견적
소식
분석
사용자
7x24
경제 일정
NULL_CELL
데이터
- 이름
- 최신 값
- 이전
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
일치하는 데이터가 없습니다
최신 의견
최신 의견
트렌드 토픽
금융시장은 안정세를 유지하고 있지만 새로운 주가 시작되면서 초조한 기대감을 보이고 있습니다. 이스라엘과 하마스 사이의 갈등이 계속해서 중심이 되고 있으며, 폭력사태가 더 넓은 지역을 휩쓸 가능성에 대한 우려가 커지고 있습니다.
돈은 세상을 돌아가게 만들고 화폐는 영구적인 상품입니다. 외환시장은 놀라움과 기대로 가득 차 있습니다.
채권 시장은 가장 오래된 금융 시장으로 성숙하고 혁신적이지는 않지만 필수불가결한 반면, 부채는 눈에 띄지 않지만 무시무시한 고대의 공통 소용돌이입니다.
글로벌 금융시장에서 주식시장은 경제 지표의 역할을 하며 항상 투자자들의 관심의 초점이 되어 왔습니다. 그것의 상승과 하락은 여러 나라의 경제에 큰 영향을 미칩니다.
탑 칼럼니스트
안녕하세요! 금융계에 참여할 준비가 되셨나요?
최신 속보와 글로벌 금융 이벤트를 확인하세요.
저는 재무 분석, 특히 거시적 발전과 중장기 추세 판단 측면에서 5년의 경험을 갖고 있습니다. 저는 주로 중동, 신흥 시장, 석탄, 밀 및 기타 농산물의 개발에 중점을 두고 있습니다.
BeingTrader 수석 트레이딩 코치 및 연사, 주로 XAUUSD, EUR/USD, GBP/USD, USD/JPY 및 원유를 거래하는 외환 시장에서 8년 이상의 경험을 갖고 있습니다. 다양한 기회를 탐색하고 시장에서 투자자를 안내하는 것을 목표로 하는 자신감 있는 트레이더이자 분석가입니다. 분석가로서 나는 충분한 데이터와 신호로 트레이더를 지원함으로써 트레이더의 경험을 향상시키려고 합니다.
최근 업데이트
Risk Warning on Trading HK Stocks
Despite Hong Kong's robust legal and regulatory framework, its stock market still faces unique risks and challenges, such as currency fluctuations due to the Hong Kong dollar's peg to the US dollar and the impact of mainland China's policy changes and economic conditions on Hong Kong stocks.
HK Stock Trading Fees and Taxation
Trading costs in the Hong Kong stock market include transaction fees, stamp duty, settlement charges, and currency conversion fees for foreign investors. Additionally, taxes may apply based on local regulations.
HK Non-Essential Consumer Goods Industry
The Hong Kong stock market encompasses non-essential consumption sectors like automotive, education, tourism, catering, and apparel. Of the 643 listed companies, 35% are mainland Chinese, making up 65% of the total market capitalization. Thus, it's heavily influenced by the Chinese economy.
HK Real Estate Industry
In recent years, the real estate and construction sector's share in the Hong Kong stock index has notably decreased. Nevertheless, as of 2022, it retains around 10% market share, covering real estate development, construction engineering, investment, and property management.
Hongkong, China
베트남 호치민
Dubai, UAE
나이지리아 라고스
카이로 이집트
모두 보기
데이터가 없음
Lịch chốt quyền cổ tức tuần 25-29/11: Cổ tức tiền mặt cao nhất 35%, một ngân hàng chuẩn bị "lăn chốt"
Thuỷ điện Vĩnh Sơn – Sông Hinh sẽ trả cổ tức bằng tiền, tỷ lệ 10% (tương ứng 01 cổ phiếu được nhận 1.000 đồng).
Trong 14 doanh nghiệp trả cổ tức bằng tiền mặt, mức cao nhất là 35% và thấp nhất là 2%.
Theo thống kê, có 20 doanh nghiệp thông báo chốt quyền cổ tức trong tuần 25/11– 29/11. Trong đó, 14 doanh nghiệp trả cổ tức bằng tiền mặt trong tuần này, mức cao nhất là 35% và thấp nhất là 2%. Ngoài ra, còn 3 doanh nghiệp trả cổ tức bằng cổ phiếu, 1 doanh nghiệp thưởng cổ phiếu và 2 doanh nghiệp trả cổ tức kết hợp.
Ngày 2/12 tới đây, May Sông Hồng (mã MSH) sẽ chốt danh sách cổ đông tạm ứng cổ tức năm 2024 bằng tiền với tỷ lệ 35%, tương ứng cổ đông sở hữu 1 cổ phiếu sẽ nhận 3.500 đồng và thời gian thực hiện dự kiến ngày 20/12. Với hơn 75 triệu cổ phiếu đang lưu hành, ước tính May Sông Hồng sẽ trả tổng cộng khoảng 262,5 tỷ đồng trong lần tạm ứng cổ tức này.
Công ty cổ phần Kỹ thuật và Ô tô Trường Long (mã HTL) thông báo 2/12 là ngày cuối cùng để cổ đông đăng ký nhận cổ tức 35% bằng tiền mặt, tức mỗi cổ phiếu nhận 3.500 đồng. Thời gian thanh toán là ngày 18/12. Với 12 triệu cổ phiếu đang niêm yết trên sàn HoSE, ước tính Công ty dành 42 tỷ đồng để tạm ứng cổ tức.
Đợt tạm ứng cổ tức này được thực hiện sau khi Công ty quyết định nâng tỷ lệ chi trả cổ tức năm nay lên 65%, tức mỗi cổ phiếu nhận 6.500 đồng. Trước đó, tại phiên họp thường niên năm vào tháng 5, công ty thông qua kế hoạch trả cổ tức năm nay với tỷ lệ không vượt quá 20%. Đây là mức trả cổ tức cao nhất kể từ khi công ty niêm yết. Như vậy, Công ty có thể còn ít nhất một đợt chi trả cho cổ đông với tỷ lệ 30%.
Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương tín (Vietbank - Mã: VBB) thông báo 29/11 là ngày đăng ký cuối cùng để thực hiện quyền nhận cổ tức bằng cổ phiếu tỷ lệ 25%. Theo đó, Vietbank sẽ phát hành gần 142,8 triệu cổ phiếu mới để trả cổ tức cho cổ đông. Nguồn phát hành đến từ lợi nhuận chưa phân phối lũy kế tới ngày 31/12/2023.
Sau phát hành, vốn điều lệ ngân hàng sẽ tăng thêm gần 1.428 tỷ đồng, lên mức 7.139 tỷ đồng. Ngân hàng này cho biết phần vốn tăng thêm được dự kiến sử dụng cho việc đầu tư tài sản, bổ sung nguồn vốn để phát triển, mở rộng mạng lưới hoạt động, bảo đảm tuân thủ các tỷ lệ an toàn trong hoạt động và sinh lợi cho hoạt động kinh doanh Vietbank. Thời gian dự kiến hoàn tất chậm nhất vào cuối năm 2024.
CTCP Thuỷ điện Vĩnh Sơn – Sông Hinh (mã VSH) thông báo, ngày 29/11 tới đây sẽ chốt danh sách tạm ứng cổ tức năm 2024 cho cổ đông. Trước đó, vào tháng 10, VSH mới chi hơn 472 tỷ đồng trả cổ tức đợt 2/2023.
Theo thông báo,Thuỷ điện Vĩnh Sơn – Sông Hinh sẽ trả cổ tức bằng tiền, tỷ lệ 10% (tương ứng 01 cổ phiếu được nhận 1.000 đồng). Như vậy, với hơn 236 triệu cổ phiếu đang lưu hành, VSH sẽ chi xấp xỉ 236 tỷ đồng để trả cổ tức cho cổ đông. Thời gian thanh toán vào ngày 31/12/2024.
Trong đó, Công ty TNHH Năng lượng REE – Công ty con 100% vốn thuộc về CTCP Cơ điện lạnh (mã REE) đang sở hữu hơn 124,2 triệu cổ phiếu, tỷ lệ 52,58% sẽ nhận về tương ứng hơn 124,2 tỷ đồng. Ngoài ra, Tổng Công ty Phát điện 3 – CTCP (mã PGV) nắm giữ hơn 72 triệu cổ phiếu, tỷ lệ 30,55% cũng được nhận hơn 72 tỷ đồng cổ tức từ VSH.
Vietbank triển khai tăng vốn điều lệ lên 7.139 tỷ đồng, công bố danh sách cổ đông sở hữu từ 1% vốn điều lệ
Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín (Vietbank) vừa công bố thông tin về việc tăng vốn điều lệ lên 7.139 tỷ đồng thông qua việc phát hành cổ phiếu để trả cổ tức với tỷ lệ 25%. Bên cạnh đó, Vietbank cũng công bố danh sách cổ đông nắm giữ từ 1% vốn điều lệ của ngân hàng, gồm 25 cổ đông là tổ chức và cá nhân.
Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín (Vietbank) vừa công bố thông tin về việc triển khai tăng vốn điều lệ lên 7.139 tỷ đồng thông qua việc phát hành cổ phiếu để trả cổ tức từ lợi nhuận giữ lại. Theo đó, ngân hàng sẽ chia cổ tức năm 2024 bằng cổ phiếu với tỷ lệ 25%, đây là mức chi trả khá cao so với mặt bằng chung của thị trường. Kế hoạch tăng vốn điều lệ là một trong những điều kiện quan trọng để Vietbank củng cố và nâng cao năng lực tài chính theo đúng lộ trình cam kết với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, bảo đảm hệ số an toàn vốn (CAR) theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, từ đó mở rộng quy mô, năng lực cạnh tranh và đáp ứng kế hoạch phát triển mạng lưới giao dịch. Việc tăng vốn dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2024.
Mở đầu cho chiến lược mở rộng mạng lưới giao dịch với mục tiêu 5 chi nhánh mới trong 2024, vào ngày 26/9, Vietbank chính thức khai trương chi nhánh Bắc Ninh, chi nhánh đầu tiên trong kế hoạch khai trương 05 chi nhánh mới năm 2024. Hiện tại, ngân hàng có 120 điểm giao dịch, bao gồm 26 chi nhánh và 94 phòng giao dịch. Đến cuối năm 2024, dự kiến con số này tăng lên 132 điểm giao dịch với 30 chi nhánh và 102 phòng giao dịch. Điều này khẳng định cam kết của Vietbank trong việc không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, đồng thời đưa ngân hàng đến gần hơn với người dân trên khắp cả nước.
Bên cạnh đó, Vietbank cũng công bố danh sách cổ đông nắm giữ từ 1% vốn điều lệ theo Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi có hiệu lực từ ngày 1/7/2024. Danh sách này gồm có 25 cổ đông là các tổ chức và cá nhân. Trong đó, ông Dương Nhất Nguyên - Chủ tịch HĐQT và những người có liên quan trong gia đình là nhóm cổ đông gắn bó lâu năm, nắm giữ số lượng cổ phiếu lớn nhất với tỷ lệ sở hữu 11,89%.
Việc công bố danh sách cổ đông nói trên là quy định mới của Luật Các tổ chức tín dụng. Theo đó, cổ đông sở hữu từ 1% vốn điều lệ trở lên của tổ chức tín dụng cần cung cấp cho tổ chức tín dụng các thông tin của mình và người liên quan bao gồm cả thông tin về số lượng, tỷ lệ sở hữu cổ phần của mình và người có liên quan tại tổ chức tín dụng đó.
Năm 2024, Vietbank đặt mục tiêu lợi nhuận trước thuế 1.050 tỷ đồng, tăng 29% so với 2023; tổng tài sản đạt 150.000 tỷ đồng; huy động vốn đạt 116.000 tỷ đồng; tổng dư nợ cho vay 95.000 tỷ đồng. Ngân hàng đặt mục tiêu mở rộng thị phần, tăng trưởng quy mô tổng tài sản cả về chất và lượng, kiểm soát nợ xấu dưới 3% theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng cũng hướng tới mục tiêu năm 2025 đưa tổng tài sản lên mức 170.000 tỷ đồng, huy động vốn thị trường 1 đạt 135.000 tỷ đồng; tổng dư nợ 110.000 tỷ đồng; vốn điều lệ lên mức 10.000 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế 1.600 tỷ đồng, nợ xấu được kiểm soát dưới 3% theo quy định.
Nhiều năm qua, bên cạnh việc triển khai hiệu quả các hoạt động kinh doanh, Vietbank luôn thể hiện trách nhiệm với cộng đồng xã hội thông qua các hoạt động an sinh xã hội. Trước những thiệt hại nặng nề do bão số 3 (bão Yagi) gây ra trong thời gian gần đây, Vietbank đã nhanh chóng ban hành các giải pháp hỗ trợ tài chính thiết thực, đồng hành cùng cộng đồng vượt qua khó khăn sau bão. Cụ thể, ngân hàng giảm lãi suất vay từ 0,5% đến 1,2%/năm đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi bão lũ, hỗ trợ giảm bớt gánh nặng tài chính, tạo điều kiện thuận lợi để người dân phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra, Vietbank cũng tổ chức các hoạt động gây quỹ thiện nguyện từ cán bộ, nhân viên với số tiền quyên góp đạt hơn 1,8 tỷ đồng để ủng hộ người dân các tỉnh miền Bắc chịu ảnh hưởng bởi bão Yagi. Hoạt động thu hút gần 2.600 CBNV Vietbank tham gia tại 119 điểm giao dịch, bằng cả hình thức trực tuyến và trực tiếp.
Ngân hàng gian nan tăng vốn
Để phấn đấu nâng chuẩn lên Basel III, đòi hỏi các ngân hàng phải tăng mạnh hơn nữa các chỉ tiêu về vốn và các tiêu chuẩn về giám sát rủi ro. Một trong những biện pháp mà các ngân hàng đang đẩy mạnh là tăng vốn cấp 1 và vốn cấp 2, bên cạnh việc gia tăng chất lượng tín dụng và hoạt động quản trị rủi ro.
Tính tới cuối quí 2-2024, vốn điều lệ của 27 ngân hàng niêm yết trên ba sàn chứng khoán HSX, HNX và UpCom đạt trên 717.000 tỉ đồng, tăng 6,7% so với cuối năm 2023. Ảnh: LÊ VŨ
Nỗ lực tăng vốn của ngân hàng nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn ngày càng cao
Để đáp ứng các tiêu chí an toàn vốn ngày càng cao theo tiêu chuẩn Basel II và Basel III và một số quy định về tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn, các ngân hàng đã và đang thực hiện đồng thời một số biện pháp sau:
Thứ nhất, giữ lại lợi nhuận để tăng vốn và/hoặc phát hành thêm cổ phiếu ra bên ngoài để tăng vốn.
Thứ hai, phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) dài hạn nhằm tăng vốn cấp 2.
Thứ ba, nâng cao chất lượng quản trị, giảm rủi ro nợ xấu và tập trung cho vay với ngành nghề ưu tiên có hệ số rủi ro thấp.
Tuy nhiên, mỗi một biện pháp đều có những khó khăn và thách thức riêng buộc các ngân hàng phải linh hoạt áp dụng để vừa đảm bảo mục tiêu tăng trưởng, vừa đảm bảo mục tiêu nâng cao chất lượng.
Tăng vốn không phải câu chuyện dễ với hầu hết ngân hàng
Tính tới cuối quí 2-2024, vốn điều lệ của 27 ngân hàng niêm yết trên ba sàn chứng khoán HSX, HNX và UpCom đạt trên 717.000 tỉ đồng, tăng 6,7% so với cuối năm 2023. Cụ thể, Techcombank tăng 100%, PGB tăng 40%, VBB tăng 19,6%, ACB tăng 15%, SGB tăng 10% và BAB tăng 7,5%. Tuy nhiên, trong đó chỉ có duy nhất VBB là tăng vốn từ việc phát hành cổ phiếu ưu đãi ra bên ngoài với tỷ lệ 21% (tăng vốn thành công với mức tăng 19,6%). Còn lại, các ngân hàng khác đều tăng vốn từ việc chi cổ tức bằng cổ phiếu, nghĩa là không làm thay đổi các chỉ tiêu an toàn vốn hay tỷ lệ vốn yêu cầu khác.
Hơn nữa, ngay cả việc tăng vốn điều lệ từ nguồn lợi nhuận chưa phân phối thôi cũng không phải là dễ dàng đối với nhóm ngân hàng quốc doanh. Việc chậm tăng vốn từ lợi nhuận giữ lại do chưa nhận được sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền khiến cho sự chênh lệch vốn điều lệ giữa nhóm ngân hàng quốc doanh với nhóm ngân hàng tư nhân thu hẹp đáng kể. Nếu xét về vốn điều lệ, hiện nay Techcombank là ngân hàng tư nhân có vốn điều lệ cao nhất toàn hệ thống, đạt hơn 70.000 tỉ đồng, cao hơn Vietcombank đang ở mức hơn 55.000 tỉ đồng.
Vietcombank đã công bố kế hoạch chia cổ tức bằng cổ phiếu từ lợi nhuận còn lại lũy kế đến năm 2022, nhưng đến nay vẫn chưa nhận được sự chấp thuận từ cơ quan có thẩm quyền. Nếu tăng vốn thành công thì vốn điều lệ của Vietcombank có thể tăng lên 74.000 tỉ đồng và trở thành ngân hàng có vốn điều lệ cao nhất toàn hệ thống.
Tương tự, BIDV cũng đã thông qua phương án phát hành thêm gần 1,2 tỉ cổ phiếu để trả cổ tức năm 2022, tương ứng tỷ lệ 21% số cổ phiếu đang lưu hành vào cuối năm 2023 và dự kiến chi tiếp 12.347 tỉ đồng để chia cổ tức bằng cổ phiếu từ lợi nhuận năm 2023, nhưng chưa được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
VietinBank đã trình cổ đông phương án sử dụng toàn bộ lợi nhuận sau khi trích lập các quỹ của năm 2023 là hơn 13.900 tỉ đồng để chia cổ tức bằng cổ phiếu, tăng vốn điều lệ và đang chờ cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Mặc dù việc thông qua phương án tăng vốn điều lệ cho ngân hàng từ lợi nhuận giữ lại không giúp cải thiện các hệ số an toàn vốn hay hệ số vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn hiện tại, nhưng nó cho thấy một sự cam kết từ phía cổ đông sẽ giữ lại lợi nhuận để gia tăng năng lực vốn trong tương lai.
Song song với việc tăng vốn từ lợi nhuận giữ lại, các ngân hàng cũng đang lên kế hoạch phát hành riêng lẻ ra bên ngoài để tăng năng lực vốn. Ví dụ, Vietcombank có kế hoạch phát hành riêng lẻ 6,5% vốn cho cổ đông chiến lược, hay BIDV dự kiến phát hành riêng lẻ 165 triệu cổ phiếu. Hay như trước đó, VPB đã thực hiện chào bán 15% vốn cho nhà đầu tư chiến lược là Ngân hàng Sumitomo Mitsui Banking Corporation (SMBC). Việc cam kết tiếp tục dùng lợi nhuận giữ lại để tăng vốn và tăng vốn thông qua bán vốn ra bên ngoài mới thực sự giúp cho tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng cải thiện.
Tăng vốn từ phát hành trái phiếu của các ngân hàng vẫn đang chiếm áp đảo
Theo số liệu từ Hiệp hội Trái phiếu Việt Nam, tổng số TPDN phát hành lũy kế trong bảy tháng đầu năm 2024 đạt hơn 183.000 tỉ đồng, tăng 131,7% so với cùng kỳ. Trong đó, phát hành riêng lẻ đạt hơn 168.400 tỉ đồng, tăng 169,4% so với cùng kỳ và phát hành ra công chúng đạt hơn 14.500 tỉ đồng, giảm 11,5% so với cùng kỳ.
Xét theo nhóm ngành phát hành thì trái phiếu do các ngân hàng phát hành vẫn chiếm áp đảo, đạt khoảng 123.000 tỉ đồng, chiếm khoảng 67,2% tổng số lượng TPDN được phát hành. Đáng chú ý là tỷ trọng trái phiếu ngân hàng phát hành tiếp tục tăng trong tổng số TPDN được phát hành, năm 2023 đạt 51,9%, năm 2022 đạt 50,8% và năm 2021 đạt 30%.
Sau khủng hoảng TPDN năm 2022, khối lượng TPDN phát hành giảm mạnh, nhưng tỷ trọng trái phiếu ngân hàng phát hành ngày càng tăng, điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng nổi bật có một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, nhu cầu đầu tư với trái phiếu ngân hàng vẫn cao. Điều này xuất phát từ sức khỏe tài chính của ngân hàng tốt hơn các ngành nghề khác và do đó trái phiếu ngân hàng vẫn được các tổ chức trung gian tài chính chấp nhận giao dịch.
Thứ hai, nhu cầu tăng vốn cấp 2 ngày càng lớn. Nhu cầu này nhằm đáp ứng quy định về tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn theo Thông tư 08/2020/TT-NHNN. Theo đó, các ngân hàng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải tuân thủ tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn giảm dần tới 30% từ ngày 1-10-2023. Và việc phát hành trái phiếu là một phần trong việc tăng vốn cấp 2 giúp ngân hàng hạ tỷ lệ này.
Nâng cao chất lượng tín dụng để cải thiện các tỷ lệ an toàn vốn
Tăng vốn cấp 1 và vốn cấp 2 là nguồn lực quan trọng để cải thiện các tỷ lệ an toàn vốn (CAR), đáp ứng các tiêu chuẩn cao hơn theo quy định Basel II và Basel III và cải thiện tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước tại Thông tư 08/2020/TT-NHNN.
Tuy nhiên, song song với việc tăng các chỉ tiêu về vốn thì một phần quan trọng nữa chính là nâng cao chất lượng tín dụng và quản trị rủi ro nợ xấu. Nếu như việc tăng vốn giúp cải thiện tử số trong công thức tính hệ số an toàn vốn thì việc tăng cường quản trị rủi ro tín dụng sẽ hạn chế sự hao hụt vốn và góp phần nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng.
Nhiều ngân hàng đua nhau tăng lãi suất huy động
Ngay từ những ngày đầu tháng 9, nhiều ngân hàng đã đẩy mạnh huy động vốn thông qua việc tăng lãi suất huy động. Theo dự báo của nhiều chuyên gia, lãi suất huy động vẫn có dư địa tăng đến hết năm 2024.
Lãi suất huy động rục rịch tăng từ 0,1 -0,8%
Trong những ngày đầu tháng 9/2024, lãi suất huy động của nhiều ngân hàng (tại các kỳ hạn được khảo sát là: 6, 9, 12, 24 tháng) đã được điều chỉnh với mức dao động từ 0,1-0,8% tùy kỳ hạn và ngân hàng.
Mới đây, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) cũng bất ngờ điều chỉnh tăng lãi suất huy động ở một số kỳ hạn. Theo đó, lãi suất huy động kỳ hạn 1-2 tháng tăng thêm 0,2%/năm lên 2%/năm. Lãi suất huy động trực tuyến kỳ hạn 3-5 tháng tăng 0,3%/năm, lên 2,5%/năm. Lãi suất ngân hàng kỳ hạn 6-9 tháng được điều chỉnh tăng nhẹ 0,1%/năm, lên 3,3%/năm.
Cách đây khoảng một tháng, “ông lớn” này cũng là ngân hàng duy nhất trong nhóm Big4 tăng lãi suất huy động.
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) mới đây đã phát hành 5.000 tỷ đồng chứng chỉ tiền gửi, kỳ hạn 7 năm, lãi suất 7,1% cố định trong năm đầu tiên. Lãi suất các năm tiếp theo sẽ được điều chỉnh linh hoạt theo thị trường.
Cụ thể, Sacombank tăng lãi suất 0,4% ở kỳ hạn 6 và 9 tháng, đưa lãi suất kỳ hạn 6 tháng là 4,2%/năm; kỳ hạn 9 tháng là 4,3%/năm; kỳ hạn 12 tháng là 4,9%/năm.
Về chứng chỉ tiền gửi của Sacombank có mệnh giá 1 triệu đồng, tiền gốc được thanh toán một lần khi đến hạn và tiền lãi được trả định kỳ mỗi năm. Điểm đáng chú ý là người mua chứng chỉ tiền gửi Sacombank được rút một phần hoặc toàn bộ vốn trước hạn, được chuyển nhượng, cầm cố để vay vốn với lãi suất ưu đãi…
Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương tín (VietBank) cũng vừa tiếp tục tăng lãi suất huy động các kỳ hạn ngắn. Theo đó, lãi suất huy động trực tuyến kỳ hạn 1-4 tháng tăng thêm 0,2%/năm. Hiện lãi suất huy động kỳ hạn 1 tháng tại ngân hàng này là 3,8%/năm, kỳ hạn 2 tháng 3,9%/năm, kỳ hạn 3 tháng 4%/năm, kỳ hạn 4 tháng 4,1%/năm.
Trước đó, trong tháng 8, đã một số ngân hàng tăng lãi suất huy động với mức tăng dao động trong khoảng 0,1-0,8%, bao gồm: Eximbank, HDBank, Sacombank, Saigonbank, TPBank, CB, VIB, Dong A Bank, Techcombank, VietBank, SHB, PVCombank, Cake by VPBank và Nam A Bank.
Số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho thấy, tăng trưởng tín dụng tính đến ngày 16/8 tăng 6,25% so với cuối năm 2023. Trước đó, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống ngân hàng đến hết quý II đạt 6,1%, nhưng đến cuối tháng 7 chỉ còn tăng 5,66% so với cuối năm 2023.
Như vậy, tín dụng đã phục hồi trở lại vào nửa đầu tháng 8/2024. Đây sẽ là cơ sở quan trọng để các ngân hàng có thể tiếp tục đà tăng lãi suất huy động trong những tháng cuối năm.
Lãi suất huy động vẫn có dư địa tăng
Trong báo cáo triển vọng vĩ mô mới đây, Công ty cổ phần Chứng khoán KBSV kỳ vọng lãi suất huy động có thể tăng thêm 0,5% từ nay tới cuối năm.
Theo KBSV, NHNN cũng đã đưa ra thông báo điều chỉnh hạn mức tín dụng cho các ngân hàng đã hoàn thành 80% chỉ tiêu tín dụng được cấp đầu năm. Điều này, một lần nữa cho thấy kỳ vọng về tín hiệu đảo chiều chính sách của Fed, DXY suy giảm để củng cố sự tự tin cho NHNN duy trì chính sách nới lỏng.
KBSV dự phóng lãi suất huy động sẽ tăng 30-50 điểm trong những tháng còn lại của năm 2024 do thanh khoản hệ thống được hỗ trợ từ những động thái của NHNN; áp lực tỷ giá suy giảm; mặt bằng lãi suất cho vay có thể tăng nhẹ nhưng vẫn được duy trì ở mức thấp theo chủ trương hỗ trợ nền kinh tế, thúc đẩy nhu cầu tín dụng của NHNN.
Báo cáo phân tích mới nhất của Công ty cổ phần Chứng khoán MB (MBS) chỉ ra nguyên nhân các ngân hàng tăng lãi suất huy động và thu hút vốn qua các kênh khác như chứng chỉ tiền gửi lãi suất cao là nhằm nâng cao tính cạnh tranh của kênh tiết kiệm so với các kênh đầu tư khác.
Nhóm phân tích MBS cho rằng lãi suất tiền gửi đi lên còn do tín dụng tiếp tục tăng khi nhu cầu vốn thường tăng tốc mạnh trong những tháng cuối năm
Nhóm chuyên gia từ Công ty cổ phần Chứng khoán Vietcombank cho biết, mặc dù lãi suất huy động đang có xu hướng tăng dần lên từ mức đáy, mặt bằng lãi suất hiện tại vẫn đang thấp hơn mức trung bình 3 năm trước giai đoạn dịch Covid-19 là 5,05%/năm. Áp lực tăng lãi suất có thể từ quý IV, kỳ vọng cả năm lãi suất có thể tăng từ 0,5-1%.
Tại cuộc họp báo thường kỳ Chính phủ mới đây, Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú đánh giá lãi suất huy động tăng nhưng lãi suất cho vay giảm, điều đó đồng nghĩa các ngân hàng thương mại đã chia sẻ với doanh nghiệp rất nhiều. Mặc dù tiền gửi phải tăng lên để trả lãi suất cao hơn cho người gửi nhưng tiền cho vay lại giảm thì chênh lệch giữa đầu vào và đầu ra sẽ thu hẹp.
NVB, BAB, SGB, VBB ghi nhận tỷ lệ nợ có vấn đề hình thành mới cao
Theo VIS Rating, rủi ro tài sản và khả năng sinh lời của ngành ngân hàng nhìn chung vẫn ổn định, các ngân hàng nhỏ phải đối mặt với nhiều vấn đề về nợ xấu và thanh khoản.
Báo cáo của VIS Rating 6 tháng đầu năm 2024 cho biết, tỷ lệ nợ có vấn đề của ngành ngân hàng vẫn giữ ổn định so với quý trước ở mức 2,2%, các ngân hàng nhỏ suy giảm chất lượng tài sản nhiều nhất. Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân (ROAA) của các ngân hàng tăng nhẹ lên 1,6% trong 6 tháng đầu năm 2024 từ mức 1,5% trong năm 2023, nhờ tăng trưởng tín dụng doanh nghiệp mạnh mẽ hơn và biên lãi ròng (NIM) cao hơn.
Một số ngân hàng nhỏ sẽ dễ bị tổn thương hơn trước rủi ro thanh khoản do tăng nguồn vốn thị trường ngắn hạn trong bối cảnh tăng trưởng tiền gửi thấp. VIS Rating kỳ vọng chất lượng tài sản và lợi nhuận của các ngân hàng sẽ giữ ổn định trong nửa sau của năm 2024 nhờ việc cải thiện điều kiện kinh doanh.
Các ngân hàng nhỏ suy giảm chất lượng tài sản rõ rệt nhất. NVB, BAB, SGB, VBB ghi nhận tỷ lệ nợ có vấn đề (NPL) hình thành mới cao hơn so với các ngân hàng khác, chủ yếu từ phân khúc bán lẻ và SME. Trong số các ngân hàng quốc doanh (SOB), tỷ lệ nợ có vấn đề của CTG và BID tăng lên do lĩnh vực liên quan đến xây dựng và bất động sản.
Một số ngân hàng lớn đã giảm nợ có vấn đề bằng cách sử dụng dự phòng để xử lý trái phiếu VAMC như VPB hoặc giảm nợ có vấn đề từ khách hàng lớn như MBB. Tỷ lệ NPL hình thành mới của TPB duy trì ở mức thấp nhờ vào việc thắt chặt điều kiện cho vay đối với các khoản vay tiêu dùng mới. Chúng tôi kỳ vọng môi trường lãi suất thấp và các biện pháp chính sách nhằm hỗ trợ hoạt động kinh doanh ở nhiều lĩnh vực khác nhau sẽ giúp tăng khả năng trả nợ và giúp giảm các khoản nợ quá hạn.
Các ngân hàng tư nhân lớn hưởng lợi nhiều nhất từ việc tăng trưởng tín dụng cao hơn và NIM cải thiện. TCB, HDB, VPB, LPB ghi nhận mức tăng trưởng cho vay cao hơn mức 7,7% của trung bình ngành trong 6 tháng năm 2024, dẫn dắt bởi cho vay khách hàng doanh nghiệp (KHDN) trong các lĩnh vực liên quan đến bất động sản, thương mại và sản xuất.
NIM của các ngân hàng này đã tăng từ 30-60 điểm cơ bản, dẫn đến ROAA cao hơn mức trung bình ngành, đạt trung bình 2,2%. Thu phí đã tăng ở một số ngân hàng, bao gồm TCB, LPB và TPB. Ngược lại, lợi nhuận của các ngân hàng tập trung vào bán lẻ như VIB, OCB giảm do tăng trưởng cho vay mua nhà kém khả quan, thu nhập từ đầu tư thấp hơn và chi phí dự phòng cao hơn.
Các chuyên gia của VIS Rating kỳ vọng, ROAA của ngành sẽ tiếp tục được hưởng lợi từ nhu cầu vay vốn mạnh mẽ của các doanh nghiệp, sự cải thiện cho vay mua nhà khi nguồn cung nhà ở mới ra thị trường hồi phục, cũng như NIM ổn định bởi lãi suất thấp.
Quy mô vốn của hầu hết các ngân hàng suy giảm trong 6 tháng năm 2024. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu chung hữu hình (TCE) toàn ngành giảm 0,3 điểm cơ bản so với quý trước, do một số ngân hàng lớn như VPB, MBB, ACB, TCB trả cổ tức tiền mặt cho cổ đông.
“Chúng tôi kỳ vọng quy mô vốn của các ngân hàng sẽ tiếp tục ở mức thấp trong nửa năm sau của 2024 do kế hoạch huy động vốn cổ phần mới hạn chế. Ngoài ra, tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLCR) của ngành giảm xuống 82% từ mức 89% trong 3 tháng đầu năm 2024, với SOB như CTG, BID ghi nhận sự sụt giảm đáng kể nhất do tỷ lệ nợ có vấn đề cao hơn. Ngược lại, LLCR của một số ngân hàng tư nhân tăng lên nhờ cải thiện chất lượng tài sản như MBB, TPB và tăng trích lập dự phòng như OCB”, báo cáo của VIS Rating cho biết.
Tỷ lệ cho vay trên tiền gửi (LDR) toàn ngành tăng, các ngân hàng nhỏ có mức tăng trưởng tiền gửi thấp và phải bù đắp bằng tăng nguồn vốn thị trường ngắn hạn. Tỷ lệ tiền gửi CASA của ngành giữ ổn định ở mức 20% tổng dư nợ cho vay. MBB duy trì tỷ lệ này cao nhất nhờ vào việc tiếp tục tăng trưởng tiền gửi cá nhân trên mức trung bình của ngành.
LDR của toàn ngành tăng lên 106% trong 6 tháng năm 2024 từ mức 104% trong 3 tháng đầu năm 2024. Trong số các ngân hàng nhỏ, ABB và BVB gặp khó khăn trong việc tăng trưởng tiền gửi do cạnh tranh huy động ngày càng gay gắt và phải tăng sử dụng nguồn vay liên ngân hàng ngắn hạn để hỗ trợ tăng trưởng cho vay. Trong khi đó, tài sản thanh khoản chiếm 21% tổng tài sản ngành, không thay đổi so với quý trước.
“Tài sản thanh khoản của các ngân hàng nhỏ đã giảm 6% trong 6 tháng năm 2024, trái ngược với mức tăng 5% của ngành. Vì vậy, chúng tôi cho rằng các ngân hàng nhỏ này sẽ dễ bị tổn thương hơn trước rủi ro thanh khoản”, VIS Rating lưu ý.
Chuyển sàn và cơ hội với cổ phiếu “vua”
Nửa cuối năm nay, một số ngân hàng sẽ xem xét tình hình thị trường để triển khai kế hoạch đưa cổ phiếu lên sàn niêm yết đã được cổ đông thông qua.
Làn sóng chuyển sàn
Trong ngành ngân hàng, hiện có 7 ngân hàng TMCP đang giao dịch cổ phiếu trên thị trường UPCoM, gồm VietABank, ABBank, Kienlongbank, VietBank, PGBank, SaigonBank và BVBank.
Theo kế hoạch, Saigonbank (mã SGB) sẽ đưa cổ phiếu lên niêm yết trên HOSE, hoặc HNX trong năm 2024. Ông Vũ Quang Lãm, Chủ tịch Hội đồng quản trị Saigonbank cho hay, hiện các chỉ số tài chính của Saigonbank đã đáp ứng điều kiện niêm yết trên HOSE, Ngân hàng đã ký hợp đồng với công ty tư vấn. Tuy vậy, theo ông Lãm, “đây là quá trình dài và phức tạp”.
Năm nay, VietBank (mã VBB) cũng có kế hoạch niêm yết cổ phiếu VBB trên sàn HOSE. Thực tế, kế hoạch này đã được đại hội đồng cổ đông VietBank thông qua trong mùa đại hội trước.
Theo giải thích của lãnh đạo VietBank, việc niêm yết cổ phiếu VBB trên HOSE trong năm 2023 sẽ không phản ánh đúng giá trị cổ phiếu và đảm bảo quyền lợi của cổ đông, vì vậy, Ngân hàng chưa thực hiện việc niêm yết cổ phiếu VBB như kế hoạch trước đó.
Mục tiêu của VietBank khi chuyển sàn HOSE là nâng cao vị thế, uy tín trên thị trường, thu hút thêm nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh, cải thiện năng lực hoạt động và khả năng cạnh tranh của Ngân hàng.
VietABank (mã VAB) cũng cho biết sẽ đưa cổ phiếu lên sàn niêm yết khi điều kiện thị trường thuận lợi và theo đúng trình tự, thủ tục của pháp luật. Việc lựa chọn niêm yết trên sàn HOSE, hay HNX sẽ do Hội đồng quản trị Ngân hàng quyết định và sau khi được Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận. VietABank kỳ vọng sẽ hoàn thành mục tiêu niêm yết trong năm 2024.
BVBank (mã BVB) đã trình cổ đông thông qua việc chuyển sàn từ UPCoM sang HOSE. Trước đó, kế hoạch này đã được đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2023 thông qua nhưng Ngân hàng chưa thực hiện do bối cảnh thị trường không thuận lợi.
Trong năm 2024, BVBank dự báo nền kinh tế có triển vọng khởi sắc và tình hình kinh doanh năm 2024 của sẽ phục hồi, do đó, Ngân hàng tiếp tục trình phương án niêm yết cổ phiếu trên HOSE.
Đồng thời, năm nay, Ngân hàng tăng vốn điều lệ thêm gần 890 tỷ đồng, nâng vốn điều lệ lên tối đa 6.408 tỷ đồng bằng hình thức phát hành cổ phiếu ra công chúng và phát hành cổ phiếu ưu đãi cho người lao động (ESOP).
Ông Đào Mạnh Kháng, Chủ tịch ABBank cũng cho biết, Ban lãnh đạo Ngân hàng mong muốn đưa cổ phiếu ABB lên sàn HOSE để huy động vốn thị trường tốt hơn và việc niêm yết giúp quản trị thông tin minh bạch hơn. Theo ông Kháng, việc chuyển sàn phải diễn ra trong điều kiện thuận lợi.
Trong năm 2024, 86,2% tổ chức tín dụng kỳ vọng lợi nhuận trước thuế tăng trưởng dương so với năm 2023.
Bên cạnh đó, vẫn có 11% tổ chức tín dụng lo ngại lợi nhuận tăng trưởng âm trong năm 2024 (cao hơn tỷ lệ 10,1% tổ chức tín dụng kỳ vọng tại kỳ điều tra trước) và 2,8% ước tính lợi nhuận không thay đổi.
Về định giá, tính đến ngày 16/7/2024, cổ phiếu ngành ngân hàng đang được giao dịch ở mức P/E và P/B trailing là 9,71 lần và 1,54 lần, thấp hơn so với P/E và P/B trung bình 3 năm là 10,26 lần và 1,67 lần.
Lãnh đạo các nhà băng cho rằng, việc niêm yết cổ phiếu là cần thiết để mở ra cơ hội huy động vốn, nâng cao năng lực tài chính, sức cạnh tranh, thanh khoản cổ phiếu cũng như thương hiệu trên thị trường, tuy nhiên, khi thị trường thuận lợi thì niêm yết sẽ đem lại lợi ích tốt hơn cho cổ đông.
Theo TS. Lê Anh Tuấn, Giám đốc Khối Chứng khoán, Dragon Capital, các quỹ đầu tư và nhà đầu tư cũng muốn rót vốn vào doanh nghiệp niêm yết.
Đặc biệt, lĩnh vực ngân hàng luôn đòi hỏi tính minh bạch cao nên yêu cầu niêm yết trên sàn HOSE hay HNX là cần thiết. Vì khi niêm yết, đòi hỏi các ngân hàng phải công bố thông tin và các báo cáo tài chính phải được kiểm toán để tăng độ minh bạch của hoạt động ngân hàng.
Cơ hội với cổ phiếu “vua”
Việc chuyển sàn từ UPCoM lên sàn niêm yết sẽ giúp cổ phiếu nâng cao tính minh bạch của doanh nghiệp cũng như tính thanh khoản của cổ phiếu. Chính vì vậy, các cổ phiếu chuyển sàn thường thu hút sự chú ý của nhà đầu tư hơn.
Đáng chú ý, các ngân hàng trong năm nay đồng loạt chia cổ tức bằng tiền và/hoặc chia cổ tức bằng cổ phiếu. HDBank, ACB, Nam A Bank, OCB… đều chia cổ tức theo tỷ lệ trên dưới 25%.
Thậm chí, Techcombank không chỉ chia cổ tức mà còn thưởng cổ phiếu tỷ lệ cao để tăng vốn điều lệ gấp đôi, từ 35.225 tỷ đồng lên 70.450 tỷ đồng. Các nhà băng quy mô vừa và nhỏ cũng không nằm ngoài cuộc đua tăng vốn.
Ngành ngân hàng sẽ tiếp tục là nhóm thu hút dòng tiền trong năm nay và phù hợp với những nhà đầu tư ưa thích nắm giữ trong trung và dài hạn. Thực tế, nhóm cổ phiếu ngân hàng đã thể hiện rõ vai trò nâng đỡ thị trường chứng khoán tại nhiều thời điểm, đặc biệt là khi hoạt động của ngành vẫn ghi nhận lợi nhuận tích cực trong nửa đầu năm.
Đồng thời, tăng trưởng tín dụng dần được cải thiện sẽ tác động lên kết quả kinh doanh của các nhà băng.
Theo số liệu thống kê từ Ngân hàng Nhà nước, trong quý II/2024, tín dụng của ngành ngân hàng đã cho thấy sự cải thiện tích cực, kéo tăng trưởng tín dụng toàn nền kinh tế tính đến cuối tháng 6/2024 lên mức 6% so với cuối năm ngoái, đạt mục tiêu Chính phủ đặt ra trong nửa đầu năm.
Tuy nhiên, theo PGS-TS. Nguyễn Hữu Huân, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, bức tranh lợi nhuận quý II/2024 của các ngân hàng sẽ có sự phân hóa rõ nét.
Trong đó, một số ngân hàng có tiềm lực, triển vọng sẽ có lợi nhuận tăng trưởng vượt trội, lên đến hơn 50% so cùng kỳ năm trước và cũng có nhiều ngân hàng chỉ tăng trưởng ở mức một con số, hoặc tăng trưởng âm.
Ông Huân dự báo, lợi nhuận cả năm 2024 của ngành ngân hàng có thể tăng khoảng 10 -15%. Động lực chính đến từ nhiều yếu tố như hoạt động kinh tế được kỳ vọng hồi phục tích cực hơn trong nửa cuối năm 2024, giúp tăng trưởng tín dụng khởi sắc và giảm căng thẳng về nợ xấu; NIM kỳ vọng cải thiện nhờ chi phí huy động giảm nhanh hơn lãi suất cho vay.
Kết quả điều tra các tổ chức tín dụng vừa được Ngân hàng Nhà nước đưa ra cho thấy, tình hình kinh doanh tổng thể và lợi nhuận trước thuế của các ngân hàng trong quý II/2024 có cải thiện nhưng chưa thực sự rõ nét so với quý I/2024 và chưa đạt được như kỳ vọng của tổ chức tín dụng tại kỳ điều tra trước.
70 - 75,5% tổ chức tín dụng kỳ vọng tình hình kinh doanh sẽ khả quan hơn trong quý III/2024 và cả năm 2024.
Trong năm 2024, 86,2% tổ chức tín dụng kỳ vọng lợi nhuận trước thuế tăng trưởng dương so với năm 2023. Bên cạnh đó, vẫn có 11% tổ chức tín dụng lo ngại lợi nhuận tăng trưởng âm trong năm 2024 (cao hơn tỷ lệ 10,1% tổ chức tín dụng kỳ vọng tại kỳ điều tra trước) và 2,8% ước tính lợi nhuận không thay đổi.
Về định giá, tính đến ngày 16/7/2024, cổ phiếu ngành ngân hàng đang được giao dịch ở mức P/E và P/B trailing là 9,71 lần và 1,54 lần, thấp hơn so với P/E và P/B trung bình 3 năm là 10,26 lần và 1,67 lần.
Cùng với định giá hấp dẫn và tăng trưởng thu nhập kỳ vọng tiếp tục phục hồi, cổ phiếu ngành ngân hàng còn thu hút nhà đầu tư bởi câu chuyện tăng vốn, bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, nâng hạng thị trường và tỷ lệ cổ tức khá đều đặn.
Dựa vào những cơ sở đã đưa ra ở trên, kỳ vọng ngành ngân hàng sẽ tiếp tục là nhóm ngành thu hút dòng tiền trong năm nay và phù hợp với những nhà đầu tư ưa thích nắm giữ trong trung và dài hạn.
Theo bà Bùi Thị Thao Ly, Giám đốc Phân tích Công ty Chứng khoán Shinhan Việt Nam, lợi nhuận doanh nghiệp niêm yết trên HOSE tăng khoảng 11,5% so với cùng kỳ năm trước và ước tính cả năm tăng 15%, chủ yếu nhờ lợi nhuận của ngân hàng duy trì đà tăng và sự phục hồi của lĩnh vực bất động sản nửa cuối năm.
Lãi suất tiền gửi tiếp đà tăng, xuất hiện ngày càng nhiều mức lãi trên 6%/năm
Từ đầu tháng 7 đến nay, thị trường ghi nhận 10 ngân hàng thương mại tăng lãi suất huy động và mốc lãi suất 6% xuất hiện ngày càng nhiều ở các kỳ hạn dài.
Ngân hàng TMCP Kiên Long (Kienlongbank) vừa công bố biểu lãi suất huy động mới áp dụng từ ngày 12/7 với việc điều chỉnh tăng mạnh suất huy động tại tất cả kỳ hạn chính.
Theo biểu lãi suất huy động trực tuyến dành cho khách hàng cá nhân - sản phẩm có lãi suất cao nhất tại ngân hàng này - kỳ hạn từ một đến 3 tháng tăng 0,7%/năm lên 3,7%/năm. Đây là một trong những mức tăng lãi suất mạnh nhất kể từ đầu năm đến nay.
Lãi suất huy động kỳ hạn 6 tháng được tăng thêm 0,5%/năm, lên 5,2%/năm và kỳ hạn 9 tháng tăng mạnh 0,6& lên 5,3%/năm. Lãi suất các kỳ hạn 12 - 15 tháng cũng đồng loạt tăng thêm 0,4-0,6%/năm, lên mức 5,6%/năm.
Trong khi đó, lãi suất các kỳ hạn 18 - 36 tháng chỉ tăng nhẹ 0,1%/năm, được niêm yết ở mức 5,7%/năm.
Trong tuần qua, thị trường chứng kiến thêm Ngân hàng TMCP Việt Nam Thường Tín (VietBank) thay đổi lãi suất, ghi nhận tăng 0,1 - 0,3 điểm % tại tất cả các kỳ hạn.
Biểu lãi suất tiền gửi online của VietBank ghi nhận thay đổi tăng 0,3 điểm % với kỳ hạn một tháng lên 3,4%/năm; kỳ hạn 3 tháng lên 3,6%/năm và kỳ hạn 6 tháng lên 4,9%/năm.
Các kỳ hạn từ 9 đến 36 tháng được ngân hàng này tăng nhe 0,1 điểm % với thay đổi ở kỳ hạn 9 tháng lên 4,7%/năm; kỳ hạn 12 tháng lên 5,3%/năm và kỳ hạn từ 18 đến 36 tháng lên 5,9%/năm.
Ngân hàng TMCP Bản Việt (BVBank) cũng thay đổi lãi suất trong ngày 12/7, theo biểu lãi suất trực tuyến mới, lãi suất huy động các kỳ hạn dưới 6 tháng đồng loạt tăng thêm 0,3%/năm.
Cụ thể, lãi suất ngân hàngkỳ hạn một tháng là 3,7%/năm, kỳ hạn 2 tháng 3,75%/năm, kỳ hạn 3 tháng 3,8%/năm, kỳ hạn 4 tháng 3,85%/năm, kỳ hạn 5 tháng 3,9%/năm.
BVBank tăng thêm 0,2%/năm đối với lãi suất tiền gửi kỳ hạn 6 tháng, lên 5,1%/năm; đồng thời tăng thêm 0,25%/năm lãi suất tiền gửi kỳ hạn 7 tháng, lên 5,2%/năm - trở thành một trong số ít ngân hàng đang áp dụng mức lãi suất trên 5%/năm cho tiền gửi kỳ hạn 6 - 7 tháng bên cạnh NCB, BaoViet Bank, CBBank, ABBank và Eximbank.
Đối với các kỳ hạn dài hơn, BVBank niêm yết lãi suất 8 tháng ở mức 5,3%/năm, tăng 0,2 điểm % so với kỳ hạn cũ. Mức tăng mạnh nhất diễn ra đối với kỳ hạn 9 tháng, tăng 0,45%/năm lên 5,5%/năm, trong khi kỳ hạn 10 tháng cũng tăng mạnh 0,4%/năm để lên mức lãi suất 5,5%/năm.
Lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 11 tháng cũng tăng mạnh 0,45%/năm, lên mức 5,6%/năm, trong khi lãi suất các kỳ hạn 12 và 15 tháng lần lượt là 5,8% và 5,9%/năm sau khi tăng thêm 0,2%.
Với kỳ hạn 18 đến 24 tháng, BVBank đã chính thức gia nhập “câu lạc bộ” nhà băng niêm yết lãi suất huy động từ 6%/năm sau khi tăng thêm 0,2%/năm.
Các ngân hàng khác cũng đang niêm yết mức lãi suất trên 6% bao gồm ABBank với kỳ hạn 12 tháng ở mức 6%/năm - đây cũng là mức lãi suất dẫn đầu thị trường tại kỳ hạn này.
Ngân hàng HDBank hiện đang niêm yết biểu lãi suất kỳ hạn 18 tháng với mốc lãi 6,1%/năm. Mức lãi suất này cũng xuất hiện tại NCB đối với kỳ hạn 18 - 36 tháng.
OceanBank hiện niêm yết mức lãi 6,1%/năm với gói tiền gửi tiết kiệm trực tuyến, kỳ hạn 36 tháng. Theo sau là OCB, SeABank hiện niêm yết lãi suất 6,0%/năm tại cùng kỳ hạn.
Theo thống kê của WiGroup, hiệu suất các kênh đầu tư trong 6 tháng đầu năm lần lượt như sau: Vàng nhẫn 21,34%; cổ phiếu 10,04%; trái phiếu doanh nghiệp 7,84%; vàng SJC 4,03%; USD 3,99%; tiền gửi 2,42% và trái phiếu chính phủ 1,41%.
Trong báo cáo chiến lược mới công bố, Chứng khoán KB Việt Nam (KBSV) cho biết, việc các ngân hàng tăng lãi suất huy động đến từ việc thiếu hụt thanh khoản trên thị trường do những động thái can thiệp ổn định tỷ giá của NHNN.
KBSV nhận định, lãi suất huy động sẽ tiếp tục tăng thêm 0,7 - 1,0 điểm % từ nay cho tới cuối năm, lên mức tương đương vùng đáy Covid-19 giai đoạn 2020 - 2021 do áp lực từ tỷ giá và cầu tín dụng hồi phục.
Cùng chung nhận định, Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) cũng cho rằng lãi suất huy động tăng trở lại là một kịch bản phù hợp dựa trên dự báo về tỷ giá và tăng trưởng tín dụng nhưng mức tăng sẽ không đột biến như 2022 do bối cảnh vĩ mô là khác nhau.
"Năm 2024 còn thiếu những nhân tố gây "shock" về cầu tín dụng và sự thay đổi đột ngột về chính sách tiền tệ như năm 2022 để gây ra sự đột biến về mặt bằng lãi suất. Bên cạnh đó, áp lực rút ròng ngoại tệ sẽ dịu lại đáng kể nếu có thêm hiệu ứng "hội tụ" về lãi suất (FED giảm lãi suất trong khi NHNN tăng lãi suất trong nửa cuối năm)", báo cáo chiến lược mới đây tại VDSC viết.
Vì vậy, chuyên gia VDSC cho rằng mặt bằng lãi suất tăng thêm khoảng 0,5 – 1,0 điểm % để trở về mức trung bình trước dịch là một kịch bản hợp lý.
주식, FX, 상품, 선물, 채권, ETF 또는 암호화폐와 같은 금융 자산 거래의 손실 위험은 상당할 수 있습니다. 중개인에게 자금을 예치할 경우, 이 자금이 전부 손실될 수도 있습니다. 따라서 귀하의 상황과 재정 상황에 비추어 그러한 거래가 귀하에게 적합한지 신중하게 고려해야 합니다.
본인 스스로 나름대로 철저히 조사를 하거나 재무 관련 상담가와 상의하지 않고는 이러한 투자는 고려해서는 안됩니다. 이런 절차 없이 투자할 경우, 귀하의 재정 상태와 투자 요구 사항을 알지 못한 상태에서 하는 투자이기 때문에 당사의 웹 콘텐츠는 귀하에게 적합하지 않을 수 있습니다. 당사의 재무 정보가 최신으로 업데이트 되는 데는 지연이 있을 수 있고, 부정확한 내용이 포함될 수도 있으므로 모든 거래 및 투자 결정에 대한 책임은 투자자 본인의 몫입니다. 회사는 귀하의 자본 손실에 대해 책임을 지지 않습니다.
웹사이트의 허가 없이 웹사이트 그래픽, 텍스트 또는 상표를 복사할 수 없습니다. 이 웹사이트에 포함된 콘텐츠 또는 데이터에 대한 지적 재산권은 해당 공급자 및 거래소 판매자에게 있습니다.