Citations
Nouvelles
Analyse
Utilisateur
24/7
Calendrier économique
Education
Données
- Des noms
- Dernier
- Précédent
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
A:--
F: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
Pas de données correspondantes
Graphiques Gratuit pour toujours
Chat F&Q avec des Experts Filtres Calendrier économique Données OutilFastBull VIP FonctionnalitésTendances du marché
Principaux indicateurs
Dernières vues
Dernières vues
Sujets d'actualité
L’argent fait tourner le monde et la monnaie est une marchandise permanente. Le marché des changes est plein de surprises et d'attentes.
Sur les marchés financiers mondiaux, la bourse sert de baromètre économique et a toujours été au centre de l'attention des investisseurs. Son ascension et sa chute ont un impact profond sur l’économie de divers pays.
Les marchés financiers restent stables mais affichent un sentiment d'anticipation nerveuse alors que la nouvelle semaine commence. Les conflits entre Israël et le Hamas continuent d’occuper le devant de la scène, avec des inquiétudes croissantes quant au risque que la violence engloutisse l’ensemble de la région.
Le marché obligataire est le marché financier le plus ancien, mature, non innovant mais indispensable, tandis que la dette est un ancien vortex commun, discret mais redoutable.
Les meilleurs chroniqueurs
Salut! Êtes-vous prêt à vous impliquer dans le monde financier ?
Les dernières nouvelles et les événements financiers mondiaux.
J'ai 5 ans d'expérience en analyse financière, notamment dans les aspects d'évolution macroéconomique et de jugement de tendances à moyen et long terme. Je me concentre principalement sur l'évolution du Moyen-Orient, des marchés émergents, du charbon, du blé et d'autres produits agricoles.
Coach de trading en chef et conférencier BeingTrader, plus de 8 ans d'expérience dans le trading du marché des changes, principalement XAUUSD, EUR/USD, GBP/USD, USD/JPY et pétrole brut. Un trader et analyste confiant qui vise à explorer diverses opportunités et à guider les investisseurs sur le marché. En tant qu'analyste, je cherche à améliorer l'expérience du trader en le soutenant avec suffisamment de données et de signaux.
Dernière mise à jour
Risk Warning on Trading HK Stocks
Despite Hong Kong's robust legal and regulatory framework, its stock market still faces unique risks and challenges, such as currency fluctuations due to the Hong Kong dollar's peg to the US dollar and the impact of mainland China's policy changes and economic conditions on Hong Kong stocks.
HK Stock Trading Fees and Taxation
Trading costs in the Hong Kong stock market include transaction fees, stamp duty, settlement charges, and currency conversion fees for foreign investors. Additionally, taxes may apply based on local regulations.
HK Non-Essential Consumer Goods Industry
The Hong Kong stock market encompasses non-essential consumption sectors like automotive, education, tourism, catering, and apparel. Of the 643 listed companies, 35% are mainland Chinese, making up 65% of the total market capitalization. Thus, it's heavily influenced by the Chinese economy.
HK Real Estate Industry
In recent years, the real estate and construction sector's share in the Hong Kong stock index has notably decreased. Nevertheless, as of 2022, it retains around 10% market share, covering real estate development, construction engineering, investment, and property management.
Hong Kong, Chine
Ho Chi Minh, Vietnam
Dubaï, Émirats arabes unis
Lagos, Nigeria
Le Caire, Égypte
Marque blanche
API de données
Plug-ins Web
Programme d'affiliation
Tout voir
Pas de données
Non connecté
Se connecter pour accéder à d'autres fonctionnalités
FastBull VIP
Pas encore
Acheter
Se connecter
S'inscrire
Hong Kong, Chine
Ho Chi Minh, Vietnam
Dubaï, Émirats arabes unis
Lagos, Nigeria
Le Caire, Égypte
Marque blanche
API de données
Plug-ins Web
Programme d'affiliation
Sản lượng điện thấp, Nhiệt điện Hải Phòng báo lỗ quý III hơn 9 tỷ đồng
Trên thị trường chứng khoán, kết phiên ngày 18/10, cổ phiếu HND có giá 13.600 đồng/cổ phiếu.
Theo báo cáo tài chính quý III của Công ty CP Nhiệt điện Hải Phòng, doanh thu thuần đạt 2.365 tỷ đồng, giảm 18% so với cùng kỳ năm trước. Đáng chú ý, công ty ghi nhận lỗ sau thuế 9,1 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ năm trước vẫn lãi 192 tỷ đồng. Nguyên nhân chính là do sản lượng điện trong quý III sụt giảm mạnh.
Theo báo cáo tài chính hợp nhất quý III của Công ty CP Nhiệt điện Hải Phòng (mã HND), doanh thu thuần đạt 2.365 tỷ đồng, giảm 18% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chính là do sản lượng điện quý III/2024 giảm gần 426 triệu kWh so với cùng kỳ do hệ thống không huy động.
Mặc dù vậy, giá vốn chỉ giảm 11%, đạt 2.347 tỷ đồng, khiến lợi nhuận gộp giảm mạnh, chỉ còn 17,5 tỷ đồng, giảm 93% so với cùng kỳ.
Doanh thu tài chính kỳ này chỉ đạt 63 triệu đồng, giảm 94%, trong khi chi phí tài chính giảm 93% xuống 2,4 tỷ đồng, phần lớn do lãi vay giảm sau khi công ty đã thanh toán hết nợ vay dài hạn. Đồng thời, chi phí chênh lệch tỷ giá cũng giảm 23,5 tỷ đồng vì công ty không còn nợ vay ngoại tệ.
Kết quả kinh doanh quý III/2024 của HND.
Chi phí quản lý doanh nghiệp tăng 44%, lên 23,8 tỷ đồng. Công ty cũng ghi nhận khoản lỗ khác 460 triệu đồng, so với mức lãi 201 triệu đồng cùng kỳ năm trước. Kết quả là HND báo lỗ 9,1 tỷ đồng trong quý III/2024, trong khi cùng kỳ lãi 192 tỷ đồng.
Theo HND, sản lượng điện quý III/2024 rất thấp, chỉ đạt 1.247 triệu kWh do hệ thống không huy động. Sản lượng hợp đồng (Qc) do Cục Điều tiết Điện lực (A0) giao cũng ở mức thấp, chỉ 506 triệu kWh, tương đương 40,6% so với sản lượng huy động, khiến doanh thu không đủ bù đắp chi phí cố định. Thêm vào đó, giá điện thị trường trong quý không cao, dẫn đến lợi nhuận không đủ để bù lỗ từ sản lượng Qc thấp.
Lũy kế 9 tháng đầu năm, HND đạt doanh thu thuần 8.605 tỷ đồng, giảm 2,5% so với cùng kỳ, nhưng lợi nhuận sau thuế đạt 422 tỷ đồng, giảm 21%. Tuy vậy, lợi nhuận trước thuế vẫn vượt 13% so với kế hoạch năm, đạt 422 tỷ đồng.
Tính đến ngày 30/9/2024, tổng tài sản của HND đạt 7.135 tỷ đồng, giảm 9% so với đầu năm. Tài sản ngắn hạn giảm 7%, còn 3.570 tỷ đồng, trong đó phải thu ngắn hạn của khách hàng chiếm 2.671 tỷ đồng (giảm 7,6%). Tài sản dài hạn giảm 10,3%, đạt 3.565 tỷ đồng, chủ yếu là tài sản cố định hữu hình (3.279 tỷ đồng).
Về nguồn vốn, nợ ngắn hạn giảm 43%, còn 1.016 tỷ đồng, trong đó phải trả người bán ngắn hạn chiếm phần lớn với 844 tỷ đồng (giảm 20%). Nợ vay tài chính giảm 88%, còn 45 tỷ đồng. Vốn chủ sở hữu đạt 6.111 tỷ đồng.
Nhiệt điện Hải Phòng lỗ ròng quý 3, dứt điểm nợ vay xây dựng nhà máy sau hơn 10 năm
Sau nửa đầu năm khả quan, CTCP Nhiệt điện Hải Phòng (UPCoM: HND) lại lỗ ròng hơn 9 tỷ đồng trong quý 3. Dù vậy, kết quả này có thể không gây thất vọng bởi Công ty đã sớm vượt kế hoạch lợi nhuận trước đó.
Nhà máy nhiệt điện Hải Phòng. Nguồn: moit.gov.vn
Sản lượng điện quý 3 giảm đáng kể là nguyên nhân khiến chủ nhà máy nhiệt điện Hải Phòng ghi nhận doanh thu kém, chỉ khoảng 2.3 ngàn tỷ đồng, giảm 18% so với cùng kỳ. Đây cũng là mức thấp nhất kể từ quý 4/2022.
Công ty cho biết sản lượng điện quý 3 rất thấp, khoảng 1.2 tỷ kwh, giảm 436 triệu kwh so với cùng kỳ, do hệ thống không huy động. Chưa kể sản lượng theo hợp đồng mua bán điện Qc nhận từ Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia A0 cũng ở mức thấp, 506 triệu kwh và chỉ đạt gần 41% so với sản lượng huy động.
“Do sản lượng Qc giao thấp dẫn đến doanh thu cố định của Công ty không đủ bù đắp chi phí cố định. Bên cạnh đó, giá thị trường quý 3 năm nay không cao, dẫn đến lợi nhuận từ thị trường không đủ bù đắp phần lỗ do thiếu hụt sản lượng Qc”, HND giải trình.
Doanh thu giảm nhưng giá vốn - chiếm phần lớn bởi chi phí nguyên vật liệu - không điều chỉnh tương ứng khiến lãi gộp còn hơn 17 tỷ đồng, thấp nhất trong nhiều năm qua và chỉ khá hơn khoản lỗ gộp 66 tỷ đồng quý 4/2023.
Chi phí quản lý doanh nghiệp cũng đội lên khiến Công ty lỗ ròng hơn 9 tỷ đồng. Điểm sáng duy nhất trong kỳ là chi phí lãi vay giảm sâu nhờ chủ động trả hết nợ vay dài hạn. Báo cáo cho thấy HND đã dành hơn 1 ngàn tỷ đồng để trả gốc vay từ đầu năm; riêng quý 3 chi 677 tỷ đồng.
Thua lỗ quý 3 không ảnh hưởng quá nhiều khi HND đã vượt kế hoạch lợi nhuận sau 6 tháng đầu năm, đặc biệt nhờ kết quả khả quan trong quý 2 và một phần do đặt mục tiêu thấp hơn so với thực hiện năm trước. Lũy kế 9 tháng, Công ty lãi ròng 422 tỷ đồng, vượt chỉ tiêu 12%. Doanh thu 3 quý đạt 8.6 ngàn tỷ đồng, thực hiện 70% tiến độ.
Lãi cơ bản trên mỗi cổ phiếu (EPS) lũy kế đạt 844 đồng, thấp hơn so với 1,066 đồng sau 3 quý năm 2023. Với thị giá hiện khoảng 13,500 đồng/cp, tỷ lệ giá trên thu nhập (P/E) mỗi cổ phiếu HND xấp xỉ ở mức 16.
Giảm mạnh nợ gốc vay đưa dư nợ về 45 tỷ đồng vào cuối quý 3, chủ nhà máy nhiệt điện Hải Phòng chính thức trả dứt điểm khoản vay dài hạn xây dựng các nhà máy từ hơn 10 năm trước. Vay dài hạn của HND từng có lúc chạm mức 12.5 ngàn tỷ đồng năm 2014, chủ yếu vay bằng USD và JPY từ Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc (China Eximbank) và Ngân hàng hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC).
Dù không đề cập cụ thể nguyên nhân khiến sản lượng điện huy động sụt giảm so với cùng kỳ, song nhiều khả năng khó khăn trong quý 3 của HND chịu ảnh hưởng bởi thời tiết. Lượng mưa nhiều hơn có thể làm sản lượng huy động từ các nhà máy thủy điện ở mức cao, từ đó giảm nhu cầu đối với các nhà máy nhiệt điện như HND.
Một trong những khó khăn khác là nguồn cung ứng và giá than biến động khó lường. “Nguồn cung ứng than từ Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam và Tổng Công ty Đông Bắc hạn chế, trong khi giá than thế giới tăng đột biến và phức tạp, HND không đủ than để sản xuất theo huy động của hệ thống”, Công ty từng đề cập trong một báo cáo năm 2023, đồng thời cho rằng việc các dự án năng lượng tái tạo đưa vào khai thác thương mại ngày càng tăng đã dẫn đến sự hạn chế huy động các tổ máy nhiệt điện than.
HND từng chịu áp lực nợ vay “khủng” 10 năm trước
Nguồn: HND
Tổng mức đầu tư 2 nhà máy nhiệt điện của HND thời điểm 2014
Nguồn: HND
Ngành điện vẫn chìm trong “bóng tối”
Tính đến thời điểm hiện tại, nhiều doanh nghiệp ngành điện đã công bố báo cáo tài chính quý 2/2024. Trong đó, phần lớn các công ty đều phải đối mặt với sự sụt giảm mạnh về cả doanh thu và lợi nhuận. Điều này phản ánh rõ những thách thức và khó khăn mà ngành điện đang phải đương đầu…
Sau quý đầu năm kinh doanh kém khởi sắc, các doanh nghiệp ngành điện tiếp tục phải đối mặt với nhiều thách thức trong quý 2/2024 khiến doanh thu và lợi nhuận sụt giảm. Trong đó, chi phí nguyên liệu đầu vào leo thang, tình trạng khô hạn kéo dài cùng với những khó khăn trong việc vận hành hệ thống đã tạo áp lực lớn lên bức tranh tài chính của toàn ngành.
CHI PHÍ ĐẦU VÀO TĂNG “BÀO MÒN” LỢI NHUẬN DOANH NGHIỆP NHIỆT ĐIỆN
Mặc dù chưa công bố báo cáo tài chính hợp nhất, nhưng theo thông tin tình hình sản xuất kinh doanh 6 tháng đầu năm 2024 của Tổng công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam (PV Power – mã chứng khoán: POW), doanh nghiệp ước đạt doanh thu 15.822 tỷ đồng, thực hiện 95% kế hoạch và giảm 3% so với cùng kỳ.
Lợi nhuận trước thuế của PV Power đạt 657 tỷ đồng, bằng 100% kế hoạch nửa đầu năm. Nếu so sánh với cùng kỳ năm ngoái, con số này đã giảm 29% (so với 929 tỷ đồng) và là mức lợi nhuận nửa năm thấp nhất kể từ khi công khai tài chính. Trong quý 1, tổng công ty có lãi trước thuế 278 tỷ đồng. Theo đó lợi nhuận quý 2 ước đạt 379 tỷ đồng, vẫn tăng 59% so với cùng kỳ năm ngoái.
Kế hoạch tài chính cụ thể cho tổng công ty trong nửa cuối năm là 7.923 triệu kWh nhằm mang về doanh thu 15.008 tỷ đồng. Mục tiêu lợi nhuận trước thuế 6 tháng cuối năm là gần 341 tỷ đồng, đảm bảo hoàn thành kế hoạch cả năm (995 tỷ đồng).
Trong số các công ty nhiệt điện đã công bố báo cáo tài chính quý 2/2024, Công ty Cổ phần Nhiệt điện Quảng Ninh (mã chứng khoán: QTP) ghi nhận doanh thu thuần đạt 3.628 tỷ đồng, giảm 2,2% so với cùng kỳ. Giá vốn hàng bán tăng cao khiến lợi nhuận gộp của công ty thu hẹp còn 211,1 tỷ đồng, tương ứng giảm 29,5%.
Khấu trừ chi phí, Nhiệt điện Quảng Ninh báo lãi sau thuế quý 2/2024 đạt 160,3 tỷ đồng, thấp hơn 35,4% so với con số 248,3 tỷ đồng của cùng kỳ quý 2/2023.
Theo giải trình của Nhiệt Điện Quảng Ninh, lợi nhuận sau thuế quý 2/2024 sụt giảm chủ yếu do sản lượng điện bán và giá thị trường đều giảm. Ngoài ra, giá nhiên liệu than đầu vào có xu hướng tăng so với cùng kỳ năm 2023 cũng tác động tiêu cực đến kết quả kinh doanh của công ty.
Tương tự, Công ty Cổ phần Nhiệt điện Phả Lại (mã chứng khoán: PPC) cũng chịu ảnh hưởng bởi chi phí nhiên liệu tăng cao. Cụ thể, trong quý 2/2024, doanh thu của công ty tăng 76,9%, đạt 2.469 tỷ đồng nhờ sản lượng điện bán cao hơn 673,57 triệu kWh so với cùng kỳ.
Tuy nhiên, lợi nhuận sau thuế của Nhiệt điện Phả Lại thấp hơn 41,9% so với quý 2/2023, còn 93,8 tỷ đồng, do giá vốn hàng bán (chủ yếu là chi phí nhiên liệu) tăng mạnh và doanh thu tài chính giảm do các khoản cổ tức nhận về từ các đơn vị do công ty góp vốn giảm mạnh.
Một doanh nghiệp nhiệt điện khác cũng ghi nhận lợi nhuận giảm trong quý vừa qua là Công ty Cổ phần Điện lực Dầu khí Nhơn Trạch 2 (mã chứng khoán: NT2). Theo đó, doanh thu quý 2/2024 của công ty đạt 2.186 tỷ đồng, gần như đi ngang so với cùng kỳ. Tuy nhiên, chi phí nhiên liệu tăng cao kéo biên lợi nhuận gộp của giảm mạnh còn 129,5 tỷ đồng, tương ứng giảm 20,2%.
Khấu trừ chi phí, NT2 báo lãi sau thuế quý 2/2024 đạt 122,1 tỷ đồng, giảm 15,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Trước đó, NT2 đã báo lỗ 158,1 tỷ đồng trong quý 1, dẫn đến lợi nhuận sau thuế lũy kế 6 tháng đầu năm âm 35,9 tỷ đồng.
Kết thúc quý 2/2024, Công ty Cổ phần Nhiệt điện Hải Phòng (mã chứng khoán: HND) chứng kiến doanh thu tăng nhẹ 2,5% lên 3.452 tỷ đồng. Tuy nhiên, chi phí đầu vào tăng cao khiến lãi gộp sụt giảm gần 17%, chỉ còn 322,4 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế theo đó cũng giảm xuống mức 276,4 tỷ đồng, tương ứng giảm 16,5% so với cùng kỳ.
Theo báo cáo tài chính quý 2/2024, nhiều doanh nghiệp nhiệt điện khác cũng có kết quả kinh doanh đi lùi như: Công ty Cổ phần Nhiệt điện Bà Rịa (mã chứng khoán: BTP) ghi nhận lợi nhuận sau thuế giảm 87,9% so với cùng kỳ, đạt 3,3 tỷ đồng; Công ty Cổ phần Điện lực Khánh Hoà (mã chứng khoán: KHP) báo lãi ròng quý 2/2024 đạt 23,7 tỷ đồng, giảm 50,8%; Công ty Cổ phần Nhiệt điện Ninh Bình (mã chứng khoán: NBP) lỗ sau thuế 527,7 triệu đồng lợi nhuận sau thuế, trong khi cùng kỳ quý 2/2023 lãi ròng 21,8 tỷ đồng…
LỢI NHUẬN DOANH NGHIỆP THUỶ ĐIỆN "CẠN" THEO DÒNG NƯỚC
Tương tự như các doanh nghiệp nhiệt điện, các công ty thủy điện cũng có một kỳ kinh doanh không khả quan, cho thấy những thách thức lớn đang bao trùm lên bức tranh tài chính của ngành.
Điển hình, Công ty Cổ phần Thủy điện Hủa Na (mã chứng khoán: HNA) công bố báo cáo tài chính quý 2/2024 với doanh thu thuần đạt 103 tỷ đồng, tăng trưởng 16% do sản lượng điện đạt 81,33 triệu kWh, cao hơn so với năm ngoái.
Dù doanh thu tăng trưởng nhờ sản lượng điện gia tăng nhưng giá vốn cũng tăng theo, chiếm 105,8 tỷ đồng. Kết quả, Thủy điện Hủa Na báo lỗ gộp 2,6 tỷ đồng trong quý 2/2024. Sau khi khấu trừ chi phí, doanh nghiệp thủy điện này báo lỗ sau thuế hơn 10 tỷ đồng, nhưng cũng giảm đáng kể so với mức lỗ 24 tỷ đồng của cùng kỳ năm trước.
Kết quả thua lỗ của Thủy điện Hủa Na đã sớm được các tổ chức dự báo do ảnh hưởng từ hiện tượng El Nino khiến tình hình thuỷ văn không thuận lợi và sản lượng điện được huy động thấp hơn mọi năm. Nhưng tình hình sẽ được cải thiện từ nửa cuối năm nay khi La Nina xác suất cao sẽ quay trở lại từ quý 3, từ đó hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh các nhà máy thuỷ điện, bao gồm cả Hủa Na.
Không nằm ngoài xu hướng đi lùi của nhóm ngành điện, Công ty Cổ phần Thuỷ điện A Vương (mã chứng khoán: AVC) ghi nhận doanh thu thuần quý 2/2024 đạt 141,2 tỷ đồng, tăng 7,1% so với quý 2/2023. Tuy nhiên, giá vốn hàng bán tăng gấp 2,2 lần, lên 114,9 tỷ đồng khiến lợi nhuận gộp của công ty chỉ đạt 26,2 tỷ đồng, thấp hơn 66,6% cùng kỳ năm trước.
Doanh thu hoạt động tài chính và các chi phí trong kỳ không biến động đáng kể. Sau cùng, doanh nghiệp lãi sau thuế 13,6 tỷ đồng, giảm 82,4% so với cùng kỳ.
Giải trình về kết quả này, Thuỷ điện A Vương cho biết, do tình hình thời tiết không thuận lợi, lưu lượng nước về không tốt nên sản lượng điện thấp, dẫn đến lợi nhuận sau thuế quý 2/2024 sụt giảm mạnh.
Theo báo cáo tài chính quý 2/2024 mới công bố, Công ty Cổ phần Thuỷ điện Đa Nhim – Hàm Thuận – Đa Mi (mã chứng khoán: DNH) cho thấy doanh thu giảm 12,8%, còn 411,5 tỷ đồng. Doanh thu suy giảm đã kéo theo lợi nhuận sau thuế xuống còn 157,2 tỷ đồng, thấp hơn 33,2% so với con số cùng kỳ quý 2/2023 là 235,2 tỷ đồng.
DNH giải thích nguyên nhân do lưu lượng nước về Đơn Dương và Hàm Thuận thấp hơn năm 2023, dẫn đến sản lượng điện sản xuất các nhà máy cũng giảm theo. Đồng thời, tỷ trọng sản lượng điện tham gia thị trường điện trong quý 2/2024 thấp hơn so với cùng kỳ năm 2023.
Cùng chung cảnh ngộ, Công ty Cổ phần Thuỷ điện Vĩnh Sơn – Sông Hinh (mã chứng khoán: VSH) chỉ mang về 412,5 tỷ đồng doanh thu trong quý 2/2024, giảm 37,2% so với cùng kỳ. Doanh thu “mỏng” cùng giá vốn tăng cao đã khiến lợi nhuận gộp giảm đến 56%, xuống còn 180,7 tỷ đồng.
Các chi phí trong kỳ đều được tiết giảm, cùng với đó doanh nghiệp ghi nhận doanh thu tài chính tăng gấp 20,2 lần, đạt 2,7 tỷ đồng do không phát sinh khoản bù trừ lỗ chênh lệch tỷ giá.
Tuy nhiên, doanh thu tài chính không đủ bù đắp sự sụt giảm của doanh thu cốt lõi. Sau cùng, Thuỷ điện Vĩnh Sơn – Sông Hinh lãi sau thuế 67,1 tỷ đồng, thấp hơn 74,3% so với khoản lãi 261,8 tỷ đồng cùng kỳ năm trước.
Thậm chí, Công ty Cổ phần Thuỷ điện Sê San 4A (mã chứng khoán: S4A) còn có một kỳ kinh doanh đáng quên khi báo lỗ sau thuế 1,9 tỷ đồng trong quý 2/2024.
Doanh nghiệp điện này cho biết, trong quý vừa qua, thời tiết khô hạn khiến sản lượng điện giảm so với cùng kỳ năm trước, kéo theo đó, doanh thu và lợi nhuận cũng sụt giảm theo.
Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024, Thủy điện Sê San 4A mang về 82,4 tỷ đồng doanh thu và 10,9 tỷ đồng lãi sau thuế, lần lượt giảm 21,4% và 72,8% so với cùng kỳ năm 2023.
NHIỆT ĐIỆN KỲ VỌNG CHUYỂN MÌNH, THUỶ ĐIỆN "ĐÓN NƯỚC LỚN" NHỜ LA NINA
Trong báo cáo triển vọng mới công bố, Công ty Chứng khoán MB (MBS Research) đánh giá nhóm ngành điện sẽ có những chuyển biến tích cực hơn trong nửa cuối năm 2024.
Cụ thể, MBS Research kỳ vọng nhu cầu điện có thể phục hồi 9,8% so với cùng kỳ trong 2024, tương đương kịch bản cao trong Quy hoạch điện VIII và cũng cao hơn kế hoạch đầu năm của Bộ Công thương là 9% từ mức nền thấp của 2023, hỗ trợ bởi sản lượng điện tăng trưởng cao hơn dự kiến trong các tháng đầu năm, đạt trung bình 13% và dự kiến xu hướng sẽ tiếp tục duy trì trong các tháng cao điểm mùa nóng.
Giai đoạn 2025 - 2030, MBS Research dự báo nhu cầu điện sẽ tăng trưởng ở mức cao, đạt 9,3% CAGR, theo sát với diễn biến phục hồi kinh tế của Việt Nam sau giai đoạn khó khăn 2020 - 2023, với động lực chính từ tăng trưởng sản xuất công nghiệp phục hồi và nhu cầu ngày càng tăng nhóm tiêu dùng dân cư trong các tháng mùa nóng.
Bên cạnh đó, theo kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII được phê duyệt trong tháng 4/2024, tinh thần và định hướng phát triển của ngành điện Việt Nam cơ bản được giữ nguyên, tập trung các mũi nhọn điện gió và điện khí.
Đến năm 2025, nhiều đề án/dự án về chính sách, pháp luật cần ưu tiên xây dựng và hoàn thiện, trong đó, MBS Research cho rằng một số chính sách cần đẩy nhanh để làm cơ sở triển khai các dự án nguồn điện bao gồm: Khung giá các loại hình nguồn điện (năng lượng tái tạo, LNG, điện gió ngoài khơi); Cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA) và Luật Điện lực (sửa đổi).
Hiện tại, hầu hết các chính sách nêu trên đều đã được trình dự thảo và trong quá trình hoàn thiện. Theo đó, năm 2024 - 2025 sẽ là giai đoạn bản lề trong việc ban hành những chính sách then chốt khi Việt Nam chỉ còn 6,5 năm để hoàn thành các nhiệm vụ được giao trong Quy hoạch điện VIII.
Đối với nhóm nhiệt điện, MBS Research cho rằng, xu hướng huy động điện than, đặc biệt là các nhà máy điện than tại miền Bắc sẽ tiếp tục duy trì do tăng trưởng nhu cầu tiêu thụ điện tại miền Bắc cao nhất cả nước, gây áp lực lên nguồn cung trong bối cảnh tăng trưởng nguồn điện tại khu vực thấp hơn nhiều so với tăng trưởng tiêu thụ điện.
Đồng thời, giá than nhập khẩu đang có xu hướng giảm, hỗ trợ giá bán điện. Theo đó, nhóm phân tích MBS Research cho rằng QTP, HND và PPC sẽ là những doanh nghiệp được hưởng lợi trong nửa cuối năm 2024.
Tuy nhiên, về dài hạn, MBS Research đánh giá điện than sẽ không còn là mũi nhọn phát triển do phát thải cao và khả năng thu xếp vốn khó khăn. Từ nay đến 2030 sẽ chỉ còn 6 dự án điện than được triển khai, chủ yếu là các dự án BOT, trong đó, một số dự án đang được triển khai và sẽ sớm đi vào hoạt động như BOT Quảng Trạch 1 (1.403 MW), và Na Dương 2 (110 MW).
Ngoài ra, đối với 6 dự án nằm trong diện gặp rủi ro trong công tác thu xếp vốn, Bộ Công thương xem xét chấm dứt hợp đồng nếu các dự án này không đủ khả năng triển khai đến hết tháng 6/2024.
Ở mảng điện khí, chuyên gia MBS Research nhận định huy động điện khí vẫn gặp nhiều khó khăn trong năm 2024 - 2025, do nguồn cung khí giảm sút và giá khí neo cao. Trong khi đó, các nguồn khí bổ sung từ mỏ mới (Nam Du – U Minh, Sư Tử Trắng) sẽ đi vào hoạt động sớm nhất cuối từ cuối năm 2026 - 2027.
Đối với nhóm thuỷ điện, MBS Research đánh giá nhóm này sẽ có tình hình thuận lợi hơn khi La Nina quay trở lại. Theo IRI, pha El Nino đã kết thúc từ quý 2/2024, và pha La Nina có thể quay trở lại từ tháng 8/2024 với xác suất xảy ra cao nhất.
Do đó, MBS Research cho rằng nhóm thủy điện sẽ có thể được huy động tốt hơn ngay trong quý 2/2024 so với thấp điểm quý 1, giai đoạn các nhà máy thực hiện tích nước tối đa để phục vụ cho cao điểm mùa nóng. Hiện tại các hồ thủy điện đang duy trì mực nước cao và trong trạng thái sẵn sàng huy động.
Hơn nữa, nhóm thủy điện có thể duy trì sản lượng huy động tích cực trong nửa cuối 2024 sang 2025, khi pha La Nina thường kéo dài từ 15 - 18 tháng. Ngoài ra, với tính chất giá rẻ, thủy điện thường được cân đối huy động ở mức tối đa.
Mặt khác, giá bán thủy điện có thể sẽ giảm so với cùng kỳ ảnh hưởng đến tăng trưởng doanh thu các nhà máy. Nguyên nhân chính đến từ quyết định tăng tỷ lệ Qc thủy điện từ 90% lên 98% trong 2024, đồng nghĩa với việc tỷ lệ Qm giảm từ 10% xuống 2%, giảm dư địa huy động sản lượng giá cao trên thị trường điện.
MBS Research cho rằng việc giảm Qm thủy điện là một phương án để A0 kiểm soát tốt hơn hoạt động điều độ các nhà máy, tránh xảy ra tình trạng thiếu điện như nửa đầu năm 2023.
Tuy nhiên, triển vọng giá điện nhóm thủy điện nhỏ (dưới 30MW) vẫn duy trì do hưởng lợi từ biểu phí tránh được và các nhà máy không huy động trên thị trường điện. Theo đó, một số doanh nghiệp có tỷ trọng thủy điện nhỏ cao như HDG, PC1, GEG có thể sẽ hưởng lợi trong năm nay.
HND cổ phiếu phòng thủ trở thành mũi công tuyệt vời trong lúc này!
1. Theo thông tin từ cuộc họp tổng kết 5 tháng đầu năm 2024 thì lợi nhuận trước thuế 5 tháng đạt được 379.02 tỷ bằng 96.33% so với kế hoạch ( Kế hoạch 2024 là 393.899 tỷ đồng). Như vậy T4+5 của 2024 đã tăng trưởng 21% so với quý 2/2023 rồi. Nên chỉ cần mức phát điện T6 bằng trung bình các tháng quý 1-2024 thì quý 2-2024 tăng trưởng ít nhất cũng hơn 50% so với cùng kỳ quý 2-2023.
2. Khấu hao tài sản cố định cũng sắp xong, nợ dài hạn không còn- chỉ còn nợ ngắn hạn hơn 413 tỷ . Với tốc độ trả nợ như hiện tại chậm lắm sau 2024 là sạch nợ.
3. Công nghệ mới nên chi phí sữa chữa và bảo dưỡng thấp. Khấu hao tài sản xong và sạch nợ vay thì lúc đó lại trở thành PPC ver2.0 cổ đông chỉ ngồi im ăn cổ tức cao.
4. Mặc dù những cơn mưa T5 và T6 giúp lượng nước về hồ thủy điện rất nhiều nhưng hiện tại thì huy động công suất của nhiệt điện vẫn cao nhất hệ thống.
5. Có 1 sự thật là nhu cầu AI càng tăng mạnh, hay sự dịch chuyển chuỗi cung ứng sang Việt Nam thì nhu cầu về điện sẽ càng khủn
6. Mẫu hình trên đồ thị W sẽ trở thành cốc tay cầm siêu đẹp khi vol nổ và giá vượt 16.2
Do việc up hình trên 24h rất mất thời gian nên để hiểu hơn cả nhà có thể qua page facebook của mình để đọc bài có hình ảnh đính kèm!
Cổ phiếu điện liên tục tăng, định giá có còn rẻ?
Theo đánh giá của VPBankS, theo PE, các doanh nghiệp ngành điện (phát điện và phân phối điện) đang được định giá cao hơn trung bình thị trường, PE ngành điện ở mức 22.3 lần, trong khi VN-Index là 14,2 lần. Mức PE ngành điện diễn biến cao hơn từ đầu năm 2024, và tăng nhanh khi lũy kết kết quả kinh doanh Q1/2024...
Trong khi sản lượng điện toàn hệ thống tăng, kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp ngành điện suy giảm về doanh thu với mức giảm 7,9% và đặc biệt về lợi nhuận trước thuế giảm 66,8% và có sự phân hóa lớn trong nhóm các doanh nghiệp Thủy điện- Nhiệt điện Than- Nhiệt điện khí.
Chủ yếu do: Giá thị trường điện điều chỉnh giảm 11,2% so với 2023, tỷ lệ alpha (tỷ lệ điện hợp đồng Qc) cho thủy điện tăng lên mức 98%; Thủy điện nước về hồ thấp do El nino, trữ nước để dành cho mùa nắng nóng, sản lượng thấp, tỷ lệ Alpha (%Qc) cao (98%).
Nhiệt điện than có giá cạnh tranh tốt, được huy động sản lượng cao nên kết quả kinh doanh tăng tốt (QTP, HND, PPC). Nhiệt điện khí cạnh tranh thấp do giá khí cao, thiếu khí cục bộ, được huy động thấp nên kết quả kinh doanh suy giảm (PGV, POW, NT2, BTP).
Trên thị trường, cổ phiếu điện tiếp tục bật tăng mạnh trong phiên ngày 3/6 với POW bật hết biên độ, NT2 tăng 2,4%; PC1 tăng 3,50%...
Theo đánh giá của VPBankS, theo PE, các doanh nghiệp ngành điện (phát điện và phân phối điện) đang được định giá cao hơn trung bình thị trường, PE ngành điện ở mức 22.3 lần, trong khi VN-Index là 14,2 lần. Mức PE ngành điện diễn biến cao hơn từ đầu năm 2024, và tăng nhanh khi lũy kết kết quả kinh doanh Q1/2024.
Theo PB, mức định giá doanh nghiệp ngành điện đang tương đương thị trường, ở mức 1,72 lần so với 1,76 lần toàn thị trường
Theo EV/EBITDA, các doanh nghiệp ngành điện được định giá thận trọng hơn với mức 8,8 lần so với 16,3 lần của thị trường.
VPBankS đánh giá triển vọng lạc quan những tháng tiếp theo trong năm 2024 khi dự báo Nhu cầu điện tiếp tục tăng lên. Bộ Công thương/EVN vừa thực hiện điều chỉnh phương án nhu cầu điện tăng thêm 1,25% so với kế hoạch đầu năm, đưa tổng nhu cầu điện lên 310,6 tỷ kwh, tăng 10,68% so với 2023.
Giá nhiên liệu sơ cấp dự báo cơ bản ổn định sau khi đã giảm trong năm 2022-2023. Giá dầu khí trên thị trường quốc tế dự báo biến động trong khoảng 80-90 usd/thùng trong năm 2024. Căng thẳng địa chính trị có thể đẩy giá dầu tăng cao lên trên 95 usd/thùng, nhưng cơ bản là ổn định như trong năm 2023. Giá khí tại Mỹ được dự báo tăng khoảng 5% trong năm 2024 lên mức 2,66 usd/mmbtu.
Giá than trong năm 2023 cũng giảm mạnh khoảng 52%-54% đồi với từng loại
than (xuất xứ và nhiệt trị). Năm 2023 cũng được dự báo tiêu thụ than đạt mức đỉnh với 8,54 tỷ tấn, tăng 1,4%. Từ 2024 tiêu thụ than sẽ giảm dần, đặc biệt ở các nước phát triển, do năng lượng tái tạo tiếp tục được đầu tư lớn. Điều này có thể gây áp lực lên giá than.
Đến cuối T5/2024 có 29 dự án với tổng công suất 1.578MW/4.735MW công suất điện năng lượng tái tạo hoàn thành COD. Tăng thêm 8 dự án với công suất 376 MW. Có thể thấy tốc độ thực hiện COD còn khá chậm. Hiện vẫn còn 4 dự án (137 MW) chưa gửi hồ sơ đàm phán giá điện. Theo kế hoạch, Nhà máy điện khí LNG Nhơn Trạch 3 (NT3) sẽ đi vào vận hành thử từ tháng 5.2024 và vận hành thương mại từ tháng 11/2024, với công suất 812 MW.
Theo kế hoạch, Nhà máy điện khí LNG Nhơn Trạch 3 (NT3) sẽ đi vào vận hành thử từ tháng 5/2024 và vận hành thương mại từ tháng 11/2024, với công suất 812 MW.
Hình thái El Nino sẽ kết thúc từ tháng 5-6/2024 và La Nina khả năng sẽ quay trở lại từ cuối tháng 5 đầu tháng 6/2024. Đến cuối tháng 5, lượng nước tích trữ các hồ đat khoảng 11,3 tỷ kwh, dự phòng cho cao điểm nắng nóng sắp tới. Điều này hỗ trợ các nhà máy thủy điện có thể hoạt động tích cực hơn so với 2023. Dự báo sản lượng thủy điện năm 2024 có thể đạt 84,1 tỷ kwh, tăng 4% so với năm 2023.
Trong năm 2024 kinh tế kỳ vọng kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ hơn (6%-6.5%). Dự báo nhu cầu điện sẽ tiếp tục tăng lên 10%-11%. EVN cập nhật kế hoạch (KH2) sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu đạt 310,6 tỷ kwh, tăng 10,68% so với thực hiện 2023. Phương án dự phòng (KH3) là nhu cầu tăng cao hơn đạt 313,4 tỷ kwh (+11,4%).
Điện Than và khí tiếp tục đóng góp vai trò nền tảng, chi phí sản xuất điện than hợp lý hơn khi giá than ở mức thấp. Điện khí được bổ sung nhà máy NT3 vào cuối năm 2024. Năng lượng tái tạo - Điện gió được bổ sung thêm 3.500MW từ các dự án chuyển tiếp, nếu đẩy nhanh tiến độ COD, sản lượng có thể tăng thêm gần tỷ kwh.
Các ông lớn ngành điện kinh doanh sa sút trong quý 1
Quý 1/2024, ngành điện có sự phân hóa rõ rệt. Trong khi tiết trời không ủng hộ thủy điện, nhóm nhiệt điện cũng phân chia giữa các doanh nghiệp điện than và điện khí. Điện tái tạo cũng kẻ mỉm cười, người buồn bã.
Thống kê từ VietstockFinance, trong số 40 doanh nghiệp ngành điện đã công bố BCTC quý 1, chỉ 12 đơn vị có lãi. Số còn lại giảm mạnh về lợi nhận, thậm chí một vài cái tên báo lỗ.
Thủy điện “sầu vì trời”
Sự đi xuống của nhóm thủy điện trong quý đầu năm nay đều xuất phát từ lý do chung “thủy văn kém thuận lợi”. Trong đó, có những ông lớn trong ngành đánh rơi gần hết lợi nhuận, thậm chí rơi vào tình trạng thua lỗ.
Đa phần các doanh nghiệp thủy điện đón nhận kết quả giảm sâu trong quý 1
Cái tên đáng chú ý nhất là Vĩnh Sơn - Sông Hinh (HOSE: VSH) với bức tranh kinh doanh đầy u ám khi doanh thu giảm 61%, ghi nhận 350 tỷ đồng; lợi nhuận gần như “bốc hơi” toàn bộ, chỉ còn 2 tỷ đồng (cùng kỳ lãi 477 tỷ đồng).
Trong giải trình, VSH cho biết, tình hình thủy văn tại khu vực miền Trung đang nối dài chuỗi ngày kém thuận lợi từ cuối năm 2023. Lưu lượng nước về hồ thấp hơn kế hoạch và trung bình nhiều năm, ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất điện. Sản lượng điện thương phẩm trong quý 1 giảm gần 210 triệu kWh (giảm 32.12% so với cùng kỳ). Ngoài ra, giá bán điện bình quân cũng thấp hơn cùng kỳ, dẫn đến doanh thu giảm sâu.
DNH (Thủy điện Đa Nhim - Hàm Thuận - Đa Mi) lãi ròng chỉ 67 tỷ đồng, giảm 83% so với cùng kỳ. Doanh thu trong kỳ chia hơn 3 lần, chỉ đạt 231 tỷ đồng, nguyên nhân cũng là do lưu lượng nước về hồ giảm làm hụt sản lượng điện. Ngoài ra, DNH cho biết, tỷ trọng sản lượng tham gia thị trường điện trong quý 1 cũng thấp hơn cùng kỳ.
Cùng lý do thời tiết, AVC (Thủy điện A Vương) báo lãi chỉ 33 tỷ đồng, chia hơn 3 lần so với cùng kỳ. Trong khi đó, TMP (Thủy điện Thác Mơ) lãi ròng giảm 63%, còn 38 tỷ đồng, do sản lượng điện huy động trong kỳ thấp.
Nhiều cái tên khác cũng chứng kiến lợi nhuận bị cuốn trôi theo dòng nước, như BSA (giảm 96%), CHP (giảm 71%), TBC (giảm 45%) hay thậm chí thua lỗ như BHA, HNA hoặc SP2. Với REE (CTCP Cơ Điện Lạnh), việc các đơn vị thành viên như VSH, TBC, TMP… lao dốc cũng kéo kết quả mảng điện của Doanh nghiệp đi xuống. Kết thúc quý 1, mảng hạ tầng điện của REE lãi 238 tỷ đồng, chưa bằng 1/2 cùng kỳ.
Vài doanh nghiệp may mắn ngược chiều xu hướng, báo lãi trong kỳ, nhưng không phải nhờ kinh doanh điện. Chẳng hạn như XMP (Thủy điện Xuân Minh) tăng lãi 30% nhờ giảm chi phí tài chính (do lãi vay giảm) hay SVH (Thủy điện Sông Vàng) tăng lãi 16% nhờ giảm mạnh chi phí quản lý doanh nghiệp.
Nhiệt điện: Người tăng khủng, kẻ lỗ nặng
Kết quả kinh doanh nhóm nhiệt điện trong quý 1/2024
Khi thủy điện gặp khó, nhóm nhiệt điện sẽ có xu hướng hưởng lợi nhờ tăng sản lượng huy động. Đây là lý do khiến nhiều doanh nghiệp nhiệt điện báo lãi tăng “khủng”.
HND (Nhiệt điện Hải Phòng) là cái tên gây chú ý nhất với khoản lợi nhuận 155 tỷ đồng (gấp 15 lần cùng kỳ). Do huy động tăng, sản lượng điện trong quý 1 cao hơn cùng kỳ 519 triệu kWh so với cùng kỳ, giúp doanh thu tăng trưởng 8% (lên gần 2.8 ngàn tỷ đồng).
Chung lý do, PPC (Nhiệt điện Phả Lại) lãi 157 tỷ đồng, gấp gần 4 lần cùng kỳ. Tương tự, QTP (Nhiệt điện Quảng Ninh) ghi nhận sản lượng tăng 8.4%, giúp Doanh nghiệp lãi ròng 227 tỷ đồng, hơn cùng kỳ 57%.
Tuy nhiên, quý 1 cũng chứng kiến sự đi xuống bất ngờ của 2 cái tên lớn là PGV (EVNGenco3) và NT2 (Điện lực dầu khí Nhơn Trạch 2). Trong đó, PGV lỗ tới 655 tỷ đồng (cùng kỳ lãi 620 tỷ đồng), cũng là đơn vị lỗ nặng nhất toàn ngành. Thứ “gieo sầu” cho họ là khoản lỗ tỷ giá tới hơn 617 tỷ đồng (cùng kỳ lãi 172 tỷ đồng).
NT2 gây ngỡ ngàng khi lỗ ròng 158 tỷ đồng (cùng kỳ lãi 234 tỷ đồng). Doanh nghiệp không ghi rõ nguyên nhân, chỉ thông báo sản lượng điện rơi sâu so với cùng kỳ (151 triệu kWh so với hơn 1 tỷ kWh tại quý 1/2023). Khoản lỗ của NT2 cũng là một phần nguyên nhân khiến công ty mẹ là POW (PV Power) rơi gần 50% lợi nhuận quý 1, chỉ đạt 278 tỷ đồng.
Điện tái tạo: Biến động
Với đặc trưng là một nguồn nhiều biến động, nhóm điện tái tạo có sự phân hóa trong kết quả quý 1.
GEG (Điện Gia Lai), sau những quý đi lùi, đã có thể mỉm cười với khoản lợi nhuận 90 tỷ đồng trong quý 1, tăng trưởng 40%. Doanh thu cũng ghi nhận tăng 35%, lên 739 tỷ đồng; trong đó 61% là doanh thu từ điện gió.
Phía GEG giải thích, doanh thu tăng mạnh nhờ nhà máy Điện gió Tân Phú Đông 1 đi vào vận hành từ tháng 6/2023 và được chấp thuận giá tạm 50%. Hơn nữa, đặc điểm điện gió trong khu vực sẽ thuận lợi vào các tháng đầu năm, nên đóng góp đáng kể vào doanh thu.
PC1 cũng là cái tên tăng lãi mạnh với khoản lợi nhuận 81 tỷ đồng (gấp 5.5 lần cùng kỳ). Tuy nhiên, doanh thu bán điện thực chất đi lùi 9%, đạt 355 tỷ đồng. Điều này có thể giải thích vì mảng điện của Tập đoàn vận hành cả thủy điện và điện gió, mà tình hình thủy điện lại gặp khó khăn trong quý đầu năm.
HDG (Hà Đô) thì giảm lãi 27%, còn 221 tỷ đồng, với nguyên nhân chính do doanh thu mảng năng lượng giảm gần 24%. Tuy nhiên, cũng giống như PC1, mảng năng lượng của HDG cũng vận hành cả thủy điện, điện gió và điện mặt trời.
Hóa đơn tiền điện tăng cao, nhiều doanh nghiệp ngành điện kinh doanh “u ám”
Các doanh nghiệp ngành điện kinh doanh kém tích cực trong bối cảnh hóa đơn tiền điện trong dân tăng cao
Bước vào mùa cao điểm nắng nóng, câu chuyện hóa đơn tiền điện tăng cao khi áp dụng cách tính giá điện theo biểu giá lũy tiến 6 bậc trở nên nóng hơn bao giờ hết. Trái ngược lại với sự tăng nóng của hóa đơn tiền điện, nhiều doanh nghiệp ngành điện ghi nhận kết quả kinh doanh “u ám”.
Ông lớn ngành điện thua lỗ nặng
Tại Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), theo báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh năm 2023 của EVN, tổng doanh thu thuần của toàn Tập đoàn năm 2023 ước đạt 497.000 tỉ đồng, tăng 5,4% so với năm 2022.
Tuy nhiên, báo cáo của EVN cho biết, trong bối cảnh chi phí mua điện tăng quá cao, trong khi giá bán lẻ điện chưa được điều chỉnh tương ứng kịp thời nên không bù đắp được chi phí mua điện. Vì vậy, hoạt động sản xuất kinh doanh điện của EVN dự kiến thua lỗ năm thứ 2 liên tiếp.
EVN chưa công bố báo cáo tài chính năm 2023, tính đến kỳ báo cáo cuối quý II/2023, doanh nghiệp lỗ luỹ kế 6 tháng đầu năm 32.055 tỉ đồng, cùng kỳ năm 2022 khoản lỗ này ở mức 22.215 tỉ đồng.
Một công ty thành viên của EVN là Tổng Công ty Phát điện 3 - CTCP (EVNGENCO3 - Mã CK: PGV) ghi nhận doanh thu thuần quý I/2024 đạt 9.687 tỉ đồng, giảm 15% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó phần lớn là doanh thu bán hàng với 9.625 tỉ đồng, giảm 15,4% so với cùng kỳ năm trước.
Giá vốn kỳ này ở mức 9.079 tỉ đồng, giảm 11% so với cùng kỳ năm trước. Sau khi trừ đi giá vốn, lãi gộp quý I/2024 của EVNGENCO3 đạt 608 tỉ đồng, giảm mạnh 50% so với cùng kỳ năm trước. Biên lợi nhuận gộp giảm xuống còn 6,3%, cùng kỳ năm trước ở mức 10,7%. Kết quả Công ty báo lỗ sau thuế 651 tỉ đồng trong quý đầu năm, trong khi cùng kỳ năm trước lãi 620 tỉ đồng.
CTCP Điện lực Dầu khí Nhơn Trạch 2 (Mã CK: NT2) trải qua quý đầu năm thua lỗ nặng với doanh thu giảm mạnh 262 tỉ đồng, giảm mạnh so với con số 2.182 tỉ đồng quý I/2023.
Giá vốn trong kỳ ở mức 487 tỉ đồng, kinh doanh dưới giá vốn khiến Công ty lỗ gộp 225 tỉ đồng. Sau khi hạch toán các chi phí, Dầu khí Nhơn Trạch 2 lỗ sau thuế 158 tỉ đồng trong khi cùng kỳ năm trước lãi 233 tỉ đồng.
Nhiều doanh nghiệp báo lãi giảm mạnh
Tổng Công ty Điện lực TKV - CTCP ghi nhận doanh thu thuần hợp nhất quý đầu năm đạt 3.192 tỉ đồng, tăng 9,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó chủ yếu là doanh thu bán hàng với 3.175 tỉ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu cung cấp dịch vụ khác 16,7 tỉ đồng, giảm 4 tỉ đồng so với cùng kỳ năm trước.
Giá vốn ở mức 2.798 tỉ đồng, tăng 15% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó giá vốn thành phẩm đã bán ở mức 1.785 tỉ đồng. Giá vốn tăng mạnh kéo lợi nhuận gộp kỳ này giảm 16,5%, xuống còn 394 tỉ đồng. Biên lợi nhuận gộp kỳ này theo đó giảm xuống còn 12,3%, cùng kỳ năm trước ở mức 16,2%.
Sau khi hạch toán các chi phí, TKV báo lãi sau thuế đạt 225 tỉ đồng, giảm 22,4% so với quý I/2023.
Tại Tổng Công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam - CTCP (PV Power - Mã CK: POW), doanh thu quý I/2024 đạt 6.243 tỉ đồng, giảm 16% so với cùng kỳ năm trước. Phần lớn là doanh thu bán điện với 6.210 tỉ đồng.
Doanh thu và lợi nhuận quý đầu năm PV Power giảm mạnh.
Giá vốn ở mức 5.886 tỉ đồng, giảm 12,7% so với cùng kỳ; lợi nhuận gộp thu về 376 tỉ đồng, giảm mạnh 44,5%. Sau khi hạch toán các chi phí, Công ty báo lãi sau thuế 216 tỉ đồng, giảm mạnh 66,7% so với cùng kỳ năm trước.
Một số doanh nghiệp ghi nhận kết quả tích cực nhờ giảm giá vốn
BCTC quý I/2024 CTCP Nhiệt điện Hải Phòng (Mã CK: HND) ghi nhận doanh thu thuần quý đầu năm đạt 2.788 tỉ đồng, tăng 8,4%; chủ yếu trong đó là doanh thu bán hàng với 2.786 tỉ đồng.
Doanh thu tăng nhưng giá vốn biến động không đáng kể giúp lợi nhuận của Nhiệt điện Hải Phòng cải thiện.
Doanh thu tăng mạnh nhưng giá vốn tăng không đáng kể, với mức 2.580 tỉ đồng. Sau khi khấu trừ giá vốn, lợi nhuận gộp của doanh nghiệp đạt 208 tỉ đồng và biên lãi gộp ở mức 7,8%, cải thiện mạnh so với 1,8% cùng kỳ năm trước. Kết quả, Nhiệt điện Hải Phòng báo lãi 154 tỉ đồng trong khi cùng kỳ năm trước chỉ lãi 10 tỉ đồng.
CTCP Nhiệt điện Quảng Ninh (Mã CK: QTP) cũng ghi nhận quý kết quả kinh doanh ấn tượng với doanh thu đạt 3.009 tỉ đồng, biến động không đáng kể so với cùng kỳ năm trước.
Giá vốn trong kỳ ở mức 2.725 tỉ đồng, giảm 3,2% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu tăng và lợi nhuận giảm giúp lợi nhuận gộp tăng mạnh 59%, lên mức 284 tỉ đồng. Sau khi hạch toán chi phí, công ty báo lãi sau thuế 226 tỉ đồng, tăng 57% so với quý I/2023.
Nhìn vào bức tranh kinh doanh ngành điện có thể thấy một đặc điểm nổi bật là chi phí mua điện và giá vốn của các doanh nghiệp ở mức rất cao khiến lợi nhuận nhiều doanh nghiệp sụt giảm.
Marque blanche
API de données
Plug-ins Web
Créateur d'affiches
Programme d'affiliation
Le risque de perte dans la négociation d'instruments financiers tels que les actions, les devises, les matières premières, les contrats à terme, les obligations, les ETF et les crypto-monnaies peut être substantiel. Vous pouvez subir une perte totale des fonds que vous déposez auprès de votre courtier. Par conséquent, vous devez examiner attentivement si ce type de négociation vous convient, compte tenu de votre situation et de vos ressources financières.
Aucune décision d'investissement ne doit être prise sans avoir procédé soi-même à une vérification préalable approfondie ou sans avoir consulté ses conseillers financiers. Le contenu de notre site peut ne pas vous convenir car nous ne connaissons pas votre situation financière et vos besoins en matière d'investissement. Nos informations financières peuvent avoir un temps de latence ou contenir des inexactitudes, de sorte que vous devez être entièrement responsable de vos décisions en matière de négociation et d'investissement. La société ne sera pas responsable de vos pertes en capital.
Sans l'autorisation du site web, vous n'êtes pas autorisé à copier les graphiques, les textes ou les marques du site web. Les droits de propriété intellectuelle sur le contenu ou les données incorporées dans ce site web appartiennent à ses fournisseurs et marchands d'échange.