản vay nhiều lần trong 2 năm qua.
Ông lớn "ngã ngựa"
2 "ông lớn" ngành lúa gạo - Trung An (TAR) và Lộc Trời (LTG) thậm chí còn chưa thể công bố BCTC quý 4/2024, cho thấy tương lai đầy bất định sau loạt biến cố.
TAR lún sâu trong khủng hoảng tài chính. Sau khi lợi nhuận giảm năm 2022, Công ty lỗ ròng 16 tỷ đồng năm 2023 và tiếp tục lỗ 31 tỷ đồng trong 9 tháng đầu năm 2024, chủ yếu do chi phí sản xuất và lãi vay đều tăng. Trước đó, kiểm toán từ chối đưa ý kiến đối với BCTC năm 2023 và bán niên 2024, dẫn đến cổ phiếu TAR bị hủy niêm yết trên HNX, chỉ còn được giao dịch hạn chế trên UPCoM.
Tương tự, LTG cũng chưa công bố BCTC quý 4/2024 và liên tục xin gia hạn công bố các BCTC trước đó với lý do "bất khả kháng". Việc chậm nộp BCTC khiến cổ phiếu LTG bị hạn chế giao dịch trên UPCoM.
Công ty cũng vướng lùm xùm về quản trị khi cáo buộc cựu Tổng giám đốc Nguyễn Duy Thuận có hành vi gian dối, gây thất thoát tài sản và hàng loạt biến động nhân sự cấp cao. Kế hoạch tổ chức ĐHĐCĐ bất thường của LTG vào ngày 20/12/2024 cũng bị hoãn, do thiếu hồ sơ ứng cử thành viên BKS.
Theo BCTC quý 1/2024, LTG ghi nhận doanh thu tăng nhưng lợi nhuận gộp giảm và lỗ ròng 96 tỷ đồng. Năm 2023, lãi ròng của LTG sau kiểm toán cũng giảm sâu 96% so với năm 2022, còn chưa tới 17 tỷ đồng.
Gạo Việt 2025: "Cơn sóng dữ" nào đang chờ đợi?
Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) dự báo xuất khẩu gạo năm 2025 sẽ gặp khó khăn và có thể giảm xuống 7.5 triệu tấn, phản ánh sự dịch chuyển trong cán cân cung - cầu.
Dự báo mới nhất của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) cho thấy, nguồn cung gạo toàn cầu niên vụ 2024-2025 sẽ đạt kỷ lục 527.6 triệu tấn. Giá gạo có thể tiếp tục giảm trong nửa đầu năm 2025 trước khi ổn định vào cuối năm, tạo thách thức lớn cho các nước xuất khẩu, trong đó có Việt Nam.
Thực tế, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã liên tục giảm từ đầu năm 2025, xuống mức thấp nhất kể từ tháng 9/2022. Tính đến ngày 17/02, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn dưới 400 USD/tấn - thấp nhất trong nhóm 4 nước xuất khẩu hàng đầu gồm: Ấn Độ, Thái Lan, Việt Nam và Pakistan.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng giá gạo Việt Nam giảm mạnh trong thời gian qua. Các chuyên gia chỉ ra điểm chung là do Ấn Độ nới lỏng lệnh cấm xuất khẩu, nhu cầu nhập khẩu của các thị trường lớn như Philippines, Indonesia suy giảm, đặc biệt Philippines kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu nhằm hỗ trợ sản xuất trong nước, khiến lượng đơn hàng từ thị trường này giảm mạnh.
Việc giá gạo giảm càng đáng lo ngại khi Việt Nam bước vào vụ thu hoạch Đông - Xuân với sản lượng dồi dào, nhưng nhu cầu từ các nhà nhập khẩu lại yếu, khiến nhiều doanh nghiệp lo ngại giá gạo sẽ tiếp tục giảm.
Thế Mạnh
FILI - 13:00:00 26/02/2025
Ngành gạo 2024: Xuất khẩu "vàng ròng", lợi nhuận "hạt cát"
Xuất khẩu gạo năm 2024 lập đỉnh về giá trị, nhưng lợi nhuận của doanh nghiệp thực tế chỉ như "hạt cát" giữa cơn sóng lớn. Áp lực chi phí, biên lợi nhuận thấp và những khó khăn nội tại khiến ngành gạo rơi vào nghịch lý "bán nhiều nhưng chưa chắc có lời".
Xuất khẩu gạo rực rỡ
Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, Việt Nam xuất khẩu 9.03 triệu tấn gạo trong năm 2024, đạt giá trị 5.67 tỷ USD, tăng lần lượt 11.1% và 21.2% so với năm 2023. Đây là những con số kỷ lục của ngành gạo Việt Nam, đồng thời 2024 cũng là năm thứ 5 liên tiếp kim ngạch xuất khẩu gạo ghi nhận tăng trưởng dương.
Gạo Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu sang các nước ASEAN, chiếm 71% tổng lượng xuất khẩu, tương đương trên 6.4 triệu tấn, tăng 31% so với năm trước. Trong đó, Philippines là thị trường lớn nhất với hơn 4.2 triệu tấn, tăng 34.7%.
Ảnh: ABS Research
Giá gạo xuất khẩu bình quân năm 2024 cũng đạt mức kỷ lục 627 USD/tấn, tăng 9.1% so với năm trước. Trong 9 tháng đầu năm, giá gạo nội địa duy trì ở mức cao nhưng giảm mạnh vào quý 4/2024 do nhu cầu chững lại từ các thị trường tiêu thụ chính và tác động từ việc Ấn Độ dỡ bỏ hạn chế xuất khẩu gạo.
"Mặt trái" của kỷ lục xuất khẩu
Dù xuất khẩu gạo lập kỷ lục, hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành lại không như kỳ vọng. Theo dữ liệu từ VietstockFinance, tổng doanh thu thuần của 9 doanh nghiệp gạo trên các sàn HOSE, HNX và UPCoM đạt 40,400 tỷ đồng, giảm 5% so với năm trước. Lãi ròng giảm mạnh hơn một nửa, chỉ còn 80 tỷ đồng. Biên lãi gộp trung bình giảm nhẹ 0.1 điểm %, còn 8.6%.
Thực tế, gạo là thị trường có biên lợi nhuận thấp và nhiều rủi ro. Do đó, các doanh nghiệp thường chịu áp lực từ chi phí lãi vay cao, áp lực thu mua từ nông dân, giá thành lúa đầu vào.
Nhìn chung, bức tranh kinh doanh năm 2024 của các doanh nghiệp gạo Việt Nam hiện lên với nhiều gam màu khác biệt, phản ánh những khó khăn và thách thức mà ngành phải đối mặt.
"Mưa" giảm lãi bao trùm ngành gạo
Vinaseed (NSC) dù biên lãi gộp vẫn ở mức cao (29.7%), nhưng cũng đã giảm 1.5 điểm phần trăm so với cùng kỳ, kéo theo lãi ròng giảm nhẹ 3%, xuống gần 218 tỷ đồng - mức thấp nhất trong 4 năm qua. Trong khi đó, doanh thu năm 2024 đạt mức đỉnh mới 2,449 tỷ đồng, tăng 20% so với năm 2023.
Tương tự, Giống cây trồng Miền Nam (SSC) cũng chứng kiến biên lãi gộp thu hẹp 4.1 điểm %, xuống 28.7%, khiến lãi ròng giảm mạnh 22% so với năm 2023, chỉ còn 42.5 tỷ đồng. Đây cũng là mức thấp nhất trong 4 năm, dù doanh thu tăng 29%, lên 388 tỷ đồng.
SSC lý giải nguyên nhân lợi nhuận giảm còn do Công ty không phát sinh thu nhập từ việc thanh lý tài sản cố định và thu nhập nhận được từ lợi nhuận được chia từ công ty liên kết như năm ngoái.
Vinafood II (VSF) dù thoát lỗ nhưng lại giảm lợi nhuận mạnh nhất ngành. Lãi ròng năm 2024 chỉ đạt 4.2 tỷ đồng, lao dốc 82% so với năm trước. Riêng quý 4, lãi ròng của VSF giảm tới 92%, chỉ còn 1.5 tỷ đồng, chủ yếu do những tháng cuối năm tình hình thị trường xuất khẩu gạo và tỷ giá đồng USD có nhiều biến động.
Doanh thu 2024 của VSF đạt 21,460 tỷ đồng, cao nhất ngành, tương đương thu bình quân gần 59 tỷ đồng/ngày, nhưng biên lãi gộp chỉ còn 7.6%, giảm 0.3 điểm % so với cùng kỳ.
Sau cổ phần hóa năm 2018, VSF gặp nhiều khó khăn do các sai phạm của lãnh đạo cũ và nhiều năm thua lỗ liên tiếp. Công ty chỉ mới có lãi từ năm 2023 với 23 tỷ đồng, chấm dứt chuỗi lỗ kéo dài cả thập niên (2013-2022). Dù vậy, đến cuối năm 2024, VSF vẫn gánh lỗ lũy kế 2,789 tỷ đồng.
Tại Hội nghị tổng kết năm 2024, Ban lãnh đạo VSF đã nhắc lại giai đoạn đầy thách thức trước năm 2022. Từ chỗ hoạt động sản xuất, kinh doanh thua lỗ, tài chính không lành mạnh, các tổ chức tín dụng "quay lưng", mất lòng tin đối với bạn hàng, đến nay, Công ty đã khôi phục vị thế dẫn đầu trong ngành lúa gạo, lấy lại được niềm tin từ các đối tác.
Kigimex (KGM) cũng không tránh khỏi khó khăn khi lãi ròng thấp nhất 5 năm qua, đạt 5.2 tỷ đồng, giảm 58% so với năm trước. Mặc dù doanh thu cán mức kỷ lục mới 7,403 tỷ đồng (tăng 2%), kết quả kinh doanh vẫn bị ảnh hưởng bởi quý 4 thua lỗ 5.3 tỷ đồng, do thị trường xuất khẩu trầm lắng và giá phụ phẩm giảm.
Trong khi phần lớn doanh nghiệp ngành gạo báo lãi giảm sút, Afiex (AFX) và Thương mại Kiên Giang (KTC) nổi lên như 2 điểm sáng hiếm hoi. AFX lãi ròng gần 28 tỷ đồng, tăng 5% so với năm trước, nhờ khoản lợi nhuận khác hơn 2.8 tỷ đồng trong quý cuối năm. Còn KTC đạt lãi ròng gần 26 tỷ đồng, tăng nhẹ 1% và là mức cao nhất trong 4 năm qua.
"Bóng ma" thua lỗ
Sau giai đoạn 6 năm thua lỗ liên tiếp (2016-2021), Foodcosa (FCS) mới có 2 năm lãi trở lại (2022-2023) thì bất ngờ báo lỗ 1.5 tỷ đồng trong năm 2024. Khoản lỗ này chủ yếu do trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho, khiến lỗ lũy kế tăng lên hơn 194 tỷ đồng.
FCS cho biết, tình hình tài chính vẫn rất khó khăn với vốn lưu động âm, chưa nhận được hỗ trợ vốn từ tổ chức nào, đồng thời phải gánh chịu chi phí khấu hao, định phí lớn và chi phí nhân công. Công ty cam kết sẽ nỗ lực giảm lỗ và cải thiện hiệu quả kinh doanh trong năm 2025, thông qua các giải pháp như đẩy mạnh kinh doanh gạo, xăng dầu, tăng cường dịch vụ và cắt giảm chi phí.
Angimex (AGM) - doanh nghiệp gạo lâu năm tại An Giang - tiếp tục chìm sâu vào khủng hoảng sau biến cố của nhóm Louis Holdings từ năm 2022. Năm 2024, AGM lỗ ròng kỷ lục 251 tỷ đồng, lỗ cả 4 quý và là năm thua lỗ thứ 3 liên tiếp. Riêng quý 4/2024, AGM lỗ nặng nhất với 140 tỷ đồng.
Nguyên nhân chủ yếu do kinh doanh dưới giá vốn, chi phí hoạt động hàng chục tỷ đồng và lỗ từ công ty liên doanh, liên kết. Lỗ lũy kế của AGM tính đến cuối năm 2024 đã vượt quá 417 tỷ đồng, âm vốn chủ sở hữu hơn 235 tỷ đồng.
Việc này khiến cổ phiếu AGM đối diện nguy cơ bị hủy niêm yết bắt buộc từ HOSE, theo công văn số 73 ngày 23/2/2025, nếu BCTC hợp nhất kiểm toán năm 2024 tiếp tục thua lỗ hoặc vốn chủ sở hữu âm.
Kinh doanh thua lỗ cũng khiến AGM liên tục chậm trả lãi và gốc trái phiếu AGMH2123001 và AGMH2223001. Công ty đang trong quá trình thanh lý tài sản để cải thiện dòng tiền, gần đây nhất là kế hoạch bán 55% vốn góp tại Công ty TNHH Lương thực Angimex (Angimex Food) để giảm áp lực nợ hơn 347 tỷ đồng tại BIDV CN Bắc An Giang, dù đã tái cơ cấu khoản vay nhiều lần trong 2 năm qua.
Ông lớn "ngã ngựa"
2 "ông lớn" ngành lúa gạo - Trung An (TAR) và Lộc Trời (LTG) thậm chí còn chưa thể công bố BCTC quý 4/2024, cho thấy tương lai đầy bất định sau loạt biến cố.
TAR lún sâu trong khủng hoảng tài chính. Sau khi lợi nhuận giảm năm 2022, Công ty lỗ ròng 16 tỷ đồng năm 2023 và tiếp tục lỗ 31 tỷ đồng trong 9 tháng đầu năm 2024, chủ yếu do chi phí sản xuất và lãi vay đều tăng. Trước đó, kiểm toán từ chối đưa ý kiến đối với BCTC năm 2023 và bán niên 2024, dẫn đến cổ phiếu TAR bị hủy niêm yết trên HNX, chỉ còn được giao dịch hạn chế trên UPCoM.
Tương tự, LTG cũng chưa công bố BCTC quý 4/2024 và liên tục xin gia hạn công bố các BCTC trước đó với lý do "bất khả kháng". Việc chậm nộp BCTC khiến cổ phiếu LTG bị hạn chế giao dịch trên UPCoM.
Công ty cũng vướng lùm xùm về quản trị khi cáo buộc cựu Tổng giám đốc Nguyễn Duy Thuận có hành vi gian dối, gây thất thoát tài sản và hàng loạt biến động nhân sự cấp cao. Kế hoạch tổ chức ĐHĐCĐ bất thường của LTG vào ngày 20/12/2024 cũng bị hoãn, do thiếu hồ sơ ứng cử thành viên BKS.
Theo BCTC quý 1/2024, LTG ghi nhận doanh thu tăng nhưng lợi nhuận gộp giảm và lỗ ròng 96 tỷ đồng. Năm 2023, lãi ròng của LTG sau kiểm toán cũng giảm sâu 96% so với năm 2022, còn chưa tới 17 tỷ đồng.
LTG là một trong những cổ phiếu giảm giá mạnh nhất trong năm 2024. Ảnh: VietstockFinance
Gạo Việt 2025: "Cơn sóng dữ" nào đang chờ đợi?
Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) dự báo xuất khẩu gạo năm 2025 sẽ gặp khó khăn và có thể giảm xuống 7.5 triệu tấn, phản ánh sự dịch chuyển trong cán cân cung - cầu.
Dự báo mới nhất của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) cho thấy, nguồn cung gạo toàn cầu niên vụ 2024-2025 sẽ đạt kỷ lục 527.6 triệu tấn. Giá gạo có thể tiếp tục giảm trong nửa đầu năm 2025 trước khi ổn định vào cuối năm, tạo thách thức lớn cho các nước xuất khẩu, trong đó có Việt Nam.
Thực tế, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã liên tục giảm từ đầu năm 2025, xuống mức thấp nhất kể từ tháng 9/2022. Tính đến ngày 17/02, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn dưới 400 USD/tấn - thấp nhất trong nhóm 4 nước xuất khẩu hàng đầu gồm: Ấn Độ, Thái Lan, Việt Nam và Pakistan.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng giá gạo Việt Nam giảm mạnh trong thời gian qua. Các chuyên gia chỉ ra điểm chung là do Ấn Độ nới lỏng lệnh cấm xuất khẩu, nhu cầu nhập khẩu của các thị trường lớn như Philippines, Indonesia suy giảm, đặc biệt Philippines kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu nhằm hỗ trợ sản xuất trong nước, khiến lượng đơn hàng từ thị trường này giảm mạnh.
Việc giá gạo giảm càng đáng lo ngại khi Việt Nam bước vào vụ thu hoạch Đông - Xuân với sản lượng dồi dào, nhưng nhu cầu từ các nhà nhập khẩu lại yếu, khiến nhiều doanh nghiệp lo ngại giá gạo sẽ tiếp tục giảm.
Nhìn chung, bức tranh kinh doanh quý 4/2024 và cả năm 2024 của doanh nghiệp dược trên sàn (HOSE, HNX và UPCoM) gần như đi ngang so với cùng kỳ.
Thống kê từ VietstockFinance, trong số 31 doanh nghiệp ngành dược công bố BCTC quý 4, có 18 doanh nghiệp tăng lợi nhuận (3 công ty chuyển lỗ thành lãi). Còn lại, 12 cái tên giảm lãi và 1 đơn vị thua lỗ.
Kết quả kinh doanh quý 4/2024 của các doanh nghiệp ngành dược
Ở nhóm tăng lãi, Imexpharm là cái tên nổi bật khi đạt kỷ lục lợi nhuận trong một quý với 121 tỷ đồng, tăng 67% so với cùng kỳ. Điều đáng nói, quý 4/2023 cũng là một trong những kỳ kinh doanh đạt lợi nhuận cao nhất của IMP. Doanh nghiệp cho biết, doanh thu quý 4 tăng nhờ mở rộng danh mục sản phẩm bán ra; đồng thời, chi phí bán hàng, quản lý được xử lý hiệu quả hơn.
IMP lập kỷ lục kinh doanh trong quý 4/2024
Traphaco lãi ròng 79 tỷ đồng, tăng 49%, là quý đạt mức lãi cao thứ 2 lịch sử. Tương tự IMP, TRA cũng đã tập trung vào các dòng hàng thế mạnh, qua đó làm giảm giá vốn và kéo lợi nhuận đi lên.
Một ông lớn khác là Dược Hà Tây tăng lãi gần 22%, đạt khoảng 22 tỷ đồng, lý do tương tự 2 doanh nghiệp trên. Bidiphar tăng lãi nhẹ 2%, lên 61 tỷ đồng.
Một số doanh nghiệp thậm chí tăng lãi bằng lần. SPM có doanh thu lùi nhẹ, nhưng nhờ chú trọng vào các sản phẩm có biên lợi nhuận cao, cũng như hoàn nhập được chi phí dự phòng nợ khó đòi mà đạt mức lãi ròng 10 tỷ đồng, gấp 26 lần cùng kỳ. PBC và DAN cũng lãi gấp gần 9 lần và 7 lần so với cùng kỳ, đạt lần lượt 6.5 tỷ đồng và 12 tỷ đồng.
Tuy vậy, không phải doanh nghiệp nào cũng mỉm cười, kể cả các ông lớn. Dược Việt Nam giảm lãi 38%, còn 44 tỷ đồng, do lợi nhuận từ các đơn vị liên kết và công ty con đi lùi. Lợi nhuận của Dược Hậu Giang cũng thu hẹp 20%, còn 208 tỷ đồng, do chi phí khấu hao dự án mới (nhiều khả năng là nhà máy mới Betalactam).
Kết quả kinh doanh của Dược Hậu Giang
VET là đơn vị duy nhất lỗ ròng, tổng cộng 48 tỷ đồng (cùng kỳ lãi 9.1 tỷ đồng). Tuy nhiên, nguyên nhân gây thua lỗ đến từ khoản bồi thường cho sự cố bò sữa chết sau khi tiêm vaccine tại Lâm Đồng hồi tháng 7/2024.
Lũy kế, bức tranh chung ngành dược 2024 có sự phân hóa khá mạnh. 2 cái tên lớn là IMP và DBD, dù chỉ tăng lãi nhẹ, đều lập kỷ lục lợi nhuận với con số lần lượt là 321 và 275 tỷ đồng. DVN tăng lãi 25%, lên 433 tỷ đồng.
Đối với FPT Retail , mảng dược đóng góp chính vào kết quả kinh doanh nhờ sự bứt phá của chuỗi dược phẩm Long Châu. Doanh nghiệp cho biết, chuỗi Long Châu đã mang về hơn 25 ngàn tỷ đồng doanh thu, chiếm tới 63% tổng doanh thu toàn công ty, tăng trưởng 59%. Lợi nhuận trước thuế, lãi vay và khấu hao (EBITDA) của mảng dược năm 2024 đạt 955 tỷ đồng, gấp đôi cùng kỳ.
Tuy nhiên, chiều giảm lãi cũng có sự xuất hiện của những cái tên lớn. TRA đi lùi 9%, lãi ròng 239 tỷ đồng, ghi nhận năm giảm lãi thứ 2 liên tiếp sau khi đạt đỉnh năm 2022. Ông lớn đầu ngành - DHG giảm lãi còn 779 tỷ đồng, thấp hơn 26% so với kỷ lục năm trước. DHT giảm lãi 16%, còn 72 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, có 2 doanh nghiệp thua lỗ trong năm 2024. VET, với ảnh hưởng từ khoản bồi thường nêu trên, chịu lỗ 38 tỷ đồng (năm trước lời 29 tỷ đồng).
Cái tên còn lại là DP2, lỗ ròng 5.2 tỷ đồng (cùng kỳ lỗ 24 tỷ đồng). Thực tế, kết quả của DP2 có thể đã tệ hơn nếu như không được Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) xóa nợ lãi tính trên lãi vay chậm trả trong quý 4, qua đó ngắt chuỗi thua lỗ kéo dài từ quý 4/2019.
Kết quả kinh doanh năm 2024 của các doanh nghiệp ngành Dược
Triển vọng sáng cho năm 2025
Các công ty chứng khoán có chung kỳ vọng tươi sáng dành cho ngành dược năm 2025. Theo ABS, quy mô thị trường năm nay dự kiến tiếp tục tăng trưởng, với 4 động lực chính: GDP đầu người tăng dự kiến từ 4,300 lên 4,900 USD, làm tăng khả năng chi tiêu cho sức khoẻ của người dân; Nhận thức của người dân về các vấn đề sức khỏe tăng; Xu hướng già hóa dân số và các chính sách hỗ trợ của Chính phủ.
SSI cũng cho rằng, triển vọng năm 2025 cho ngành dược sẽ tươi sáng hơn, với kỳ vọng các kênh chính đều tăng trưởng. Kênh bệnh viện/thuốc kê đơn (ETC) dự kiến sẽ duy trì đà tăng nhờ các chính sách thuận lợi, trong khi kênh bán lẻ (OTC) dự kiến đã chạm đáy, sẽ phục hồi một phần nhờ kinh tế tăng trưởng.
Tăng trưởng doanh thu của các công ty dự kiến đạt 12%, vượt mức trung bình của ngành trong 2 năm qua. Tăng trưởng lợi nhuận dự kiến đạt 22%, phục hồi sau năm 2024 đầy thách thức.
Tuy nhiên, rủi ro về tỷ giá có thể làm tăng giá nhập khẩu nguyên liệu trong năm 2025. Ngoài ra, tác động của các khoản đầu tư theo xu hướng của Chính sách có thể mất từ 1-2 năm để giúp tăng doanh thu và lợi nhuận của các công ty.
Dù vậy, trong ngắn hạn, Thông tư 07 vẫn là động lực chính đối với tăng trưởng doanh thu của các doanh nghiệp như IMP hay DBD, do các công ty thuốc nhập khẩu sẽ bị bất lợi so với các công ty sản xuất thuốc trong nước. Vì vậy, SSI cho rằng, mảng bệnh viện tư nhân sẽ tiếp tục phát triển, đặc biệt là các bệnh viện đa khoa tư nhân nhiều hơn 50 giường tại các tỉnh trên cả nước.
Châu An
FILI - 08:00:00 22/02/2025
Lãnh đạo mua bán cổ phiếu: Bên bán vẫn chiếm ưu thế
Thống kê thị trường trong tuần từ ngày 10-14/2/2025 cho thấy nhiều lãnh đạo và người thân vẫn muốn bán cổ phiếu dù thị trường đang hồi phục tích cực.
Thành viên HĐQT SJE thoái gần hết vốn
Ông Nguyễn Văn Sơn - Thành viên HĐQT CTCP Sông Đà 11 (HNX: SJE) đã bán gần như toàn bộ hơn 1.05 triệu cp SJE, tương đương 4.36% vốn, từ ngày 4-6/2/2025. Sau giao dịch, ông chỉ còn nắm giữ 53 cp. Việc thoái vốn nhằm đáp ứng nhu cầu cá nhân.
Ông Sơn đăng ký thoái sạch vốn từ đầu tháng 9/2024, nhưng phải đến lần thứ tư mới thành công. Ba lần trước đó không thành công vì chưa đạt mức giá kỳ vọng.
Trong thời gian giao dịch, cổ phiếu SJE không có giao dịch thỏa thuận, nhiều khả năng ông Sơn đã bán qua khớp lệnh. Với giá trung bình 20,500 đồng/cp, ước tính ông Sơn thu về khoảng 21.6 tỷ đồng.
Chủ tịch HĐQT VKC nắm gần 16% vốn
Trong thời gian từ 17/1-7/2/2025, ông Thân Xuân Nghĩa - Chủ tịch HĐQT CTCP VKC Holdings (UPCoM: VKC) đã hoàn thành mua 2 triệu cp VKC như đăng ký trước đó.
Sau giao dịch, tỷ lệ sở hữu của ông Nghĩa tại VKC tăng từ 5.19% lên 15.56%, tương đương 3 triệu cp.
Trong thời gian kể trên, cổ phiếu VKC chỉ được giao dịch trong 3 phiên 17/1, 24/1 và 7/2 do bị hạn chế giao dịch (chỉ được giao dịch vào thứ Sáu hàng tuần), vì BCTC soát xét bán niên có vốn chủ sở hữu âm và bị tổ chức kiểm toán từ chối cho ý kiến.
Dựa trên 3 phiên giao dịch này, ước tính giá trị thương vụ của Chủ tịch VKC hơn 2.1 tỷ đồng, tương đương 1,072 đồng/cp.
Động thái mới của Chủ tịch AFX sau khi không mua đủ 3 triệu cp
Ông Đặng Quang Thái - Chủ tịch HĐQT CTCP Xuất nhập khẩu Nông sản Thực phẩm An Giang (UPCoM: AFX) vừa thông báo kế hoạch mua tiếp 2 triệu cp AFX từ ngày 13/2-12/3.
Nếu thành công, Chủ tịch AFX sẽ tăng tỷ lệ sở hữu tại Công ty từ 12.8% (4.48 triệu cp) lên 18.5% (6.48 triệu cp).
Đóng cửa phiên sáng 12/2, giá AFX dừng tại mức 7,800 đồng/cp. Tạm tính theo mức giá này, ông Thái phải chi gần 16 tỷ đồng để mua thành công số cổ phần đăng ký.
Em ruột Chủ tịch CTF muốn thoái sạch vốn
Bà Trần Thị Tâm, em ruột của Chủ tịch HĐQT CTCP City Auto (HOSE: CTF), hiện đang sở hữu gần 1.41 triệu cp, chiếm 1.47% vốn điều lệ của CTF.
Theo kế hoạch, bà Tâm muốn bán toàn bộ số cổ phiếu trên từ ngày 13/2-13/3 để đáp ứng nhu cầu tài chính cá nhân.
Chiều ngược lại, từ ngày 14/2-11/3, bà Ngô Thị Hạnh, vợ ông Trần Ngọc Dân - Chủ tịch HĐQT CTF, đăng ký mua vào đúng bằng số cổ phiếu mà bà Tâm đăng ký bán.
Nếu thành công, bà Hạnh sẽ trở thành cổ đông mới của CTF, sở hữu tỷ lệ vốn 1.47%. Qua đó, tỷ lệ sở hữu của gia đình Chủ tịch Trần Ngọc Dân nâng lên mức 19.1%, với cá nhân Chủ tịch sở hữu 9.23% vốn và con trai Trần Lâm - Thành viên HĐQT CTF nắm 8.4% vốn.
Giá cổ phiếu CTF đóng phiên ngày 14/2 ở mức 19,200 đồng/cp. Chiếu theo mức giá này, ước tính giao dịch của người thân Chủ tịch CTF có giá trị hơn 27 tỷ đồng.
Danh sách lãnh đạo công ty và người thân giao dịch từ ngày 10-14/2/2025
Nguồn: VietstockFinance
Danh sách lãnh đạo công ty và người thân đăng ký giao dịch từ ngày 10-14/2/2025
Nguồn: VietstockFinance
Thị trường lúa mì – Phân tích và chiến lược thích ứng
Thị trường lúa mì toàn cầu hiện đang đối mặt với nhiều thách thức, bao gồm biến đổi khí hậu, xung đột địa chính trị và chi phí sản xuất tăng cao. Những yếu tố này đã ảnh hưởng đến sản lượng và nguồn cung lúa mì, dẫn đến biến động giá cả trên thị trường.
SẢN LƯỢNG VÀ NGUỒN CUNG CỦA LÚA MÌ:
Sản lượng giảm: Theo Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), sản lượng lúa mì toàn cầu trong niên vụ 2024/25 được dự báo giảm, đặc biệt tại các khu vực như EU, Nga, Ấn Độ và Brazil. Nguyên nhân chính là do điều kiện thời tiết bất lợi và các yếu tố địa chính trị.
Nguồn cung hạn chế: USDA dự báo nguồn cung lúa mì toàn cầu giảm 1,9 triệu tấn xuống còn 1.060,3 triệu tấn, chủ yếu do sản lượng giảm ở các quốc gia lớn. Tuy nhiên, lượng dự trữ cuối kỳ dự kiến tăng nhẹ lên 257,7 triệu tấn, nhưng vẫn ở mức thấp nhất kể từ năm 2015/16.
NHẬN ĐỊNH XU THẾ:
- Xu thế giá cả:
Giá có thể duy trì mức cao: Nguồn cung hạn chế và biến đổi khí hậu tiếp tục là yếu tố đẩy giá lúa mì lên cao trong ngắn hạn.
Biến động mạnh: Xung đột địa chính trị, đặc biệt tại các nước sản xuất lớn như Nga và Ukraine, cùng với các chính sách xuất khẩu, sẽ tạo ra sự bất ổn cho thị trường.
Chi phí sản xuất tăng: Giá phân bón, năng lượng, và vận chuyển cao tiếp tục đẩy chi phí sản xuất lên, làm tăng áp lực giá.
- Nhu cầu tiêu thụ:
Tăng mạnh tại các thị trường châu Á: Với dân số lớn và mức độ tiêu thụ cao, châu Á (đặc biệt là Ấn Độ và Trung Quốc) sẽ tiếp tục dẫn đầu nhu cầu nhập khẩu lúa mì.
Dịch chuyển sang sản phẩm thay thế: Trong bối cảnh giá tăng, một số nước có thể tìm kiếm sản phẩm thay thế như gạo hoặc các loại ngũ cốc khác.
TRIỂN VỌNG TƯƠNG LAI:
Tăng trưởng thị trường: Theo dự báo, quy mô thị trường lúa mì toàn cầu ước tính đạt 50,21 tỷ USD vào năm 2024 và dự kiến đạt 62,86 tỷ USD vào năm 2029, tăng trưởng với tốc độ CAGR là 4,60% trong giai đoạn 2024-2029.
Thách thức tiếp tục: Biến đổi khí hậu và xung đột địa chính trị dự kiến sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến sản xuất và nguồn cung lúa mì trong tương lai, đòi hỏi các biện pháp ứng phó và thích nghi từ các quốc gia sản xuất và tiêu thụ.
Hình: dữ liệu mới nhất của USDA công bố ngày 11/12/2024, Dự trữ cuối kỳ: Thấp nhất trong 12 năm.
CHIẾN LƯỢC GIAO DỊCH:
Nhà nhập khẩu:
Ký hợp đồng dài hạn để ổn định giá.
Đa dạng hóa nguồn cung để tránh phụ thuộc vào một khu vực.
Sử dụng công cụ tài chính (hedging) để bảo vệ trước biến động giá.
Nhà sản xuất:
Đầu tư công nghệ tăng năng suất.
Trồng giống chịu hạn để thích nghi biến đổi khí hậu.
Hợp tác trực tiếp với nhà tiêu thụ để giảm chi phí trung gian.
Nhà đầu tư:
Theo dõi thị trường tương lai để tận dụng biến động.
Đa dạng hóa đầu tư vào các ngành liên quan như phân bón, vận tải.
KẾT LUẬN
Tại Việt Nam, diện tích trồng lúa mì còn hạn chế và năng suất chưa cao. Ngành công nghiệp lúa mì đang trong giai đoạn phát triển, với nhu cầu nhập khẩu lúa mì để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước.
Tổng quan, thị trường lúa mì hiện tại đang trải qua nhiều biến động do các yếu tố toàn cầu và khu vực. Việc theo dõi sát sao các diễn biến và áp dụng các biện pháp thích hợp là cần thiết để đảm bảo ổn định nguồn cung và giá cả trong thời gian tới.
Nhận định chứng khoán 23-27/12: VN-Index chịu áp lực điều chỉnh, tích lũy quanh vùng 1.260 điểm
Nhà đầu tư nên tiếp tục nắm giữ danh mục và hạn chế việc tăng thêm tỷ trọng cổ phiếu đã mua tại ngưỡng hỗ trợ 1.260 điểm trước đó hoặc mở thêm vị thế mua mới. Cần chờ đợi để vị thế mua thăm dò trước đó có lợi thế thì mới gia tăng thêm tỷ trọng
VN-Index đang chịu áp lực điều chỉnh, tích lũy quanh vùng 1.260 điểm. Thị trường cũng đang vào giai đoạn chốt NAV năm 2024 của các nhà đầu tư. Đây là giai đoạn tích lũy phù hợp, trước khi chờ các động lực tăng trưởng mới như kỳ vọng vào kết quả kinh doanh quí IV/2024 và triển vọng năm 2025.
Nhà đầu tư nên tiếp tục nắm giữ danh mục và hạn chế việc tăng thêm tỷ trọng
Thị trường chứng khoán vượt qua tuần giao dịch sóng gió cuối năm tương đối yên bình so với các thị trường lớn trên thế giới. Thông điệp giảm tần suất điều chỉnh lãi suất năm 2025 của FED đã khiến thị trường tài chính toàn cầu rung chuyển. Chỉ số VN-Index cũng không nằm ngoài vòng xoáy điều chỉnh khi lao dốc hơn 11 điểm trong phiên giao dịch ngày 19/12. Trước đó là quãng bình yên với 3 phiên giao dịch giằng co trong biên độ hẹp. Tuy nhiên, lực cầu cũng luôn trực chờ ở các vùng hỗ trợ, chỉ số cho thấy phản ứng mạnh tại ngưỡng 1.250 điểm và tiếp tục quán tính hồi phục trong phiên cuối tuần. Đóng cửa tuần giao dịch từ 16/12-20/12, chỉ số VN-Index đóng cửa ở mức 1.257,50 điểm -5,07 điểm (-0,40%).
Thanh khoản thị trường tiếp tục chìm sâu, sụt giảm -19,8% so với mức bình quân 20 tuần giao dịch. Lũy kế đến cuối tuần giao dịch, thanh khoản giao dịch bình quân trên sàn HSX đạt 556 triệu cổ phiếu (-3.92%), tương đương 13.784 tỷ đồng (-3.38%) về giá trị giao dịch.
Đóng cửa tuần giao dịch từ 16/12-20/12, chỉ số VN-Index đóng cửa ở mức 1.257,50 điểm, -5,07 điểm
Độ mở thị trường trong trạng thái giằng co với 11 nhóm ngành điều chỉnh so với 10 nhóm tăng. Gây áp lực lớn lên thị trường và tâm lý giao dịch trong tuần qua là các nhóm ngành như: Hàng tiêu dùng (-2,63%), Thép (-1,53%), Ngân hàng (-1,23%), BĐS dân cư (-0,87%),... Ở chiều ngược lại, những nhóm ngành vẫn ngược dòng tăng điểm bao gồm: Công nghệ viễn thông (+4,03%), Hàng không (+3,26%), Dệt may (+2,91%),...
Theo các chuyên gia của Công ty Chứng khoán Kiến Thiết (CSI), xét trên biểu đồ tuần, VN-Index có tuần giảm thứ 2 liên tiếp, nhưng biên độ giảm đã hạ nhiệt so với tuần trước (-0,4% so -0,6%). Hơn nữa khối lượng khớp lệnh của tuần này sụt giảm mạnh so với tuần trước đó và thấp hơn (-19,75%) so với mức trung bình 20 tuần, cộng với ngưỡng hỗ trợ 1.250 được giữ vững cho thấy áp lực bán cũng không quá lớn. Điểm đáng chú ý trong tuần qua là VN-Index đã xuyên thủng ngưỡng hỗ trợ mạnh 1.260 điểm tương ứng với mốc MA200 ngày cho thấy xu hướng tiêu cực áp đảo hơn. Tuy nhiên, phiên giảm khiến VN-Index thủng mốc MA200 có phần bị ảnh hưởng bởi tâm lý tiêu cực từ thị trường Mỹ, hơn nữa cuối phiên VN-Index đã có sự hồi phục thu hẹp đáng kể đà giảm, nên sự đảo chiều xu hướng tăng trước đó là chưa đủ động lượng xác nhận.
“Nhà đầu tư nên tiếp tục nắm giữ danh mục và hạn chế việc tăng thêm tỷ trọng cổ phiếu đã mua tại ngưỡng hỗ trợ 1.260 điểm trước đó hoặc mở thêm vị thế mua mới. Cần chờ đợi để vị thế mua thăm dò trước đó có lợi thế thì mới gia tăng thêm tỷ trọng”, chuyên gia của CSI lưu ý.
VN-Index đang chịu áp lực điều chỉnh, tích lũy quanh vùng 1.260 điểm
Còn theo nhóm phân tích của Công ty Chứng khoán ASEAN (ASEANSC), thị trường tăng nhẹ trở lại sau phiên giảm mạnh ngày 19/12, tuy nhiên, lượng thanh khoản còn thấp và vận động trong ngày vẫn ở dưới mức đỉnh phiên trước cho thấy thị trường đã bắt đầu xuất hiện tín hiệu tích cực nhưng cần có các yếu tố mạnh mẽ hơn để thực sự hồi phục trở lại. Bên cạnh đó, các chỉ số vĩ mô cũng có dấu hiệu tạm chững lại diễn biến tiêu cực hiện tại khi DXY giảm nhẹ trong phiên tuy nhiên vẫn ở ngưỡng cao trên 108 điểm và DJI cũng bật tăng nhẹ trở lại trong khi các thị trường khác vẫn nối dài đà tụt dốc.
VN-Index đang chịu áp lực điều chỉnh, tích lũy quanh vùng 1.260 điểm
Trong nước, tình hình tỷ giá chưa có sự cải thiện khi giá bán đồng USD tại NHTM vẫn neo ở mức cao trên 25.500 đồng và SBV đã phải có động thái bán ra USD từ nguồn dự trữ ngoại hối để hỗ trợ thị trường trong bối cảnh áp lực tỷ giá hiện tại. Do đó, thị trường có khả năng sẽ tiếp tục rung lắc trong thời gian tới cho đến khi có tín hiệu xác nhận đà hồi phục từ các thị trường thế giới và theo đó, các biến số vĩ mô và chính sách tiền tệ trong nước được “cởi bỏ” bớt áp lực.
“Nhà đầu tư nên theo sát diễn biến DXY, tỷ giá, hoạt động của SBV và đặc biệt là vận động của các thị trường thế giới để xác định xu hướng thị trường trong ngắn hạn. Chúng tôi vẫn đánh giá cao triển vọng thị trường trong trung và dài hạn, nhà đầu tư nên tập trung vào các cổ phiếu có nền tảng cơ bản tốt và triển vọng kinh doanh tích cực, có thể cân nhắc giải ngân dần khi thị trường có dấu hiệu hồi phục trở lại với thanh khoản gia tăng, trong bối cảnh VN-Index hiện tại đang có mức định giá hấp dẫn”, chuyên gia của ASEANSC nêu quan điểm.
Các chuyên gia của Công ty Chứng khoán Sài Gòn – Hà Nội (SHS) nhận định, xu hướng ngắn hạn, VN-Index dưới áp lực của VN30 đã suy yếu hơn khi giao dịch dưới giá trung bình 200 phiên, nhưng vẫn trên vùng hỗ trợ quanh 1.250 điểm. VN-Index đang chịu áp lực tâm lý từ thị trường thế giới, áp lực tỉ giá cũng như áp lực giảm dư nợ vay ký quỹ khi thị trường đang vào giai đoạn cuối năm. Xu hướng trung hạn, VN-Index duy trì trong kênh tích lũy rộng tính từ đầu năm đến nay trong vùng 1.200 điểm đến 1.300 điểm, với vùng giá cân bằng quanh 1.250 điểm.
Hiện tại vốn hóa toàn thị trường khoảng 295 tỉ USD. Đây là vùng vốn hóa hợp lý của thị trường, tương đối hấp dẫn so với qui mô nền kinh tế, với tăng trưởng GDP năm 2025 kế hoạch tăng 7%. Chất lượng nội tại thị trường vẫn cải thiện sau thời gian tích lũy kéo dài từ đầu năm 2024 đến nay. Nhiều mã, nhóm mã đang ở vùng giá hợp lý, mở ra nhiều cơ hội tốt.
“Ngắn hạn, VN-Index đang chịu áp lực điều chỉnh, tích lũy quanh vùng 1.260 điểm. Thị trường cũng đang vào giai đoạn chốt giá trị tài sản ròng (NAV) năm 2024 của các nhà đầu tư. Đây là giai đoạn tích lũy phù hợp, trước khi chờ các động lực tăng trưởng mới như kỳ vọng vào tăng trưởng kết quả kinh doanh quí IV/2024 và triển vọng năm 2025. Nhà đầu tư nên duy trì tỉ trọng hợp lý. Xem xét chọn lọc giải ngân các mã cơ bản tốt, kỳ vọng tiếp tục duy trì tăng trưởng. Mục tiêu đầu tư hướng tới các mã cổ phiếu đầu ngành, nền tảng cơ bản tốt”, chuyên gia của SHS khuyến nghị.
Lãnh đạo mua bán cổ phiếu: Gió đã đổi chiều?
Trong 3 tuần gần đây, lãnh đạo và người thân đều đua nhau “gom” cổ phiếu, thì theo thống kê giao dịch trong tuần từ ngày 9-13/12/2024 cho thấy, lãnh đạo và người thân đã đổi chiều sang bán nhiều hơn mua.
Phó Chủ tịch DNW tiếp tục mua cổ phiếu
Sau khi mua xong 500 ngàn cp DNW vào cuối tháng 10/2024, ông Nguyễn Văn Thiền – Phó Chủ tịch HĐQT CTCP Cấp nước Đồng Nai (UPCoM: DNW) tiếp tục mua thành công thêm 700 ngàn cp từ ngày 6-9/12.
Mục đích mua thêm cổ phiếu của Phó Chủ tịch DNW nhằm gia tăng tỷ lệ sở hữu. Sau giao dịch, ông Thiền tăng sở hữu tại Công ty từ 500 ngàn cp (tỷ lệ 0.42%) lên mức 1.2 triệu cp (1.01%).
Được biết, ngoài giữ chức Phó Chủ tịch HĐQT DNW, ông Thiền hiện đang giữ vai trò chủ chốt trong HĐQT nhiều doanh nghiệp như: Chủ tịch HĐQT Tổng Công ty nước – môi trường Bình Dương (HOSE: BWE), Thành viên HĐQT Tổng Công ty Sản xuất – Xuất nhập khẩu Bình Dương (UPCoM: PRT) và CTCP Cấp thoát nước Cần Thơ (UPCoM: CTW).
Trong thời gian này có đúng 700 ngàn cp DNW được giao dịch thỏa thuận với giá trị 17.5 tỷ đồng. Nhiều khả năng đây cũng là số tiền mà ông Thiền đã bỏ ra để tăng sở hữu tại DNW.
Lãnh đạo TDM mua thành công 1 triệu cp
Ông Nguyễn Thanh Phong - Thành viên CTCP Nước Thủ Dầu Một (HOSE: TDM) thông báo đã mua 1 triệu cp TDM nhằm cơ cấu danh mục đầu tư. Giao dịch được thực hiện từ 19/11-10/12/2024.
Trong thời gian kể trên, giá trung bình của TDM khoảng 50,000 đồng/cp. Tạm tính theo giá này, ước tính ông Phong đã chi 50 tỷ đồng để mua số cổ phiếu trên.
Sau giao dịch, ông Phong nâng tỷ lệ sở hữu từ 0% lên 0.9% vốn TDM. Trong khi đó, tổ chức liên quan đến ông Phong là Công ty TNHH Thương mại N.T.P đang sở hữu 4.18% vốn TDM, tương đương 4.6 triệu cp.
Phó Chủ tịch PNJ muốn mua 4 triệu cp
Bà Trần Phương Ngọc Thảo - Phó Chủ tịch HĐQT CTCP Vàng bạc Đá quý Phú Nhuận (HOSE: PNJ) vừa đăng ký mua 4 triệu cp PNJ để tăng tỷ lệ sở hữu. Giao dịch dự kiến thực hiện từ 18/12/2024-16/1/2025.
Nếu thành công, bà Thảo sẽ tăng sở hữu tại PNJ từ 2.33% lên 3.51% vốn, tương ứng gần 11.9 triệu cp. Tạm tính giá đóng cửa phiên 12/12 là 96,800 đồng/cp (tăng 23% qua 1 năm), ước tính bà Thảo cần chi hơn 387 tỷ đồng để mua vào số cổ phiếu trên.
Bà Trần Phương Ngọc Thảo (sinh năm 1984) tham gia vào HĐQT PNJ từ năm 2020 và hiện giữ chức Phó Chủ tịch Công ty. Ngoài ra, bà đang đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng tại các công ty con của PNJ như Chủ tịch Công ty TNHH MTV Giám định PNJ; Giám đốc Công ty TNHH Đối tác Vinh An.
Bà Thảo là con của bà Cao Thị Ngọc Dung - Chủ tịch HĐQT PNJ, bên cạnh là hai em gái Trần Phương Ngọc Giao và Trần Phương Ngọc Hà.
Chủ tịch AFX muốn trở thành cổ đông lớn nhất
Ông Đặng Quang Thái - Chủ tịch HĐQT CTCP Xuất nhập khẩu Nông sản Thực phẩm An Giang (UPCoM: AFX) đăng ký mua vào 3 triệu cp AFX từ 16/12/2024-14/1/2025.
Nếu giao dịch thành công, tỷ lệ sở hữu của ông tại Công ty sẽ tăng từ 8.14% lên 16.71%, tương đương 5.85 triệu cp, qua đó trở thành cổ đông lớn nhất của AFX.
Được biết, cổ đông lớn nhất hiện tại của AFX là CTCP Dịch vụ tài chính và Mua bán nợ Việt Nam với tỷ lệ 15.11%. Đơn vị này đã mua vào 810,000 cp trong phiên 8/11/2024 để đạt mức sở hữu như trên.
Mặt khác, chiếu theo giá kết phiên 13/12 (8,300 đồng/cp), ước tính ông Thái cần chi gần 25 tỷ đồng để có thể mua toàn bộ số cổ phiếu đã đăng ký.
Danh sách lãnh đạo công ty và người thân giao dịch từ ngày 9-13/12/2024
Nguồn: VietstockFinance
Danh sách lãnh đạo công ty và người thân đăng ký giao dịch từ ngày 9-13/12/2024
Nguồn: VietstockFinance
Etiqueta blanca
API de datos
Complementos web
Creador de carteles
Programa de afiliados
El riesgo de pérdida en el comercio de activos financieros como acciones, divisas, materias primas, futuros, bonos, ETF o criptomonedas puede ser considerable. Puede sufrir una pérdida total de los fondos que deposita con su corredor. Por lo tanto, debe considerar cuidadosamente si dicha negociación es adecuada para usted tomando en cuenta sus circunstancias y recursos financieros.
No se debe considerar invertir sin llevar a cabo, su propia diligencia de manera minuciosa o consultar con sus asesores financieros. Nuestro contenido web puede no ser adecuado para usted, ya que no conocemos su situación financiera ni sus necesidades de inversión. Es posible que nuestra información financiera tenga latencia o contenga inexactitudes, por lo que usted debe ser completamente responsable de cualquiera de sus transacciones y decisiones de inversión. La empresa no se hará responsable de su capital perdido.
Sin obtener el permiso del sitio web, no se le permite copiar los gráficos, textos o marcas comerciales del sitio web. Los derechos de propiedad intelectual sobre los contenidos o datos incorporados a este sitio web pertenecen a sus proveedores y comerciantes de intercambio.