Cotizaciones
Noticias
Análisis
Usuario
24/7
Calendario económico
Educación
Datos
- Nombres
- Último
- Anterior
A:--
P: --
A:--
P: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
A:--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
--
P: --
A: --
Sin datos que coincidan
Gráficos Gratis para siempre
Charlar P&R con expertos Filtros Calendario económico Datos HerramientaMembresía CaracterísticasTendencias del mercado
Indicadores populares
Últimas perspecivas
Últimas perspecivas
Temas en Tendencia
La inflación, los tipos de cambio y la economía dan forma a las decisiones políticas de los bancos centrales; Las actitudes y palabras de los funcionarios del banco central también influyen en las acciones de los operadores del mercado.
En el mundo de la humanidad no habrá una declaración sin posición, ni un comentario sin propósito.
La economía está hoy en el centro de toda actividad. Los datos económicos y los cambios de indicadores, los ajustes de políticas y los modelos emergentes afectan las decisiones de los comerciantes.
Vea ideas comerciales y aprenda estrategias comerciales.
Columnistas Principales
Disfruta de emocionantes actividades, aquí mismo en FastBull.
Las últimas noticias de última hora y los acontecimientos financieros mundiales.
Cuento con 5 años de experiencia en análisis financiero, especialmente en aspectos de desarrollo macro y juicio de tendencias de mediano y largo plazo. Mi atención se centra principalmente en los acontecimientos de Oriente Medio, los mercados emergentes, el carbón, el trigo y otros productos agrícolas.
Entrenador y orador jefe de operaciones de BeingTrader, más de 8 años de experiencia en el mercado de divisas operando principalmente con XAUUSD, EUR/USD, GBP/USD, USD/JPY y petróleo crudo. Un comerciante y analista confiado que tiene como objetivo explorar diversas oportunidades y guiar a los inversores en el mercado. Como analista, busco mejorar la experiencia del operador apoyándolo con suficientes datos y señales.
Última actualización
Risk Warning on Trading HK Stocks
Despite Hong Kong's robust legal and regulatory framework, its stock market still faces unique risks and challenges, such as currency fluctuations due to the Hong Kong dollar's peg to the US dollar and the impact of mainland China's policy changes and economic conditions on Hong Kong stocks.
HK Stock Trading Fees and Taxation
Trading costs in the Hong Kong stock market include transaction fees, stamp duty, settlement charges, and currency conversion fees for foreign investors. Additionally, taxes may apply based on local regulations.
HK Non-Essential Consumer Goods Industry
The Hong Kong stock market encompasses non-essential consumption sectors like automotive, education, tourism, catering, and apparel. Of the 643 listed companies, 35% are mainland Chinese, making up 65% of the total market capitalization. Thus, it's heavily influenced by the Chinese economy.
HK Real Estate Industry
In recent years, the real estate and construction sector's share in the Hong Kong stock index has notably decreased. Nevertheless, as of 2022, it retains around 10% market share, covering real estate development, construction engineering, investment, and property management.
Hongkong, China
Vietnam·Ho Chi Minh
Dubai, UAE
Lagos, Nigeria
El Cairo, Egipto
Etiqueta blanca
API de datos
Complementos web
Programa de afiliados
Ver todo
Sin datos
No conectado
Inicia sesión para acceder a más funciones
Membresía FastBull
Todavia no
Comprar
Iniciar sesión
Registrarse
Hongkong, China
Vietnam·Ho Chi Minh
Dubai, UAE
Lagos, Nigeria
El Cairo, Egipto
Etiqueta blanca
API de datos
Complementos web
Programa de afiliados
Ngân hàng lãi cao nhất quý 4/2024
Quý 4/2024, Vietcombank không phải là ngân hàng có lợi nhuận cao nhất. Vị trí Top 1 thuộc về VietinBank với sự bứt phá mạnh so với cùng kỳ và so với cả các quý trước.
BCTC hợp nhất quý 4/2024 vừa công bố, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV, HOSE: BID) lãi trước thuế hơn 9,336 tỷ đồng, tăng 19% so với cùng kỳ năm trước, nhờ đẩy mạnh các nguồn thu ngoài lãi.
Trong riêng quý 4/2024, hoạt động chính của BIDV có phần đi ngang khi thu được 15,638 tỷ đồng thu nhập lãi thuần, chỉ tăng 5% so với cùng kỳ năm trước.
Điểm nổi bật trong quý cuối năm của ngân hàng này là đẩy mạnh các nguồn thu ngoài lãi. Hoạt động dịch vụ lãi gần 1,967 tỷ đồng, tăng 22% so với cùng kỳ. Hoạt động mua bán chứng khoán kinh doanh lãi gần 104 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ chỉ vỏn vẹn 12 tỷ. Lãi từ mua bán chứng khoán đầu tư cũng tăng 65%, lên 5,164 tỷ đồng. Đáng chú ý hơn là hoạt động khác chuyển lỗ thành lãi hơn 1,949 tỷ đồng.
Dù chi phí hoạt động tăng đến 20%, lên 9,382 tỷ đồng, nhờ kết quả kinh doanh tăng trưởng, lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh của BIDV tăng 33%, lên hơn 17,023 tỷ đồng.
Trong quý cuối năm, BIDV trích gần 7,687 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, tăng 56%, mặc dù vậy lãi trước thuế vẫn tăng 19%, đạt hơn 9,336 tỷ đồng.
Lũy kế cả năm 2024, BIDV lãi trước thuế hơn 31,383 tỷ đồng, tăng 14% so với năm trước.
Kết quả kinh doanh quý 4 và năm 2024 của BID. Đvt: Tỷ đồngNguồn: VietstockFinance
Tổng tài sản tại thời điểm cuối năm 2024 của BIDV vượt 2.76 triệu tỷ đồng, tăng trưởng 20% so với đầu năm. Trong đó, tiền gửi tại NHNN tăng đến 79% (92,341 tỷ đồng), cho vay khách hàng tăng 16% (gần 2.1 triệu tỷ đồng). Tiền gửi khách hàng tăng 15%, lên hơn 1.95 triệu tỷ đồng.
Tổng nợ xấu tính đến 31/12/2024 của BIDV là 29,035 tỷ đồng, tăng 30% so với đầu năm. Tỷ lệ nợ xấu/dư nợ nhích nhẹ từ mức 1.26% đầu năm lên 1.41%.
Chất lượng nợ vay của BID tính đến 31/12/2024. Đvt: Tỷ đồngNguồn: VietstockFinance
Hàn Đông
FILI - 09:12:48 25/01/2025
Tăng thu ngoài lãi, lợi nhuận trước thuế quý 4 của BIDV tăng 19%
BCTC hợp nhất quý 4/2024 vừa công bố, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV, HOSE: BID) lãi trước thuế hơn 9,336 tỷ đồng, tăng 19% so với cùng kỳ năm trước, nhờ đẩy mạnh các nguồn thu ngoài lãi.
Trong riêng quý 4/2024, hoạt động chính của BIDV có phần đi ngang khi thu được 15,638 tỷ đồng thu nhập lãi thuần, chỉ tăng 5% so với cùng kỳ năm trước.
Điểm nổi bật trong quý cuối năm của ngân hàng này là đẩy mạnh các nguồn thu ngoài lãi. Hoạt động dịch vụ lãi gần 1,967 tỷ đồng, tăng 22% so với cùng kỳ. Hoạt động mua bán chứng khoán kinh doanh lãi gần 104 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ chỉ vỏn vẹn 12 tỷ. Lãi từ mua bán chứng khoán đầu tư cũng tăng 65%, lên 5,164 tỷ đồng. Đáng chú ý hơn là hoạt động khác chuyển lỗ thành lãi hơn 1,949 tỷ đồng.
Dù chi phí hoạt động tăng đến 20%, lên 9,382 tỷ đồng, nhờ kết quả kinh doanh tăng trưởng, lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh của BIDV tăng 33%, lên hơn 17,023 tỷ đồng.
Trong quý cuối năm, BIDV trích gần 7,687 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, tăng 56%, mặc dù vậy lãi trước thuế vẫn tăng 19%, đạt hơn 9,336 tỷ đồng.
Lũy kế cả năm 2024, BIDV lãi trước thuế hơn 31,383 tỷ đồng, tăng 14% so với năm trước.
Kết quả kinh doanh quý 4 và năm 2024 của BID. Đvt: Tỷ đồng
Nguồn: VietstockFinance
Tổng tài sản tại thời điểm cuối năm 2024 của BIDV vượt 2.76 triệu tỷ đồng, tăng trưởng 20% so với đầu năm. Trong đó, tiền gửi tại NHNN tăng đến 79% (92,341 tỷ đồng), cho vay khách hàng tăng 16% (gần 2.1 triệu tỷ đồng). Tiền gửi khách hàng tăng 15%, lên hơn 1.95 triệu tỷ đồng.
Tổng nợ xấu tính đến 31/12/2024 của BIDV là 29,035 tỷ đồng, tăng 30% so với đầu năm. Tỷ lệ nợ xấu/dư nợ nhích nhẹ từ mức 1.26% đầu năm lên 1.41%.
Chất lượng nợ vay của BID tính đến 31/12/2024. Đvt: Tỷ đồng
Nguồn: VietstockFinance
Cổ phiếu ngân hàng: Điểm sáng giữa dòng tiền yếu
Tâm lý nghỉ Tết hiện hữu, nhà đầu tư lười bắt đáy chứng khoán.
Thanh khoản thị trường chứng khoán tiếp tục ảm đạm, phản ánh sự thận trọng của dòng tiền bắt đáy trong bối cảnh thiếu vắng nhóm cổ phiếu dẫn dắt.
Thị trường chứng khoán đang trong giai đoạn điều chỉnh khi VN-Index chạm vùng kháng cự 1.250 điểm. Tâm lý nghỉ lễ cận kề khiến dòng tiền trở nên thận trọng, đặc biệt khi nhà đầu tư lo ngại các diễn biến bất ngờ từ thị trường quốc tế trong thời gian nghỉ giao dịch.
Thêm vào đó, sự phân hóa giữa các nhóm cổ phiếu đang ngày càng rõ rệt khi doanh nghiệp lần lượt công bố kết quả kinh doanh năm 2024 và kế hoạch 2025. Nổi bật trong bối cảnh này là nhóm cổ phiếu ngân hàng, thu hút sự chú ý nhờ lợi nhuận khả quan.
Tăng trưởng tín dụng tiếp tục là yếu tố then chốt giúp các ngân hàng cải thiện lợi nhuận. Dẫn đầu nhóm “Big 4” là Vietcombank với lợi nhuận trước thuế ước đạt 43.000 tỉ đồng, tăng gần 5% so với năm trước. BIDV, Agribank và VietinBank cũng ghi nhận lợi nhuận khả quan, lần lượt đạt 30.000 tỉ đồng, 28.000 tỉ đồng, và 26.300 tỉ đồng.
Ở khối ngân hàng tư nhân, MBBank dự kiến dẫn đầu nhóm với lợi nhuận trước thuế đạt gần 29.000 tỉ đồng, Techcombank đạt 27.100 tỉ đồng, trong khi ACB và HDBank lần lượt ghi nhận mức 22.000 tỉ đồng và 16.000 tỉ đồng.
Theo Công ty Chứng khoán Vietcombank (VCBS), lợi nhuận ngành ngân hàng năm 2025 được kỳ vọng tăng 15%, với biên lãi ròng (NIM) tăng nhẹ nhờ mặt bằng lãi suất huy động ổn định. Bên cạnh đó, sự phục hồi của ngành bất động sản dự kiến sẽ cải thiện tình trạng nợ xấu, nâng cao chất lượng tài sản và hỗ trợ tăng trưởng của các ngân hàng.
Về xu hướng ngắn hạn, các chuyên gia của Công ty Chứng khoán SHS nhận định VN-Index đang chịu áp lực điều chỉnh tại vùng kháng cự 1.255-1.260 điểm, trong khi nhóm VN30 cũng đối mặt nguy cơ kiểm tra lại vùng hỗ trợ trung bình 200 phiên. Nếu không giữ được vùng hỗ trợ này, tâm lý thị trường có thể trở nên tiêu cực hơn.
Tuy nhiên, Công ty Chứng khoán Yuanta đưa ra góc nhìn lạc quan hơn, dự báo VN-Index có thể biến động trong vùng 1.240 - 1.245 điểm. Đồng thời, dòng tiền có xu hướng tập trung vào nhóm cổ phiếu vốn hóa trung bình (Mid Caps), với rủi ro ngắn hạn đang giảm dần và cơ hội đầu tư tiếp tục gia tăng.
Nhìn chung, dù còn nhiều thách thức, thị trường chứng khoán vẫn có triển vọng phục hồi nhờ sự dẫn dắt của nhóm cổ phiếu ngân hàng và động lực từ sự cải thiện kinh tế trong năm 2025.
Nhiều yếu tố hỗ trợ cổ phiếu “vua”
Tín dụng tăng cao nhờ kinh tế phục hồi mạnh, định giá hấp dẫn, sự khởi sắc của thị trường bất động sản… là các yếu tố tích cực đối với nhóm cổ phiếu ngân hàng.
Vĩ mô nâng đỡ lợi nhuận ngân hàng
Theo Tổng cục Thống kê, GDP năm 2024 tăng 7,09%, cho thấy sự phục hồi tốt hơn của nền kinh tế sau đại dịch Covid-19. Kinh tế phục hồi kéo theo nhu cầu vốn tăng, thể hiện ở mức tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống ngân hàng là 15,08%, cao hơn mức 13,71% của năm 2023.
Tín dụng tăng mạnh là yếu tố chính giúp lợi nhuận của nhiều nhà băng được cải thiện đáng kể. Dự kiến dẫn đầu câu lạc bộ lợi nhuận tỷ USD năm 2024 vẫn là anh cả nhóm “Big 4” - Vietcombank, với lợi nhuận trước thuế ước tính đạt 43.000 tỷ đồng, tăng gần 5% so với năm 2023. Ba ngân hàng khác trong nhóm cũng ước đạt lợi nhuận khả quan: BIDV ước lãi trước thuế hơn 30.000 tỷ đồng, tăng 12,4%; Agribank ước lãi trước thuế gần 28.000 tỷ đồng, tăng trên 8%; VietinBank có khả năng vượt mức lợi nhuận kế hoạch là 26.300 tỷ đồng (ngân hàng mẹ).
Ở khối ngân hàng tư nhân, MBBank dự kiến sẽ dẫn đầu nhóm lợi nhuận tỷ USD năm 2024, với lợi nhuận trước thuế hợp nhất ước đạt gần 29.000 tỷ đồng, tăng 9 - 10%; tiếp theo là Techcombank, ước vượt mức lãi trước thuế mục tiêu là 27.100 tỷ đồng. Đứng sau nhóm tỷ USD là ACB với lợi nhuận trước thuế ước đạt 22.000 tỷ đồng, HDBank là 16.000 tỷ đồng, Sacombank là 12.700 tỷ đồng, LPBank là 10.000 tỷ đồng, Nam Á Bank là 5.500 tỷ đồng…, đều đạt hoặc vượt kế hoạch năm 2024.
Năm 2025, mục tiêu tăng trưởng GDP của Việt Nam là 6,5 - 7%, phấn đấu khoảng 7,0 - 7,5%, theo chỉ tiêu Quốc hội giao tại Nghị quyết 158/2024/QH15 ngày 12/11/2024. Tuy nhiên, tại Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 8/1/2025 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2025, Chính phủ yêu cầu tăng trưởng GDP cả nước năm 2025 đạt ít nhất 8% và phấn đấu tăng ở mức 2 con số trong điều kiện thuận lợi hơn.
Từ mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao này, Ngân hàng Nhà nước vừa đặt kế hoạch tăng trưởng tín dụng năm 2025 ở mức 16%, tương đương mức dư nợ tín dụng của nền kinh tế hơn 18,1 triệu tỷ đồng vào cuối năm 2025, tăng thêm gần 2,5 triệu tỷ đồng so với dư nợ tín dụng cuối năm 2024 là 15,6 triệu tỷ đồng.
Theo Bộ phận Nghiên cứu, Công ty Chứng khoán MB, kinh tế dự kiến phục hồi mạnh mẽ hơn vào năm 2025, sức hấp thu vốn của nền kinh tế được cải thiện, do đó tăng trưởng tín dụng kỳ vọng đạt mức 15 - 16%. Đây sẽ là câu chuyện nổi bật của nhóm ngân hàng.
Năm nay, Vietcombank đặt kế hoạch tăng trưởng tín dụng 16,28%, lợi nhuận trước thuế tăng 5%; BIDV dự kiến dư nợ tín dụng tăng 14% và lãi trước thuế tăng 6 - 10%; HDBank đặt mục tiêu lợi nhuận trước thuế tăng tới 25%, đạt khoảng 20.000 tỷ đồng…
Công ty Chứng khoán Vietcombank (VCBS) cho rằng, lợi nhuận ngành ngân hàng năm 2025 sẽ tăng 15%, song có sự phân hoá mạnh; trong đó, các ngân hàng quốc doanh được kỳ vọng tăng 12%, nhóm ngân hàng tư nhân năng động nhất tăng trưởng 20%, các ngân hàng mô nhỏ tăng khoảng 8%. Biên lãi ròng (NIM) của ngành ngân hàng sẽ tăng nhẹ nhờ mặt bằng lãi suất huy động ổn định, dư địa giảm lãi suất đầu ra không còn nhiều và kỳ vọng tỷ giá hạ nhiệt kéo giảm lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Những ngân hàng tư nhân mạnh về bán lẻ và tiền gửi không kỳ hạn (CASA), có chất lượng tài sản tốt, có tệp khách hàng có khả năng trả nợ cao… sẽ có nhiều dư địa để cải thiện NIM.
Một số mã đáng quan tâm
Kỳ vọng các ngân hàng năm 2025 sẽ giảm nợ xấu, tăng chất lượng tài sản và cải thiện biên lãi ròng.
Nhìn lại hiệu suất đầu tư của cổ phiếu ngân hàng năm 2024 cho thấy, mặc dù trải qua nhiều đợt điều chỉnh do bị khối ngoại bán ròng dai dẳng, tổng cộng gần 992 triệu đơn vị, trị giá gần 19.300 tỷ đồng, tăng 78% về số lượng và tăng 49% về giá trị so với năm 2023, song cổ phiếu ngành này vẫn ghi nhận mức tăng 23%, cao hơn đà tăng của chỉ số VN-Index (tăng 12,1%).
Theo thống kê của Vietstock Finance đối với 27 cổ phiếu ngân hàng trong năm qua, có 21 mã tăng giá, 1 mã đứng giá (KLB), 5 mã giảm giá. Trong đó, mã LPB tăng 132%, mã TCB tăng 60%, mã HDB tăng 57%; các mã CTG, MBB, STB, NAB tăng trên 30%; mã SSB giảm 20%, mã NVB giảm 15%, mã PGB giảm 10%, mã ABB giảm 8%, mã SHB giảm 1%.
Ông Trần Văn Tánh, Phó phòng Nghiên cứu và Phân tích, Công ty Chứng khoán Yuanta Việt Nam nhận định, có 3 câu chuyện được kỳ vọng sẽ là chủ đề chính của cổ phiếu ngân hàng trong năm 2025 là kinh tế tăng trưởng cao, sự hồi phục rõ nét hơn của nhóm bất động sản (sau khi các luật và nghị quyết có hiệu lực sẽ tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc) và định giá ngành ngân hàng đang ở mức khá thấp.
“Trong đó, động lực lớn nhất là sự phục hồi của ngành bất động sản. Bất động sản phục hồi sẽ giúp các ngân hàng cải thiện tình trạng nợ xấu, tăng chất lượng tài sản và cải thiện NIM”, ông Tánh nhấn mạnh.
Cuối tháng 10/2024, báo cáo trước Quốc hội, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho biết, thời điểm đó, dư nợ tín dụng bất động sản đạt 3,15 triệu tỷ đồng, chiếm khoảng 20% tổng dư nợ của nền kinh tế.
Ngoài ra, triển vọng nâng hạng thị trường chứng khoán từ cận biên lên mới nổi vào cuối năm 2025 sẽ là động lực cho các nhóm cổ phiếu vốn hoá lớn, dẫn đầu ngân hàng. Hiện tại, Top 10 cổ phiếu vốn hoá lớn của ngành ngân hàng là VCB, BID, CTG, TCB, VPB, MBB, ACB, HDB, LPB, STB.
VCBS đánh giá, định giá P/B toàn ngành ngân hàng hiện thấp hơn khoảng 9% so với mức trung bình 5 năm, trong khi lợi nhuận trước thuế toàn ngành năm 2025 dự kiến tăng trưởng khoảng 15%, nhà đầu tư có thể xem xét đầu tư dài hạn các cổ phiếu ngân hàng có chất lượng tài sản tốt và duy trì tốc độ tăng trưởng vượt trội so với ngành.
Tương tự, Công ty Chứng khoán ACB (ACBS) cho hay, cổ phiếu ngành ngân hàng đang được giao dịch ở mức P/B 1,5 lần, tương đương mức trung vị lịch sử; mức P/E là 9,5 lần, thấp hơn mức trung vị lịch sử (11,5 lần). So với triển vọng lợi nhuận tăng trưởng vừa phải (tăng 15%), nhưng bền vững, vùng giá hiện tại khá hợp lý để đầu tư dài hạn.
Báo cáo chiến lược năm 2025 mang tên Kỷ nguyên mới của SSI Research cho biết, trong 10 cổ phiếu ưa thích năm 2025 của SSI có hai cổ phiếu ngân hàng là TCB và CTG, với giá mục tiêu là 28.700 đồng và 44.200 đồng, tăng lần lượt 14,4% và 16,9% so với thị giá cuối năm 2024.
Ông Trần Văn Tánh khuyến nghị, trong đầu tư cổ phiếu ngân hàng, nhóm thứ nhất đáng quan tâm là những ngân hàng ít chịu ảnh hưởng bởi nợ vay bất động sản và trái phiếu bất động sản như ACB, VCB; nhóm thứ hai là nhóm có triển vọng tốt khi thị trường bất động sản phục hồi gồm MB, TCB, TPB, HDB, song cũng sẽ chịu rủi ro nợ xấu kéo dài, chi phí tín dụng tăng nếu quá trình phục hồi này chậm hơn dự kiến.
Về việc VPBank và HDBank sẽ nhận chuyển giao bắt buộc hai ngân hàng yếu kém là GPBank và DongABank, ông Tánh nói: “Sau chuyển giao, một mặt họ sẽ được hưởng cơ chế đặc biệt, thông tin chưa chính thức là có thể được nâng room ngoại lên 49%, tuy nhiên đây cũng là một thách thức đối với hai ngân hàng này”.
Giao dịch tiếp tục luẩn quẩn, BSR lao dốc liên tục kể từ khi lên sàn HoSE
Thị trường diễn biến phập phù trong những ngày giao dịch “năm cùng tháng tận” khi tâm lý nghỉ ngơi đang chi phối hoàn toàn. Dù việc Tổng thống Mỹ Donald Trump chưa “khai hỏa” cuộc chiến thuế quan giúp chứng khoán Mỹ phản ứng tích cực, USD giảm giá, nhưng thị trường trong nước cũng không có phản ứng gì đặc biệt...
VN-Index có nửa đầu phiên sáng nay vẫn “rướn” tăng, nhưng mức cao nhất chỉ trên tham chiếu 4,6 điểm. Nửa còn lại thị trường yếu dần, chỉ số trượt dốc và kết phiên giảm 2,03 điểm (-0,16%).
Diễn biến độ rộng cho thấy sự thay đổi về giá khá rõ. Lúc VN-Index đạt đỉnh, ghi nhận 213 mã tăng/95 mã giảm nhưng đến cuối chỉ còn 140 mã tăng/208 mã giảm. Bù lại diễn biến chậm chạp và không nhiều nhà đầu tư tham gia khiến giá cổ phiếu dao động hẹp là chính. Dù có tới 208 mã đỏ nhưng chỉ 54 mã giảm quá 1% và phần lớn là không có thanh khoản. Chỉ 10 mã trong số này khớp được từ 10 tỷ đồng trở lên, dẫn đầu là HDB với 135 tỷ đồng giá giảm 1,09%.
Cổ phiếu đáng chú ý nhất trong nhóm giảm là BSR với phiên giao dịch thứ 3 ở HoSE sau khi chuyển từ UpCOM lên. Hiện BSR có vốn hóa lớn thứ 18 trong chỉ số VN-Index và mức giảm 1,9% sáng nay đưa mã này vào nhóm ảnh hưởng tiêu cực hàng đầu chỉ sau BID giảm 0,5%. BSR trong tháng 12/2024 đã có một “sóng chuyển sàn” với biên độ tăng tới gần 18%. Cổ phiếu này đã bị chốt lời ở 2 phiên cuối cùng trên UpCOM và 3 phiên vừa qua tiếp tục lao dốc sâu hơn nữa. Trong 2,5 phiên đầu tiên ở HoSE (tính đến sáng nay), BSR đã giảm 5,7%. Thanh khoản BSR cũng khá cao sáng nay, đạt gần 97,4 tỷ đồng.
Ở phía tăng giá giao dịch cũng không có gì ấn tượng. Trong 140 mã xanh, có 29 mã tăng hơn 1% thì VCI là cổ phiếu duy nhất đạt thanh khoản trên 100 tỷ đồng. Cổ phiếu này tăng 1,24% với giá trị khớp lệnh 113,3 tỷ. Dù vậy VCI cũng không đại diện cho cả nhóm chứng khoán được. Mã duy nhất trong nhóm này tăng tốt với thanh khoản đảm bảo chỉ có SHS tăng 3,33% khớp 144,5 tỷ đồng.
Vấn đề chính của thị trường hiện tại là dòng tiền không có động lực nào để giao dịch mạnh lên cả. Theo quy luật các phiên ở tuần trước kỳ nghỉ Tết Nguyên đán đều như vậy, nhưng năm nay khác ở chỗ kỳ nghỉ quá dài (2 tuần) và thế giới lại có nhiều biến động. Do đó nhà đầu tư càng có lý do để lựa chọn an toàn hơn là đánh cược vào yếu tố không lường trước được và cũng không thể phản ứng kịp thời được.
Tổng giá trị khớp lệnh hai sàn niêm yết sáng nay tăng nhẹ gần 8% so với hôm qua nhưng con số tuyệt đối vẫn rất thấp, chỉ đạt hơn 4.293 tỷ đồng. Dù vậy đây cũng không phải là biểu hiện xấu vì thanh khoản càng thấp mà thị trường ổn định cho thấy không bên nào chịu sức ép. Nếu người cầm cổ lo sợ điều gì đó bất lợi xuất hiện trong 2 tuần nghỉ, hẳn họ đã bán ra nhiều hơn và với sức cầu như hiện tại, giá sẽ phải giảm sâu hơn.
Một yếu tố hỗ trợ cũng bất ngờ là nhịp tăng hiện tại chủ yếu rõ nét ở các cổ phiếu vốn hóa nhỏ, hàng đầu cơ, trong khi các blue-chips tương đối ổn định. Vì vậy nhu cầu bán ngắn hạn ở các blue-chips cũng không nhiều, giúp giữ nhịp thị trường. Các cổ phiếu đầu cơ dù bị xả mạnh thì cũng ít tác động đến chỉ số.
Nhà đầu tư nước ngoài sáng nay cũng chỉ duy trì cường độ giao dịch chậm và mức ròng khoảng -96 tỷ đồng là không đáng kể. Đây là phiên sáng bán ròng nhẹ nhất 13 phiên. Hai cổ phiếu duy nhất bị bán quá 20 tỷ ròng là CTG -44,3 tỷ và VHM -21 tỷ. Phía mua thậm chí chỉ có 3 mã quá 10 tỷ là FPT +15,6 tỷ, SSB +12,5 tỷ và MSN +11,7 tỷ.
Bức tranh lợi nhuận ngành ngân hàng năm 2024 dần hé lộ
Nhóm Big4 ngân hàng gồm BIDV, VietinBank, Agribank, Vietcombank ghi nhận kết quả kinh doanh sơ bộ đạt kỷ lục. Trong khi đó, MB hiện đang dẫn đầu với lãi hợp nhất gần 29.000 tỷ đồng trong năm 2024.
Theo thống kê của Mekong ASEAN, tính đến ngày 20/1, nhiều ngân hàng đã bắt đầu hé lộ kết quả kinh doanh tích cực, với lợi nhuận tăng trưởng mạnh mẽ. Trong đó, với nhóm Big4, tổng lợi nhuận ước tính đạt trên 126.000 tỷ đồng, mức cao nhất lịch sử.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) là ngân hàng đầu tiên hé lộ kết quả kinh doanh năm 2024, ghi nhận lợi nhuận trước thuế riêng lẻ đạt 27.567 tỷ đồng, tăng hơn 8% so với năm trước. Tổng tài sản tăng 10%, đạt hơn 2,2 triệu tỷ đồng, trong khi huy động vốn vượt 2 triệu tỷ đồng, tăng 7,5%. Dư nợ tín dụng cũng tăng trưởng 170.000 tỷ đồng, đạt trên 1,72 triệu tỷ đồng, với tỷ lệ nợ xấu kiểm soát ở mức 1,56%.
Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank, HoSE: VCB) cho biết trong năm 2024 ngân hàng đã hoàn thành các chỉ tiêu, kế hoạch do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và đại hội đồng cổ đông giao.
Cụ thể, tính đến hết năm 2024, Vietcombank đạt tăng trưởng tín dụng 13,7%, tổng tài sản tăng 12,9% và lần đầu tiên vượt ngưỡng 2 triệu tỷ đồng. Tỷ lệ nợ xấu ngân hàng duy trì ở mức thấp 0,97%; tỷ lệ bao phủ nợ xấu ở mức cao 223%.
Đặc biệt, dù chưa công bố con số lợi nhuận cụ thể, với mức kế hoạch được tiết lộ tại đại hội đồng cổ đông thường niên vào tháng 4/2024 là 42.000 tỷ đồng, con số lợi nhuận của Vietcombank được nhận định sẽ ghi nhận mức kỷ lục mới và tiếp tục dẫn đầu toàn ngành.
Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank, HoSE: CTG) đã vượt kế hoạch đề ra với lợi nhuận trước thuế ngân hàng mẹ đạt 26.300 tỷ đồng, tăng 8,7% so với năm trước và ghi nhận mức cao kỷ lục của ngân hàng.
Quy mô tổng tài sản tăng trưởng 17%, doanh thu tăng mạnh với khoản thu ngoài lãi đóng góp 27% tổng thu nhập hoạt động. Dư nợ tín dụng tăng 16,88%, cao hơn các ngân hàng trong nhóm Big4. Tổng nguồn vốn huy động đạt 1,8 triệu tỷ đồng, tăng 15% so với cuối năm 2023, tỷ trọng CASA đạt 24,1%. VietinBank đã nộp 8.600 tỷ đồng cho ngân sách Nhà nước, tăng 33% so với năm trước.
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV, HoSE: BID) ghi nhận lợi nhuận trước thuế năm 2024 đạt 30.006 tỷ đồng, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm trước. Tổng tài sản đạt gần 2,7 triệu tỷ đồng, huy động vốn đạt 2,14 triệu tỷ đồng, tăng 13,1%. Dư nợ tín dụng đạt trên 2,01 triệu tỷ đồng, tăng 15,3%, dẫn đầu thị phần tín dụng với 13,1%. Tỷ lệ nợ xấu ở mức 1,3%, tỷ lệ bao phủ nợ xấu đạt 133%. BIDV đã nộp ngân sách hơn 9.412 tỷ đồng và vốn chủ sở hữu đạt 136.320 tỷ đồng, tăng 18,4% tính đến 31/12/2024.
Ngân hàng TMCP Quân đội (MB, HoSE: MBB) ước tính lợi nhuận trước thuế riêng lẻ ngân hàng năm 2024 tăng khoảng 12% so với năm 2023 và đạt 27.600 tỷ đồng. Lợi nhuận trước thuế hợp nhất tăng khoảng 9-10%, đạt gần 29.000 tỷ đồng.
Ngân hàng TMCP Xuất Nhập khẩu Việt Nam (Eximbank - HoSE: EIB) công bố kết quả kinh doanh sơ bộ năm 2024, ghi nhận lợi nhuận trước thuế đạt 4.188 tỷ đồng, tăng 54% so với năm 2023. Lãi thuần từ hoạt động dịch vụ tăng mạnh 110,1%, đạt 1.080 tỷ đồng, trong khi lãi từ kinh doanh ngoại hối tăng 38,7%, đạt 674 tỷ đồng.
Tính đến ngày 31/12/2024, tổng tài sản của ngân hàng đạt 239.532 tỷ đồng, tăng trưởng 18,9%. Dư nợ cấp tín dụng tăng 19,72%, tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn duy trì ở mức 24% - 25%, tỷ lệ LDR ở mức 82% - 84%, và tỷ lệ an toàn vốn CAR đạt 12% - 13%.
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Tiên Phong (TPBank, HoSE: TPB) ghi nhận lợi nhuận trước thuế đạt gần 7.600 tỷ đồng, tăng 36% so với năm 2023 và vượt kế hoạch đề ra tại Đại hội đồng cổ đông. Tỷ lệ lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE) của TPBank duy trì ở mức trên 17%.
Kết thúc năm 2024, dư nợ tín dụng của TPBank, bao gồm cho vay khách hàng và trái phiếu doanh nghiệp, đạt 261.500 tỷ đồng, tương đương tăng trưởng hơn 20% so với năm trước, vượt xa mức tăng trưởng trung bình của ngành ngân hàng. Tổng tài sản vượt 418.000 tỷ đồng, tăng 17% so với năm trước và vượt kế hoạch 7%.
Ngân hàng TMCP Nam Á (Nam A Bank, HoSE: NAB) cũng vừa công bố kết quả kinh doanh năm 2024 ghi nhận lợi nhuận trước thuế đạt hơn 4.545 tỷ đồng, vượt 13,6% so với kế hoạch và tăng gần 38% so với cùng kỳ năm 2023.
Tổng tài sản của ngân hàng tính đến cuối năm đạt hơn 245.000 tỷ đồng, tăng gần 16,8% so với cùng kỳ năm 2023. Huy động vốn ghi nhận gần 179.000 tỷ đồng, tăng hơn 9% so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động tín dụng của Nam A Bank trong năm 2024 cũng tăng trưởng mạnh, đạt gần 168.000 tỷ đồng, tương đương mức tăng 18,34% so với đầu năm.
Ngân hàng Thương mại cổ phần Lộc Phát Việt Nam (LPBank, HoSE: LPB) cũng đã công bố kết quả kinh doanh năm 2024 với lợi nhuận trước thuế đạt 12.168 tỷ đồng, tăng 73% so với năm 2023 và thực hiện được 116% kế hoạch đề ra. Đây là mức lợi nhuận cao kỷ lục của ngân hàng này và là lần đầu tiên LPBank đạt lợi nhuận 10.000 tỷ đồng.
Tổng tài sản của ngân hàng tính đến cuối năm đạt hơn 245.000 tỷ đồng, tăng gần 16,8% so với cùng kỳ năm 2023. Huy động vốn ghi nhận gần 179.000 tỷ đồng, tăng hơn 9% so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động tín dụng của Nam A Bank trong năm 2024 cũng tăng trưởng mạnh, đạt gần 168.000 tỷ đồng, tương đương mức tăng 18,34% so với đầu năm.
Ngân hàng TMCP Thịnh vượng và Phát triển (PGBank, UPCoM: PGB) vừa công bố báo cáo tài chính quý IV/2024 với thu nhập lãi thuần đạt gần 428 tỷ đồng, tăng 18,7% so với cùng kỳ năm trước. Nhờ đà tăng trưởng mạnh của thu nhập lãi thuần và các nguồn thu ngoài lãi, nên dù chi phí hoạt động tăng 30% lên 330 tỷ đồng và chi phí dự phòng rủi ro tín dụng tăng gấp 1,5 lần năm trước lên hơn 144 tỷ đồng, ngân hàng vẫn báo lãi trước thuế đạt 76 tỷ đồng, lãi sau thuế tương ứng đạt 61 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ năm trước lỗ gần 5 tỷ đồng.
Lũy kế từ đầu năm 2024 đến nay, PGBank ghi nhận thu nhập lãi thuần đạt gần 1.659 tỷ đồng, tăng 27,5% so với năm trước. Năm 2024, PGBank đặt mục tiêu lợi nhuận trước thuế 554 tỷ đồng, tăng 57,7% so với năm 2023. Như vậy, kết thúc năm, ngân hàng mới thực hiện được khoảng 76% chỉ tiêu lợi nhuận đề ra.
Etiqueta blanca
API de datos
Complementos web
Creador de carteles
Programa de afiliados
El riesgo de pérdida en el comercio de activos financieros como acciones, divisas, materias primas, futuros, bonos, ETF o criptomonedas puede ser considerable. Puede sufrir una pérdida total de los fondos que deposita con su corredor. Por lo tanto, debe considerar cuidadosamente si dicha negociación es adecuada para usted tomando en cuenta sus circunstancias y recursos financieros.
No se debe considerar invertir sin llevar a cabo, su propia diligencia de manera minuciosa o consultar con sus asesores financieros. Nuestro contenido web puede no ser adecuado para usted, ya que no conocemos su situación financiera ni sus necesidades de inversión. Es posible que nuestra información financiera tenga latencia o contenga inexactitudes, por lo que usted debe ser completamente responsable de cualquiera de sus transacciones y decisiones de inversión. La empresa no se hará responsable de su capital perdido.
Sin obtener el permiso del sitio web, no se le permite copiar los gráficos, textos o marcas comerciales del sitio web. Los derechos de propiedad intelectual sobre los contenidos o datos incorporados a este sitio web pertenecen a sus proveedores y comerciantes de intercambio.