Citations
Nouvelles
Analyse
Utilisateur
24/7
Calendrier économique
Education
Données
- Des noms
- Dernier
- Précédent
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
A:--
F: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
A:--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
--
F: --
P: --
Pas de données correspondantes
Graphiques Gratuit pour toujours
Chat F&Q avec des Experts Filtres Calendrier économique Données OutilFastBull VIP FonctionnalitésTendances du marché
Principaux indicateurs
Dernières vues
Dernières vues
Sujets d'actualité
L’argent fait tourner le monde et la monnaie est une marchandise permanente. Le marché des changes est plein de surprises et d'attentes.
Sur les marchés financiers mondiaux, la bourse sert de baromètre économique et a toujours été au centre de l'attention des investisseurs. Son ascension et sa chute ont un impact profond sur l’économie de divers pays.
Les marchés financiers restent stables mais affichent un sentiment d'anticipation nerveuse alors que la nouvelle semaine commence. Les conflits entre Israël et le Hamas continuent d’occuper le devant de la scène, avec des inquiétudes croissantes quant au risque que la violence engloutisse l’ensemble de la région.
Le marché obligataire est le marché financier le plus ancien, mature, non innovant mais indispensable, tandis que la dette est un ancien vortex commun, discret mais redoutable.
Les meilleurs chroniqueurs
Salut! Êtes-vous prêt à vous impliquer dans le monde financier ?
Les dernières nouvelles et les événements financiers mondiaux.
J'ai 5 ans d'expérience en analyse financière, notamment dans les aspects d'évolution macroéconomique et de jugement de tendances à moyen et long terme. Je me concentre principalement sur l'évolution du Moyen-Orient, des marchés émergents, du charbon, du blé et d'autres produits agricoles.
Coach de trading en chef et conférencier BeingTrader, plus de 8 ans d'expérience dans le trading du marché des changes, principalement XAUUSD, EUR/USD, GBP/USD, USD/JPY et pétrole brut. Un trader et analyste confiant qui vise à explorer diverses opportunités et à guider les investisseurs sur le marché. En tant qu'analyste, je cherche à améliorer l'expérience du trader en le soutenant avec suffisamment de données et de signaux.
Dernière mise à jour
Risk Warning on Trading HK Stocks
Despite Hong Kong's robust legal and regulatory framework, its stock market still faces unique risks and challenges, such as currency fluctuations due to the Hong Kong dollar's peg to the US dollar and the impact of mainland China's policy changes and economic conditions on Hong Kong stocks.
HK Stock Trading Fees and Taxation
Trading costs in the Hong Kong stock market include transaction fees, stamp duty, settlement charges, and currency conversion fees for foreign investors. Additionally, taxes may apply based on local regulations.
HK Non-Essential Consumer Goods Industry
The Hong Kong stock market encompasses non-essential consumption sectors like automotive, education, tourism, catering, and apparel. Of the 643 listed companies, 35% are mainland Chinese, making up 65% of the total market capitalization. Thus, it's heavily influenced by the Chinese economy.
HK Real Estate Industry
In recent years, the real estate and construction sector's share in the Hong Kong stock index has notably decreased. Nevertheless, as of 2022, it retains around 10% market share, covering real estate development, construction engineering, investment, and property management.
Hong Kong, Chine
Ho Chi Minh, Vietnam
Dubaï, Émirats arabes unis
Lagos, Nigeria
Le Caire, Égypte
Marque blanche
API de données
Plug-ins Web
Programme d'affiliation
Tout voir
Pas de données
Non connecté
Se connecter pour accéder à d'autres fonctionnalités
FastBull VIP
Pas encore
Acheter
Se connecter
S'inscrire
Hong Kong, Chine
Ho Chi Minh, Vietnam
Dubaï, Émirats arabes unis
Lagos, Nigeria
Le Caire, Égypte
Marque blanche
API de données
Plug-ins Web
Programme d'affiliation
Điều gì chờ đợi các ngân hàng năm 2025?
Các ngân hàng sẽ đối mặt với bài toán bảo toàn biên lãi thuần (NIM) trong năm 2025.
Năm 2025, ngành ngân hàng dự báo đối mặt nhiều thách thức khi chi phí vốn có thể tăng trở lại khiến NIM giảm, nợ xấu có nguy cơ gia tăng và cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
Thuộc nhóm ngành chiếm tỷ lệ vốn hóa lớn top đầu thị trường, đà chững lại của các cổ phiếu ngân hàng năm 2024 là một trong những nguyên nhân khiến chứng khoán trong nước không thể bứt phá mạnh.
Tín dụng vẫn ghi nhận tín hiệu tích cực nhưng các mảng kinh doanh ngoài lãi chậm lại, đặc biệt là bảo hiểm đã khiến tăng trưởng của nhiều ngân hàng không đạt kỳ vọng. Ngành ngân hàng trong năm 2024 cũng phải thu hẹp biên lợi nhuận để giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp phục hồi sản xuất.
Trong bối cảnh năm 2025 dự báo còn nhiều khó khăn, các chuyên gia đều cho rằng ngành ngân hàng cần tìm động lực mới để dẫn dắt tăng trưởng.
Ngân hàng tìm cách bảo toàn NIM
Bà Lê Thu Uyên, chuyên gia phân tích ngành ngân hàng thuộc VPBankS Research cho rằng năm 2025, lãi suất huy động dự báo duy trì ổn định, trong khi lãi suất cho vay có thể giảm nhẹ dẫn đến biên lãi thuần (NIM) của các ngân hàng có thể bị thu hẹp. Để bù đắp cho đà suy giảm này, các ngân hàng sẽ cần thúc đẩy tăng trưởng tín dụng cao hơn năm 2024.
Theo bà Uyên, trong năm tới, tình hình kinh tế toàn cầu cũng đặt ra nhiều thách thức. Việc ông Donald Trump tái đắc cử tổng thống Mỹ làm dấy lên lo ngại về các chính sách bảo hộ thương mại có thể tăng áp lực lạm phát. Nếu Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) duy trì lãi suất cao hơn kỳ vọng, đồng USD có thể mạnh lên trong khi VND yếu đi. Điều này gây áp lực lên chính sách tiền tệ nới lỏng của Việt Nam.
Dù vậy, bà Uyên cho rằng Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có thể vẫn phải giữ lãi suất ở mức thấp để hỗ trợ nền kinh tế trong nước.
Bên cạnh đó, nguồn vốn nước ngoài không còn rẻ như trước khiến các ngân hàng phải phụ thuộc nhiều hơn vào tiền gửi không kỳ hạn (CASA) để tối ưu chi phí vốn (COF).
Tỷ lệ CASA toàn ngành đã giảm nhẹ xuống 20,7% trong quý III từ mức 21,4% của quý II liền trước. Tuy nhiên, con số này vẫn cao hơn so với cùng kỳ năm ngoái là 19,3%.
Nữ chuyên gia ngân hàng cho rằng để thu hút và giữ chân khách hàng (đặc biệt là nhóm bán lẻ) các ngân hàng cần đầu tư mạnh vào công nghệ và dịch vụ nhằm nâng cao trải nghiệm người dùng. Đây là yếu tố quyết định để duy trì vị thế là tài khoản thanh toán chính của khách hàng, từ đó thu hút thêm tiền gửi không kỳ hạn, giảm chi phí vốn đầu vào.
"Với mức NIM giảm 0,2-0,3 điểm % tại hầu hết ngân hàng từ đầu năm, NIM được dự báo tiếp tục đi ngang trong những năm tới do áp lực cạnh tranh gay gắt và chi phí vốn gia tăng. Trong bối cảnh này, việc cân đối giữa lợi nhuận, chi phí vốn, chiến lược khách hàng sẽ là bài toán quan trọng mà các ngân hàng phải giải quyết trong năm 2025", bà Uyên chia sẻ.
TS. Nguyễn Trí Hiếu thì cho rằng năm 2025 dự kiến là một năm đầy biến động, tạo áp lực lớn lên hệ thống ngân hàng và gia tăng rủi ro tín dụng. Khi mức độ rủi ro trong hoạt động ngân hàng tăng, các tổ chức tín dụng sẽ buộc phải điều chỉnh lãi suất để phản ánh thực tế này, bởi lãi suất luôn là một biến số tỷ lệ thuận với rủi ro.
“Các ngân hàng sẽ phải trích lập dự phòng rủi ro cao hơn, và chi phí này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu lãi suất. Tôi dự báo cả lãi suất huy động và cho vay sẽ tăng trong năm tới”, TS. Hiếu cho biết.
Ông cũng lưu ý khi rủi ro tín dụng gia tăng, NIM của các ngân hàng sẽ phải được điều chỉnh tăng để bù đắp những tổn thất tiềm ẩn.
Theo ông, điều này sẽ tạo ra thách thức lớn không chỉ cho các ngân hàng mà còn cho toàn bộ nền kinh tế, bởi chi phí vốn cao hơn sẽ ảnh hưởng đến doanh nghiệp và người tiêu dùng. Tuy nhiên, việc duy trì tỷ lệ NIM ở mức cao là điều cần thiết để bảo vệ sự an toàn và bền vững của hệ thống ngân hàng trong bối cảnh biến động.
Áp lực chất lượng tài sản
Bên cạnh bài toán bảo toàn NIM, ngành ngân hàng 2025 cũng phải giải quyết áp lực chất lượng tín dụng và tài sản. TS. Nguyễn Trí Hiếu nhấn mạnh việc Thông tư 02 và Thông tư 06 dự kiến hết hiệu lực vào cuối năm nay sẽ gây áp lực lớn lên các ngân hàng, đặc biệt trong việc kiểm soát nợ xấu. Tuy nhiên, ông nhận định đây là bước đi cần thiết.
Hiện nay, một phần đáng kể trong danh mục nợ của các ngân hàng là các khoản nợ quá hạn hoặc nợ xấu không thể thu hồi. Việc chấm dứt hiệu lực của 2 thông tư sẽ buộc các ngân hàng phải phân loại nhóm nợ của doanh nghiệp theo đúng quy định, qua đó đảm bảo chất lượng tài sản không bị bóp méo.
Chuyên gia tài chính đề xuất nếu NHNN và Chính phủ muốn hỗ trợ các doanh nghiệp khó khăn tiếp cận vốn vay, có thể cân nhắc yêu cầu tăng cường tài sản đảm bảo.
Tuy nhiên, theo ông, điều quan trọng là phải đưa các khoản nợ về đúng nhóm nợ thực tế, nhằm phản ánh chính xác chất lượng tài sản và tín dụng trên báo cáo tài chính của ngân hàng. Việc này không chỉ giúp hệ thống ngân hàng minh bạch hơn mà còn góp phần xây dựng niềm tin với nhà đầu tư và đối tác quốc tế.
Cùng quan điểm, bà Uyên cũng dự báo nợ xấu năm 2025 ngành ngân hàng có thể tăng nhẹ và gây áp lực lên chi phí dự phòng, bào mòn lợi nhuận. "Tuy nhiên, dư nợ cơ cấu theo Thông tư 02 ở các ngân hàng hiện chỉ chiếm dưới 1% tổng dư nợ, nên tác động lên nợ xấu và chi phí dự phòng sẽ không quá lớn", bà Uyên đánh giá.
Năm 2025, với giả định GDP tăng 6,5% và tăng trưởng tín dụng đạt 15,03%, vị chuyên gia ngân hàng kỳ vọng lợi nhuận trước thuế toàn ngành sẽ tăng 17,7% nhờ động lực từ khối ngân hàng quốc doanh và nhu cầu tín dụng tăng mạnh từ khối doanh nghiệp FDI cũng như giải ngân đầu tư công.
TS Nguyễn Trí Hiếu cũng cho rằng dù còn những áp lực, tăng trưởng lợi nhuận ngành ngân hàng trong năm tới vẫn sẽ đạt mức cao.
Động lực tăng trưởng mới từ bảo hiểm phi nhân thọ
Bên cạnh mảng tín dụng - vốn chiếm phần lớn lợi nhuận ngành ngân hàng - nguồn thu từ phí bảo hiểm phi nhân thọ được dự báo trở thành động lực tăng trưởng tiềm năng cho ngành ngân hàng năm tới.
Theo khảo sát của VPBankS, các quý gần đây, các ngân hàng chủ yếu bán chéo thành công bảo hiểm phi nhân thọ do phí thấp hơn, cam kết đơn giản hơn so với bảo hiểm nhân thọ nhưng vẫn đáp ứng được nhu cầu bảo vệ của khách hàng.
Năm 2025 cũng là năm Thông tư 06 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 02/2023 quy định về việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ cho khách hàng gặp khó khăn hết hiệu lực.
Sau cơn bão số 3 (bão Yagi), nhu cầu mua bảo hiểm phi nhân thọ đã có xu hướng tăng cao. Tính đến cuối quý III, doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ toàn ngành ngân hàng đã tăng gần 13% so với cùng kỳ năm ngoái.
Nhiều ngân hàng đã bắt đầu lấn sân vào lĩnh vực này để khai thác tiềm năng tăng trưởng. Trong đó, Techcombank vừa góp 11% vốn vào công ty bảo hiểm phi nhân thọ TCGIns. Ngoài ra, 6/32 công ty bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam có sự tham gia góp vốn của các ngân hàng lớn như BIDV, VietinBank, Agribank, MB, VPBank và Techcombank.
TS. Nguyễn Trí Hiếu thì cho rằng xuất khẩu sẽ tiếp tục đóng vai trò then chốt trong nền kinh tế Việt Nam năm tới. Ông đánh giá những ngân hàng tập trung phát triển các dịch vụ liên quan đến thanh toán quốc tế, bảo lãnh giao dịch xuyên biên giới, chuyển tiền, thu hộ, và tài trợ thương mại sẽ là nhóm hưởng lợi lớn từ đà tăng trưởng của ngành ngoại thương.
Ngoài ra, nền kinh tế Việt Nam ngày càng đẩy mạnh quá trình số hóa, tạo cơ hội lớn để các ngân hàng phát triển các giải pháp kỹ thuật số tiên tiến. Tuy nhiên, loạt vụ việc liên quan đến lỗ hổng bảo mật trong năm nay đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về những rủi ro tiềm tàng trong hệ thống ngân hàng.
Dù vậy, chuyên gia Nguyễn Trí Hiếu cho rằng chính trong những thách thức này lại xuất hiện cơ hội cho các ngân hàng tập trung đầu tư vào công nghệ cao, xây dựng hệ thống phòng thủ an ninh mạng vững chắc và nâng cao trải nghiệm khách hàng.
Năm 2025, ông Hiếu cho rằng các ngân hàng không sẵn sàng đầu tư mạnh mẽ vào công nghệ có nguy cơ bị tụt hậu, mất thị phần trong cuộc đua số hóa đầy cạnh tranh.
Ghế nóng ngân hàng đổi chủ: Đón tướng mới, tiễn công thần
Làn sóng thay đổi nhân sự cấp cao, đặc biệt trong các ngân hàng thương mại cổ phần, ngày càng trở thành một yếu tố không thể thiếu trong tiến trình phát triển và chuyển mình của ngành ngân hàng.
Cuối năm 2024, "ghế nóng" tại nhiều ngân hàng thay đổi chủ, phản ánh những biến động quan trọng trong ngành tài chính.
Ngày 26/12, Ngân hàng Lộc Phát Việt Nam (LPBank) đã chính thức công bố quyết định bổ nhiệm ông Lưu Danh Đức vào vị trí Phó Tổng Giám đốc kiêm Giám đốc Khối Công nghệ Thông tin, một sự bổ sung quan trọng trong chiến lược phát triển công nghệ của ngân hàng.
Trước đó, vào ngày 18/12, ông Lưu Danh Đức đã được Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB) miễn nhiệm chức vụ Phó Tổng Giám đốc kiêm Giám đốc Khối Công nghệ Thông tin theo nguyện vọng cá nhân.
Ông Lưu Danh Đức, sinh năm 1973, là Thạc sĩ Công nghệ Thông tin tại Viện Tin học Pháp ngữ (IFI) và Kỹ sư Công nghệ Thông tin tại Đại học Bách khoa Hà Nội. Với hơn 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực công nghệ ngân hàng, cả trong nước và quốc tế, ông đã gặt hái được thành công ở nhiều vị trí lãnh đạo quan trọng tại các ngân hàng và tập đoàn lớn như Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội, Tập đoàn T&T, Tập đoàn Sovico, SunGroup, VETC – Tasco, VinGroup, và Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam.
Trước đó, vào tháng 10, LPBank cũng đã bổ nhiệm ông Vũ Quốc Khánh vào vị trí Quyền Tổng Giám đốc, sau khi ông Hồ Nam Tiến thôi đảm nhận chức vụ Tổng Giám đốc để giữ chức Phó Chủ tịch thường trực HĐQT ngân hàng.
Dù năm 2024 đã gần kết thúc, nhưng làn sóng thay đổi nhân sự cấp cao tại các ngân hàng vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại. Cùng thời điểm, Ngân hàng TMCP Thịnh vượng và Phát triển (PGBank) đã bổ nhiệm ông Nguyễn Văn Hương làm Tổng Giám đốc nhiệm kỳ 2024-2027, sau khi ông Hương từ chức Phó Tổng Giám đốc tại Ngân hàng TMCP Phương Đông (OCB).
Bên cạnh đó, những biến động lớn cũng đang diễn ra tại các ngân hàng thuộc nhóm Big4. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) đã thay đổi Chủ tịch Hội đồng thành viên (HĐTV) sau khi ông Phạm Đức Ấn được bầu làm Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh, và ông Trần Văn Dũng đã được giao phụ trách điều hành hoạt động của HĐTV Agribank.
Tại các ngân hàng tư nhân, các sự thay đổi nhân sự cấp cao cũng đang diễn ra mạnh mẽ. Ngân hàng OceanBank, sau khi đổi tên thành MBV, đã bổ nhiệm ông Vũ Thành Trung làm Chủ tịch HĐTV và ông Lê Xuân Vũ làm Tổng Giám đốc MBV. Các ngân hàng như OCB, HDBank, Kienlongbank cũng chứng kiến nhiều sự thay đổi quan trọng ở các vị trí lãnh đạo cấp cao.
Những biến động này phản ánh một sự chuyển mình lớn trong ngành ngân hàng, khi các HĐQT của các ngân hàng chủ động thay đổi lãnh đạo nhằm củng cố lại chiến lược phát triển và vị thế của mình trong bối cảnh thị trường đang có nhiều thay đổi. Những quyết định "thay tướng" này không chỉ là các sự kiện quan trọng mà còn thể hiện sự điều chỉnh chiến lược của các ngân hàng để phù hợp với từng giai đoạn phát triển mới.
Ngân hàng: Vai trò tiên phong trong việc định hướng thị trường trái phiếu năm 2024
Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam phát triển mạnh mẽ, các ngân hàng đang tận dụng kênh trái phiếu dài hạn không chỉ để tăng cường vốn cấp 2, mà còn để tối ưu hóa cấu trúc tài chính, hỗ trợ cho mục tiêu tăng trưởng bền vững trong những năm tới.
Theo báo cáo mới nhất từ VIS Rating, tổ chức xếp hạng tín dụng uy tín tại Việt Nam, thị trường trái phiếu đã có sự hồi phục mạnh mẽ trong 11 tháng đầu năm 2024, khi tổng lượng trái phiếu phát hành mới đạt 403.000 tỷ đồng. Con số này không chỉ phản ánh sự phục hồi sau giai đoạn khó khăn 2022-2023, mà còn đánh dấu mức phát hành ấn tượng, tương đương với năm 2019 và chỉ đứng sau đỉnh cao của thị trường vào hai năm 2020-2021.
Theo báo cáo từ VIS Rating, một tổ chức xếp hạng tín dụng uy tín tại Việt Nam, tổng lượng trái phiếu phát hành mới trong 11 tháng đầu năm nay đạt 403.000 tỷ đồng, minh chứng cho sự phục hồi mạnh mẽ sau giai đoạn khó khăn 2022-2023. Mức phát hành này không chỉ ngang bằng với năm 2019 mà còn chỉ đứng sau những đỉnh cao của thị trường trái phiếu trong hai năm 2020-2021.
Giống như năm ngoái, thị trường trái phiếu năm nay chủ yếu được dẫn dắt bởi nhóm ngân hàng, với tỷ trọng phát hành chiếm ưu thế, tiếp theo là ngành bất động sản.
Theo dữ liệu từ Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam (VBMA), trong 10 tháng đầu năm, các ngân hàng tiếp tục là nhóm ngành phát hành trái phiếu nhiều nhất, chiếm tới 72% giá trị toàn thị trường, tương đương với 239.655 tỷ đồng.
Trong tháng 11/2024, theo thống kê từ VIS Rating, lượng trái phiếu phát hành mới đã giảm xuống còn 23.400 tỷ đồng, giảm mạnh so với mức 39.100 tỷ đồng của tháng 10. Các ngân hàng thương mại vẫn chiếm ưu thế khi phát hành tổng cộng 17.400 tỷ đồng, tiếp tục chiếm hơn 70% giá trị các đợt phát hành mới.
Một trong những điểm đáng chú ý trong chiến lược phát hành trái phiếu của các ngân hàng là chi phí vốn. Thông thường, lãi suất trái phiếu mà các ngân hàng phải trả thường cao hơn so với lãi suất tiết kiệm ở cùng kỳ hạn. Tuy nhiên, việc đa dạng hóa nguồn vốn huy động là điều hết sức quan trọng đối với các nhà băng, giúp giảm sự phụ thuộc vào tiền gửi của khách hàng dân cư, vốn có tính nhạy cảm cao với biến động lãi suất. Ngược lại, vốn huy động từ trái phiếu có kỳ hạn dài hơn, do đó mang tính ổn định và bền vững hơn.
Một trong những lý do chủ yếu khiến các ngân hàng phát hành trái phiếu dài hạn là để đảm bảo tuân thủ tỷ lệ an toàn vốn theo quy định của Basel, với mức tối thiểu hiện nay là 8%. Bên cạnh việc đáp ứng yêu cầu này, việc phát hành trái phiếu còn giúp các ngân hàng gia tăng nguồn vốn dài hạn, từ đó đáp ứng tốt hơn nhu cầu tín dụng của nền kinh tế.
Điều này không chỉ giúp nâng cao năng lực tài chính của ngân hàng mà còn đóng góp vào sự phát triển bền vững của toàn hệ thống tín dụng. Trong trường hợp không thể ngay lập tức tăng vốn điều lệ để bổ sung vốn cấp 1 (Tier 1 capital), các ngân hàng có thể phát hành trái phiếu dài hạn đủ điều kiện để được tính vào vốn cấp 2 (Tier 2 capital) theo quy định của Basel II và III.
Những yêu cầu này bao gồm: kỳ hạn tối thiểu 5 năm, không có quyền rút vốn trước hạn, điều khoản chuyển đổi thành cổ phần hoặc hủy bỏ (write-down) trong trường hợp ngân hàng gặp khó khăn tài chính, cùng với lãi suất cố định hoặc điều chỉnh theo một số chỉ số nhất định.
Một ví dụ điển hình là Agribank, dù là ngân hàng thương mại Nhà nước với mạng lưới rộng khắp, nhưng vài năm trước, ngân hàng này đã phải đối mặt với nguy cơ vi phạm hệ số an toàn vốn CAR khi Thông tư 41 có hiệu lực. Để đáp ứng yêu cầu này trong thời gian ngắn, Agribank đã quyết định phát hành 10.000 tỷ đồng trái phiếu dài hạn, đồng thời triển khai các biện pháp kiểm soát rủi ro tài sản một cách quyết liệt. Đây là giải pháp kịp thời khi Agribank chưa thể ngay lập tức tăng vốn điều lệ.
Chỉ trong những tháng cuối năm 2022, mặc dù thị trường trái phiếu doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, Agribank đã phát hành thành công 12.431 tỷ đồng trái phiếu tăng vốn, nâng vốn chủ sở hữu của ngân hàng lên 86.997 tỷ đồng. Nhờ đó, hệ số CAR của Agribank đã đạt mức 9% ngay trong năm đầu tiên của Thông tư 41.
Trong khi đó, vào năm 2024, Agribank không còn phải phát hành trái phiếu mới, nhờ việc đã được cơ quan quản lý chấp thuận tăng vốn điều lệ. Theo Nghị quyết của Quốc hội khóa XV, Agribank sẽ được bổ sung vốn điều lệ trong giai đoạn 2021-2030, tương ứng với lợi nhuận còn lại thực nộp ngân sách Nhà nước, với mức tối đa lên tới 17.100 tỷ đồng.
Tương tự như Agribank, nhiều ngân hàng khác cũng tìm đến trái phiếu dài hạn như một kênh tăng vốn cấp 2, nhằm gia tăng bộ đệm dự phòng và đảm bảo hệ số CAR. Theo VIS Rating, trong tháng 11, khoảng 40% trái phiếu phát hành bởi các ngân hàng như HDBank, ACB, TPBank, LPBank, và Eximbank là trái phiếu thứ cấp đủ điều kiện tính vào vốn cấp 2.
Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng phải tuân thủ quy định về tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn, khi tỷ lệ này phải giảm từ 34% xuống còn 30% theo Thông tư 08 từ ngày 1/10/2023. Điều này đã thúc đẩy các ngân hàng tập trung phát hành trái phiếu kỳ hạn dài, đặc biệt trong bối cảnh lãi suất đã giảm.
Thêm vào đó, trái phiếu xanh cũng đang trở thành một xu hướng mạnh mẽ trên toàn cầu. Ngân hàng Techcombank, vào tháng 12, đã trở thành ngân hàng tư nhân đầu tiên tại Việt Nam công bố khung trái phiếu xanh, tuân thủ các nguyên tắc của Hiệp hội Thị trường Vốn Quốc tế (ICMA). Khung trái phiếu này, được đánh giá độc lập với xếp hạng "Medium Green", cam kết sử dụng nguồn vốn huy động cho các dự án bảo vệ môi trường, góp phần vào sự phát triển bền vững.
Cùng với Techcombank, Vietcombank cũng đã công bố khung trái phiếu xanh, đánh dấu sự tham gia của nhiều ngân hàng trong việc hỗ trợ các dự án bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Trái phiếu xanh, do đó, đang trở thành một công cụ tài chính quan trọng không chỉ giúp huy động vốn mà còn góp phần bảo vệ môi trường và phát triển nền kinh tế bền vững tại Việt Nam.
Ngân hàng đua nhau nâng lãi suất cuối năm, gửi tiền ở đâu sinh lời cao?
Việc đạt được mục tiêu tăng trưởng tín dụng 15% trong năm nay là khả quan
Tháng cuối năm, hàng loạt ngân hàng đồng loạt điều chỉnh tăng lãi suất huy động nhằm thu hút dòng tiền nhàn rỗi. Xu hướng tăng lãi suất đang chiếm ưu thế, áp đảo số ít ngân hàng thực hiện điều chỉnh giảm.
Theo khảo sát tính đến ngày 20/12, có tới 14 ngân hàng đã điều chỉnh tăng lãi suất huy động kể từ đầu tháng, tạo nên làn sóng tăng lãi suất trên thị trường.
Danh sách các ngân hàng điều chỉnh lãi suất bao gồm nhiều ngân hàng tư nhân như MB, VPBank, TPBank, Techcombank, VIB, MSB, Eximbank, SeABank, CBBank, KienlongBank, IVB, LPBank và chỉ một đại diện của khối quốc doanh là Agribank. Mức tăng phổ biến dao động từ 0,1% đến 1%/năm, với Agribank tăng mạnh nhất lên tới 1%/năm ở các kỳ hạn ngắn dưới 12 tháng, đặc biệt thông qua kênh gửi tiền trực tuyến.
Ở chiều ngược lại, có 7 ngân hàng điều chỉnh giảm lãi suất huy động, bao gồm ABBank, VIB, IVB, LPBank, Bac A Bank, KienlongBank và NCB. Điều này khiến số lượng ngân hàng tăng lãi suất áp đảo hoàn toàn số ngân hàng giảm lãi suất, phản ánh áp lực huy động vốn gia tăng mạnh mẽ trong giai đoạn cuối năm.
Các mức lãi suất nổi bật
Đối với kỳ hạn 3 tháng, lãi suất "kịch trần" 4,75%/năm đang được Eximbank áp dụng cho tiền gửi trực tuyến vào cuối tuần. Trong khi đó, mức lãi suất cao nhất cho kỳ hạn này trong giao dịch thông thường thuộc về Nam A Bank với 4,7%/năm, theo sau là ABBank (4,45%), MBV (4,4%) và CBBank (4,35%).
Với kỳ hạn 6 tháng, CBBank đang dẫn đầu với mức 5,85%/năm, vượt trội so với các ngân hàng khác như ABBank (5,8%), DongABank (5,55%) và NCB (5,45%). Ở kỳ hạn dài hơn 12 tháng, mức lãi suất từ 6%/năm chủ yếu được ghi nhận tại các ngân hàng quy mô vừa và nhỏ như GPBank, Woori Bank, BaoVietBank và Eximbank.
Lý do lãi suất tăng
Chuyên gia kinh tế Đinh Trọng Thịnh nhận định rằng nhu cầu vốn tăng cao vào cuối năm, đặc biệt để đáp ứng tăng trưởng tín dụng, là nguyên nhân chính dẫn đến cuộc đua lãi suất huy động giữa các ngân hàng. Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy tín dụng toàn nền kinh tế tăng 12,5% so với cuối năm 2023, vượt mức 9% cùng kỳ năm ngoái. Nhiều ngân hàng đối mặt với áp lực thanh khoản và tỷ lệ LDR (cho vay trên huy động) cao, buộc phải đẩy mạnh huy động vốn.
Bên cạnh đó, bà Trần Thị Khánh Hiền, Giám đốc Khối Nghiên cứu của Chứng khoán MB (MBS), cho rằng sự cạnh tranh trên thị trường tài chính cũng góp phần làm tăng lãi suất huy động. Bà dự báo lãi suất tiết kiệm sẽ tiếp tục tăng nhẹ trong thời gian tới nhưng sẽ duy trì ở mức ổn định trong năm 2025 khi áp lực tỷ giá giảm bớt và chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước vẫn mang tính hỗ trợ.
Lãi suất vay có tăng theo?
Dù lãi suất huy động có xu hướng tăng, bà Hiền cho rằng lãi suất cho vay không nhất thiết sẽ tăng tương ứng. Các ngân hàng hiện triển khai nhiều gói vay ưu đãi với lãi suất thấp, giúp doanh nghiệp tiếp cận vốn dễ dàng hơn. Thực tế, lãi suất cho vay đã giảm từ 2% đến 2,5%/năm so với đầu năm, xuống mức thấp nhất trong nhiều năm.
Tuy nhiên, nếu lãi suất huy động tiếp tục tăng, lãi suất cho vay có thể điều chỉnh nhẹ, nhưng vẫn trong phạm vi phù hợp với điều kiện thị trường và khả năng tài chính của khách hàng. Những chính sách hỗ trợ từ Ngân hàng Nhà nước như mở rộng phạm vi trả nợ và tăng cường minh bạch lãi suất vay cũng sẽ góp phần giữ ổn định thị trường tín dụng trong thời gian tới.
Cuối năm bội thu, 'giới buôn tiền' thu về lợi nhuận khổng lồ trong quý IV/2024
SSI Research cho rằng vẫn còn tồn tại một số rủi ro tín dụng tiềm ẩn liên quan đến cho vay mua nhà, các chủ đầu tư bất động sản, và ngành năng lượng tái tạo.
Một số ngân hàng đã bắt đầu công bố kết quả kinh doanh trong những tháng cuối năm 2024, với nhiều nhà băng ghi nhận mức tăng trưởng lợi nhuận đáng kinh ngạc.
Khám Phá Lợi Nhuận Ấn Tượng Của Các Ngân Hàng Cuối Năm 2024
Khi năm 2024 đang dần khép lại, nhiều ngân hàng đã công bố kết quả kinh doanh ấn tượng trong những tháng cuối cùng của năm, với những con số lợi nhuận vô cùng khả quan.
Mới đây, TPBank báo cáo lợi nhuận trước thuế đạt hơn 7.100 tỷ đồng trong 11 tháng đầu năm 2024, tăng trưởng 28% so với cả năm 2023. Đồng thời, tổng huy động của ngân hàng đã chạm mốc 338.000 tỷ đồng, với dư nợ tín dụng đạt 254.740 tỷ đồng, tăng trưởng 17% so với đầu năm.
Cùng thời điểm, Nam Á Bank cũng đạt được kết quả ấn tượng với lợi nhuận trước thuế gần 4.100 tỷ đồng, vượt mục tiêu cả năm. Tỷ lệ NIM của ngân hàng đạt 3,68%, vượt chuẩn quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Bên cạnh TPBank và Nam Á Bank, Sacombank cũng báo cáo kết quả ấn tượng trong quý IV/2024, dự kiến lợi nhuận trước thuế của ngân hàng này đạt hơn 4.600 tỷ đồng, tăng 68% so với cùng kỳ năm trước. Tính tổng năm 2024, Sacombank ghi nhận mức lợi nhuận cao nhất trong lịch sử hoạt động của mình, vượt mốc 12.700 tỷ đồng.
Nhóm ngân hàng quốc doanh cũng tỏ ra tự tin với kết quả khả quan. Agribank dự kiến đạt mức tăng trưởng tài sản và lợi nhuận cao nhất trong 4 năm qua, với tổng tài sản tăng 7%, nguồn vốn tăng trên 6%, và dư nợ tăng 11%. Trong khi đó, BIDV, Vietcombank, và VietinBank đều ước tính sẽ đạt tăng trưởng tín dụng lần lượt là 14%, 13%, và 14,7%.
Dự Báo Lợi Nhuận Khả Quan trong Quý IV/2024
Báo cáo từ MBS Research chỉ ra, lợi nhuận sau thuế của các ngân hàng trong quý IV/2024 sẽ tăng mạnh 11,1% so với quý III và 14,5% so với cùng kỳ năm trước. Các ngân hàng như OCB, TPBank, và VPBank được dự đoán sẽ ghi nhận mức tăng trưởng lợi nhuận đáng kể, với OCB dự báo tăng trưởng lên tới 300%, TPBank tăng 172%, và VPBank tăng 108% nhờ vào sự phục hồi mạnh mẽ trong tăng trưởng tín dụng.
Ngược lại, một số ngân hàng như HDBank, VIB, Sacombank, Eximbank và LPBank có thể chứng kiến sự giảm sút về lợi nhuận do mức nền cao của năm 2023. LPBank, đặc biệt, được dự báo sẽ giảm lợi nhuận đến 36% so với năm trước, chủ yếu do nguồn thu nhập bất thường từ hợp đồng bảo hiểm Dai-chi năm ngoái.
Mặc dù các ngân hàng dự báo tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ trong quý IV/2024, MBS cũng chỉ ra rằng NIM có thể giảm nhẹ và thu nhập ngoài lãi chưa thể hồi phục mạnh mẽ. Tuy nhiên, nhờ vào các biện pháp trích lập dự phòng, tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng được kỳ vọng sẽ giảm xuống còn 1,89%.
Những Thách Thức Và Cơ Hội Cuối Năm
Dù các ngân hàng có triển vọng lợi nhuận sáng sủa trong quý IV/2024, các chuyên gia từ SSI Research cảnh báo về một số rủi ro tín dụng tiềm ẩn, đặc biệt là liên quan đến cho vay mua nhà, các chủ đầu tư bất động sản, và ngành năng lượng tái tạo. Dẫu vậy, thị trường tín dụng vẫn giữ được sự ổn định, mang đến kỳ vọng tích cực cho các ngân hàng trong những tháng cuối năm.
Tăng tốc cuối năm, tín dụng không còn xa mục tiêu tăng trưởng
VCBS dự đoán lãi suất cho vay tăng thêm 0,5-0,7% vào năm 2025 trong bối cảnh kinh tế hồi phục và nhu cầu tín dụng mạnh mẽ hơn.
Tín dụng toàn nền kinh tế tăng mạnh trong các tháng cuối năm và không còn xa mục tiêu 14% mà ngành ngân hàng đưa ra cho năm nay, bởi gần giữa tháng 12 đã đạt 12,5%.
Tăng tốc cuối năm
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, tính đến ngày 13/12, tín dụng toàn nền kinh tế tăng khoảng 12,5% so với cuối năm 2023, tập trung vào sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên. Riêng tại địa bàn TP.HCM, tính đến cuối tháng 11/2024, tổng dư nợ tín dụng đạt 3.828 ngàn tỷ đồng, tăng 1,14% so với tháng trước, tăng 8,1% so với cuối năm 2023 và tăng 12,5% so với cùng kỳ.
Ông Nguyễn Đức Lệnh, Phó giám đốc NHNN TP.HCM cho hay, diễn biến tăng trưởng tín dụng của Thành phố trong những tháng gần đây phù hợp với xu hướng tăng trưởng của nền kinh tế. Trong quá trình đó, nhu cầu vốn cho sản xuất - kinh doanh, thương mại dịch vụ, tiêu dùng tăng, trở thành yếu tố chính thúc đẩy tăng trưởng tín dụng trong tháng cuối cùng của năm.
Tại Hội nghị Triển khai nhiệm vụ ngân hàng năm 2025 tổ chức mới đây, lãnh đạo BIDV cho hay, dự kiến kết thúc năm 2024, ngân hàng này sẽ có quy mô tổng tài sản vượt mốc 2,6 triệu tỷ đồng; dư nợ tín dụng đạt gần 2 triệu tỷ đồng, tăng trưởng khoảng 14%. Vietcombank cũng cho biết, năm 2024, tăng trưởng tín dụng dự kiến ở mức 13%, đạt quy mô trên 1,4 triệu tỷ đồng, tổng tài sản gần 2 triệu tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu kiểm soát dưới 1%.
Tương tự, VietinBank là ngân hàng có tốc độ tăng trưởng tín dụng tốt nhất, khi tính đến hết tháng 11/2024, tổng tài sản ước đạt hơn 2,3 triệu tỷ đồng, tăng 14,7% so với năm 2023; tín dụng tăng trưởng 14,2% so với năm 2023; nguồn vốn huy động đạt gần 1,7 triệu tỷ đồng, tăng 11,3% so với cuối năm 2023.
Lãnh đạo Agribank cho hay, dự kiến đến hết năm 2024, tổng tài sản của Ngân hàng tăng 7,9% so với năm 2023; nguồn vốn đạt 2 triệu tỷ đồng, tăng 6% so với đầu năm; dư nợ đạt trên 1,7 triệu tỷ đồng, tăng 11% so với năm 2023; nợ xấu được kiểm soát chặt chẽ, tỷ lệ nợ xấu nội bảng khoảng 1,6%, lợi nhuận trước thuế tăng 8%...
Nhằm thúc đẩy tín dụng, NHNN đã chủ động thực hiện hai lần điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các tổ chức tín dụng trong năm 2024 theo nguyên tắc cụ thể, đảm bảo công khai. Theo đó, NHNN tiếp tục cấp bổ sung hạn mức tín dụng cho các ngân hàng đã sử dụng từ 80% hạn mức được cấp, đây là lần cấp hạn mức tín dụng bổ sung thứ 2 trong năm, với quyết tâm hoàn thành mục tiêu tăng trưởng tín dụng 15%.
Nỗ lực kéo giảm lãi suất cho vay
Phó thống đốc NHNN Đào Minh Tú cho hay, năm 2024, NHNN tiếp tục giữ nguyên các mức lãi suất điều hành trong bối cảnh lãi suất thế giới vẫn neo ở mức cao, tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn từ NHNN với chi phí thấp, qua đó có điều kiện để hỗ trợ nền kinh tế; tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí hoạt động để phấn đấu giảm lãi suất cho vay, yêu cầu tổ chức tín dụng báo cáo và công bố công khai mức lãi suất cho vay bình quân, chênh lệch lãi suất tiền gửi, cho vay bình quân trên trang thông tin điện tử tổ chức tín dụng.
Theo ông Phạm Toàn Vượng, Tổng giám đốc Agribank, Ngân hàng đã triển khai kịp thời các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng theo đúng chỉ đạo của Chính phủ, NHNN. Đến ngày 30/11, Agribank đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ trên 55.000 tỷ đồng (gốc, lãi) cho 7.300 khách hàng; dư nợ còn lại 25.000 tỷ đồng với hơn 3.000 khách hàng.
Sau bão số 3 gây thiệt hại nặng nề về người, tài sản, Agribank đã thực hiện ngay việc giảm từ 0,5- 2%/năm lãi suất cho vay; miễn, giảm 100% lãi quá hạn, lãi chậm trả trong thời gian từ ngày 6/9 đến 31/12/2024 đối với dư nợ hiện hữu; giảm 0,5%/năm lãi suất đối với khoản vay mới phát sinh từ ngày 6/9 đến hết năm 2024. Đến ngày 30/11, dư nợ được giảm lãi suất hỗ trợ hơn 39.000 tỷ đồng, số tiền lãi hỗ trợ là 30 tỷ đồng với 25.000 khách hàng...
Theo báo cáo của các ngân hàng thương mại, đến nay, mặt bằng lãi suất cho vay tiếp tục giảm khoảng 0,96%/năm so với cuối năm 2023. Trong Báo cáo triển vọng ngân hàng năm 2025, Công ty cổ phần Chứng khoán Vietcombank (VCBS) chỉ rõ, lãi suất cho vay đã giảm về mức thấp kỷ lục trong quý III/2024. Theo dữ liệu tổng hợp từ báo cáo tài chính của 27 ngân hàng niêm yết, lãi suất cho vay trung bình đã giảm khoảng 2,7 % từ mức đỉnh của quý I/2023.
Các chuyên gia tích dự báo, việc lãi suất huy động điều chỉnh tăng trở lại từ quý II/2024 có độ trễ 3 - 6 tháng để phản ánh vào lãi suất cho vay. Do đó, mặt bằng lãi suất cho vay đi ngang trong quý IV/2024 và dự đoán trong năm 2025 sẽ tăng tiếp, nhưng ở mức thấp, chứ không quá mạnh như nửa cuối năm 2024.
VCBS dự đoán lãi suất cho vay tăng thêm 0,5-0,7% vào năm 2025 trong bối cảnh kinh tế hồi phục và nhu cầu tín dụng mạnh mẽ hơn. NHNN cũng chia sẻ, việc điều hành lãi suất hiện nay gặp không ít khó khăn do áp lực từ thị trường quốc tế và tình hình trong nước. Nếu lãi suất cho vay giảm mạnh, tỷ giá có nguy cơ tăng cao, gây mất ổn định kinh tế vĩ mô và tâm lý lo ngại cho nhà đầu tư nước ngoài…
Áp lực tăng vốn và tham vọng lọt top 100 châu Á của các 'Big4'
Cần cơ chế tăng vốn "dài hơi" cho 4 ngân hàng quốc doanh.
Trong những năm gần đây, việc tăng vốn điều lệ luôn là vấn đề quan trọng đối với các ngân hàng quốc doanh. Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, việc xây dựng một cơ chế linh hoạt để tăng vốn điều lệ là bước đi cần thiết nhằm hiện thực hóa mục tiêu đưa ngân hàng Việt Nam vào top 100 ngân hàng lớn nhất châu Á.
Big4 gặp khó khăn trong cuộc đua về vốn
Mới đây, tại đại hội đồng cổ đông bất thường, LPBank đã thông qua phương án tăng vốn điều lệ năm 2024 bằng cách phát hành cổ phiếu trả cổ tức năm 2023 cho cổ đông hiện hữu với tỷ lệ 16,8%. Sau khi hoàn tất, vốn điều lệ của ngân hàng này sẽ đạt hơn 29,8 nghìn tỷ đồng. Trước đó, SeABank cũng đã hoàn thành việc tăng vốn điều lệ lên 28.350 tỷ đồng thông qua hai đợt phát hành cổ phiếu trả cổ tức và phát hành cổ phiếu từ nguồn vốn chủ sở hữu.
Cuộc đua tăng vốn của các ngân hàng không có dấu hiệu giảm nhiệt, đặc biệt là trong bối cảnh năm 2024, các ngân hàng đang đẩy mạnh kế hoạch tăng vốn để đáp ứng yêu cầu của đề án "Cơ cấu lại TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 – 2025". Theo đó, đến năm 2025, các ngân hàng thương mại lớn phải đạt vốn điều lệ tối thiểu 15.000 tỷ đồng, trong khi các ngân hàng nhỏ và vừa cần đạt 5.000 tỷ đồng.
Trong khi các ngân hàng tư nhân đang tích cực tăng vốn, các ngân hàng quốc doanh – nhóm chủ lực trong thực thi chính sách tiền tệ – lại đối mặt với nhiều khó khăn trong việc tăng vốn. Ngân hàng Nhà nước cho biết sẽ nghiên cứu và đề xuất sửa đổi quy định để tạo điều kiện cho các ngân hàng này tự chủ hơn trong việc tăng vốn.
Các ngân hàng quốc doanh đang tụt lại trong cuộc đua về vốn.
Quốc hội gần đây đã chấp thuận chủ trương đầu tư bổ sung vốn nhà nước cho Vietcombank với số tiền hơn 20.695 tỷ đồng, từ cổ tức cổ phiếu chia cho cổ đông nhà nước từ lợi nhuận còn lại. Nhờ vậy, Vietcombank sẽ tăng vốn điều lệ thêm 27.666 tỷ đồng, nâng tổng vốn lên 83.557 tỷ đồng. VietinBank cũng đang chuẩn bị hoàn tất đợt tăng vốn trong quý IV/2024, dự kiến đạt 74.200 tỷ đồng, tăng 38% so với năm 2023. Trong khi đó, Agribank đã được phê duyệt tăng vốn điều lệ lên 51.639 tỷ đồng vào tháng 10/2024, và BIDV tăng vốn từ 57.004 tỷ đồng lên 68.975 tỷ đồng thông qua phát hành cổ phiếu trả cổ tức.
Tuy nhiên, nhóm ngân hàng quốc doanh vẫn đang tụt lại so với các ngân hàng tư nhân trong cuộc đua tăng vốn. Năm 2018, Techcombank đã vượt qua BIDV và Agribank, lần đầu tiên chen chân vào top 3 ngân hàng có vốn điều lệ lớn nhất. Sau đó, các ngân hàng tư nhân tiếp tục tăng vốn nhanh hơn, với VPBank hiện có vốn điều lệ lớn nhất hệ thống, đạt 79.339 tỷ đồng, theo sau là Techcombank với 70.450 tỷ đồng.
Mặc dù vừa được tăng vốn, các ngân hàng quốc doanh vẫn có khoảng cách xa so với nhóm ngân hàng tư nhân hàng đầu. Quy mô vốn điều lệ là yếu tố quan trọng để đánh giá các chỉ tiêu an toàn hoạt động và khả năng dự phòng rủi ro. Việc không tăng vốn trong khi tín dụng tiếp tục mở rộng khiến tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của nhóm ngân hàng quốc doanh còn thấp, dao động từ 9% - 11%, trong khi các ngân hàng tư nhân có tỷ lệ CAR từ 13% - 15%.
Tìm kiếm cơ chế tăng vốn cho nhóm "Big4" ngân hàng quốc doanh
Trong phiên thảo luận về việc bổ sung vốn nhà nước cho Vietcombank, ông Phạm Đức Ấn, Chủ tịch HĐTV Agribank, cho biết: “Theo quy định hiện nay, hệ số an toàn vốn (CAR) của các ngân hàng thương mại phải đạt tối thiểu 8%. Hệ số này được tính bằng công thức: Vốn tự có/tổng tài sản rủi ro (chủ yếu là dư nợ tín dụng). Điều này có nghĩa là, để tăng trưởng tín dụng, vốn tự có cũng phải tăng tương ứng. Với mỗi ngân hàng trong nhóm Big4, nếu muốn đạt mức tăng trưởng tín dụng 10% mỗi năm, họ sẽ phải tăng vốn điều lệ thêm hơn 10.000 tỷ đồng mỗi năm.”
Mặc dù vấn đề này đã được bàn luận trong nhiều năm, nhưng bài toán tăng vốn cho các ngân hàng quốc doanh vẫn chưa tìm được lời giải tối ưu. Khác với các ngân hàng tư nhân, các ngân hàng có sự chi phối của cổ đông nhà nước phải trải qua một quy trình phê duyệt phức tạp từ các cấp có thẩm quyền, theo ông Phạm Đức Ấn, quy trình này đòi hỏi rất nhiều thủ tục và thời gian.
TS Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế, nhận định: “Việc xây dựng chiến lược tăng vốn dài hạn cho các ngân hàng quốc doanh là vô cùng cấp thiết. Những ngân hàng này đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước, chẳng hạn như cấp tín dụng, tài trợ cho các công trình trọng điểm của Chính phủ, thực hiện các nhiệm vụ an sinh xã hội, hay xử lý các ngân hàng yếu kém như trường hợp Vietcombank gần đây. Dù gánh vác nhiều nhiệm vụ quan trọng, nhưng vốn điều lệ của các ngân hàng này vẫn còn hạn chế, khiến họ khó mở rộng quy mô hoạt động.”
Ông Nghĩa cũng đề cập đến giải pháp tăng vốn điều lệ của các ngân hàng quốc doanh qua phát hành trái phiếu. Mặc dù việc phát hành trái phiếu đối với nhóm “Big4” không phải là khó khăn, nhưng theo các tiêu chuẩn quốc tế (Basel III), để phát hành vốn cấp 2 (trái phiếu), các ngân hàng này cần duy trì một mức vốn cấp 1 nhất định. Bên cạnh đó, Basel III cũng không khuyến khích việc tăng vốn tự có bằng trái phiếu do tính thiếu bền vững của nó.
"Về lâu dài, cần áp dụng cơ chế tăng vốn điều lệ hàng năm cho nhóm Big4 từ phần lợi nhuận nộp ngân sách nhà nước của các ngân hàng này. Những quốc gia có nền công nghiệp mạnh như Trung Quốc, Nhật Bản, và Hàn Quốc đều có các ngân hàng thương mại với quy mô tài sản lớn nhất thế giới. Điều này khác với một số quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, nơi quy mô ngân hàng còn hạn chế. Việc xây dựng một cơ chế tăng vốn linh hoạt cho các ngân hàng quốc doanh là bước đi quan trọng để hiện thực hóa mục tiêu đưa ngân hàng Việt Nam vào top 100 ngân hàng lớn nhất châu Á mà Chính phủ đã đặt ra,” ông Nghĩa nhấn mạnh.
Marque blanche
API de données
Plug-ins Web
Créateur d'affiches
Programme d'affiliation
Le risque de perte dans la négociation d'instruments financiers tels que les actions, les devises, les matières premières, les contrats à terme, les obligations, les ETF et les crypto-monnaies peut être substantiel. Vous pouvez subir une perte totale des fonds que vous déposez auprès de votre courtier. Par conséquent, vous devez examiner attentivement si ce type de négociation vous convient, compte tenu de votre situation et de vos ressources financières.
Aucune décision d'investissement ne doit être prise sans avoir procédé soi-même à une vérification préalable approfondie ou sans avoir consulté ses conseillers financiers. Le contenu de notre site peut ne pas vous convenir car nous ne connaissons pas votre situation financière et vos besoins en matière d'investissement. Nos informations financières peuvent avoir un temps de latence ou contenir des inexactitudes, de sorte que vous devez être entièrement responsable de vos décisions en matière de négociation et d'investissement. La société ne sera pas responsable de vos pertes en capital.
Sans l'autorisation du site web, vous n'êtes pas autorisé à copier les graphiques, les textes ou les marques du site web. Les droits de propriété intellectuelle sur le contenu ou les données incorporées dans ce site web appartiennent à ses fournisseurs et marchands d'échange.