견적
소식
분석
사용자
7x24
경제 일정
NULL_CELL
데이터
- 이름
- 최신 값
- 이전
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
움:--
F: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
움:--
F: --
움:--
F: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
움:--
F: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
--
F: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
일치하는 데이터가 없습니다
최신 의견
최신 의견
트렌드 토픽
금융시장은 안정세를 유지하고 있지만 새로운 주가 시작되면서 초조한 기대감을 보이고 있습니다. 이스라엘과 하마스 사이의 갈등이 계속해서 중심이 되고 있으며, 폭력사태가 더 넓은 지역을 휩쓸 가능성에 대한 우려가 커지고 있습니다.
돈은 세상을 돌아가게 만들고 화폐는 영구적인 상품입니다. 외환시장은 놀라움과 기대로 가득 차 있습니다.
채권 시장은 가장 오래된 금융 시장으로 성숙하고 혁신적이지는 않지만 필수불가결한 반면, 부채는 눈에 띄지 않지만 무시무시한 고대의 공통 소용돌이입니다.
글로벌 금융시장에서 주식시장은 경제 지표의 역할을 하며 항상 투자자들의 관심의 초점이 되어 왔습니다. 그것의 상승과 하락은 여러 나라의 경제에 큰 영향을 미칩니다.
탑 칼럼니스트
안녕하세요! 금융계에 참여할 준비가 되셨나요?
최신 속보와 글로벌 금융 이벤트를 확인하세요.
저는 재무 분석, 특히 거시적 발전과 중장기 추세 판단 측면에서 5년의 경험을 갖고 있습니다. 저는 주로 중동, 신흥 시장, 석탄, 밀 및 기타 농산물의 개발에 중점을 두고 있습니다.
BeingTrader 수석 트레이딩 코치 및 연사, 주로 XAUUSD, EUR/USD, GBP/USD, USD/JPY 및 원유를 거래하는 외환 시장에서 8년 이상의 경험을 갖고 있습니다. 다양한 기회를 탐색하고 시장에서 투자자를 안내하는 것을 목표로 하는 자신감 있는 트레이더이자 분석가입니다. 분석가로서 나는 충분한 데이터와 신호로 트레이더를 지원함으로써 트레이더의 경험을 향상시키려고 합니다.
최근 업데이트
Risk Warning on Trading HK Stocks
Despite Hong Kong's robust legal and regulatory framework, its stock market still faces unique risks and challenges, such as currency fluctuations due to the Hong Kong dollar's peg to the US dollar and the impact of mainland China's policy changes and economic conditions on Hong Kong stocks.
HK Stock Trading Fees and Taxation
Trading costs in the Hong Kong stock market include transaction fees, stamp duty, settlement charges, and currency conversion fees for foreign investors. Additionally, taxes may apply based on local regulations.
HK Non-Essential Consumer Goods Industry
The Hong Kong stock market encompasses non-essential consumption sectors like automotive, education, tourism, catering, and apparel. Of the 643 listed companies, 35% are mainland Chinese, making up 65% of the total market capitalization. Thus, it's heavily influenced by the Chinese economy.
HK Real Estate Industry
In recent years, the real estate and construction sector's share in the Hong Kong stock index has notably decreased. Nevertheless, as of 2022, it retains around 10% market share, covering real estate development, construction engineering, investment, and property management.
Hongkong, China
베트남 호치민
Dubai, UAE
나이지리아 라고스
카이로 이집트
모두 보기
데이터가 없음
Lãi suất tiết kiệm tăng mạnh tháng cuối năm
12 ngân hàng tăng mạnh lãi suất huy động trong tháng qua song mặt bằng vẫn thấp hơn so với giai đoạn Covid-19.
Khảo sát của VnExpress đến 13/12 cho thấy, khoảng 12 ngân hàng tăng lãi suất trong một tháng qua, áp đảo lượt giảm.
Trong đó, Agribank là nhà băng quốc doanh duy nhất tăng mạnh 0,5-1% với các kỳ hạn ngắn dưới 12 tháng, đặc biệt trên kênh online. Với kỳ hạn từ 12 tháng trở đi, mức tăng thấp hơn, chỉ khoảng 0,1-0,2%. Đợt tăng này đưa Agribank thành nhà băng trả lãi cao nhất trong nhóm Big 4, dao động 2,4% đến 3,7% cho kỳ hạn dưới 12 tháng và 4,8% kỳ hạn 12 tháng trở đi (gửi online).
Bên cạnh đó, có hơn 10 ngân hàng tư nhân, gồm MB, VPBank, TPBank, VIB, MSB, Eximbank, SeABank, Kienlongbank, CBBank và LPBank điều chỉnh biểu lãi suất trong một tháng qua. Đơn cử, MB tăng mạnh 0,3-0,4% ở tất cả kỳ hạn, Eximbank tăng 0,4-0,6%, SeABank tăng 0,3-0,5%, VPBank tăng 0,2% tất cả kỳ hạn, VIB tăng 0,1-0,4%...
Hiện, có hai nhà băng trả lãi suất từ 6% trở lên cho khoản tiền gửi kỳ hạn 12 tháng, là GPBank và WooriBank. Bên cạnh đó, lãi suất từ 6% vẫn xuất hiện tại các ngân hàng khác nhưng với kỳ hạn dài hơn, như tại BVBank, Eximbank, BaoVietBank, DongABank, Saigonbank...
Công ty chứng khoán Vietcombank (VCBS) nhận định, mặt bằng lãi suất huy động hiện cao hơn khoảng 0,5% so với mức đáy thiết lập trong quý II, nhưng vẫn thấp hơn giai đoạn Covid-19. Đà tăng của lãi suất tiết kiệm diễn ra trong bối cảnh tốc độ huy động vốn của các ngân hàng thấp hơn nhiều so với tăng trưởng tín dụng.
Tính đến 7/12, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đã đạt 12,5%, cao hơn so với mức tăng trên 9% cùng kỳ năm ngoái. VCBS nhận định, tín dụng tăng tốc vào các tháng cuối năm tạo áp lực tỷ giá gia tăng cũng khiến Ngân hàng Nhà nước điều tiết cung tiền thận trọng hơn, cũng như nguồn tiền gửi Kho bạc Nhà nước hạn chế, tạo áp lực lên thanh khoản hệ thống.
Công ty chứng khoán này dự báo, lãi suất tiết kiệm dự báo đi ngang trong 2025, với kỳ vọng áp lực tỷ giá hạ nhiệt hỗ trợ thanh khoản hệ thống và Ngân hàng Nhà nước tiếp tục chính sách tiền tệ nới lỏng.
Dưới đây là mức lãi suất tiết kiệm ngân hàng sắp xếp từ cao tới thấp được niêm yết chính thức (cho khoản tiền dưới 1 tỷ đồng), không tính thỏa thuận thực tế của ngân hàng với khách quen, VIP, gửi tiền giá trị lớn.
Quỳnh Trang
Lãi suất huy động có khả năng tăng nhẹ hoặc đi ngang năm 2025
Các chuyên gia cho rằng, xu hướng tăng lãi suất huy động sẽ được tiếp tục duy trì cho tới cuối năm nay trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng đang tăng nhanh hơn gần gấp đôi so với tốc độ tăng trưởng của huy động vốn.
Từ đầu tháng 12 đến nay, có 5 ngân hàng tăng lãi suất, bao gồm: ABBank, IVB, TPBank, GPBank và MSB. Có 4 ngân hàng giảm lãi trong tháng này gồm: LPBank, IVB, ABBank và VIB.
Trên thị trường, hiện có 11 ngân hàng thương mại đang áp dụng lãi suất huy động từ 6%/năm trở lên, tuy nhiên đa phần là áp dụng cho tiền gửi trực tuyến với các kỳ hạn dài.
Ngân hàng LPBank là một trong 4 ngân hàng giảm lãi suất huy động đầu tháng 12 (ảnh: Ngọc Mai). |
Lãi suất cho vay ra của các ngân hàng duy trì ở mức ổn định. Theo đó, lãi suất cho vay bình quân của các ngân hàng thương mại đối với các khoản cho vay mới và cũ còn dư nợ ở mức 6,7- 9,1%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân bằng VNĐ đối với lĩnh vực ưu tiên khoảng 3,7%/năm, thấp hơn mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa theo quy định của Ngân hàng Nhà nước là 4%/năm.
Nhìn nhận về diễn biến lãi suất cuối năm, chuyên gia phân tích của Công ty Chứng khoán MBS cho rằng, xu hướng tăng lãi suất huy động sẽ được tiếp tục duy trì cho tới cuối năm nay trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng đang tăng nhanh hơn gần gấp đôi so với tốc độ tăng trưởng của huy động vốn.
Dự báo lãi suất đầu năm 2025, chuyên gia của Công ty Chứng khoán VPBankS cho biết, xu hướng nền lãi suất huy động có khả năng tăng nhẹ hoặc đi ngang. Sự phân hóa giữa các ngân hàng sẽ trở nên rõ ràng hơn, với nhóm ngân hàng nhỏ có xu hướng đưa ra mức lãi suất huy động cao hơn để thu hút vốn.
Xu hướng lãi suất huy động năm 2025 sẽ tiếp tục xoay quanh chính sách tiền tệ linh hoạt của Ngân hàng Nhà nước, mức độ hồi phục kinh tế và diễn biến lạm phát.
“Đây sẽ là một năm ổn định nhưng đầy thách thức đối với các ngân hàng trong việc cân đối giữa huy động vốn và duy trì lợi nhuận”, báo cáo của VPBankS dự báo.
Kế hoạch tăng trưởng tín dụng 15% sắp về đích?
Tín dụng những tháng cuối năm tập trung cho vay sản xuất.
Những tháng cuối năm 2024 tín dụng các ngân hàng tăng trưởng mạnh mẽ, tập trung vào cho vay sản xuất. Chuyên gia kinh tế nhận định, mục tiêu tăng trưởng tín dụng đạt 15% là hoàn toàn có thể đạt được.
Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), đến ngày 22/11, tín dụng toàn hệ thống tăng 11,12% so với cuối năm 2023. Như vậy, với kế hoạch tăng trưởng tín dụng 15%, tương đương với hơn 2 triệu tỷ đồng đưa ra nền kinh tế, thì dư địa tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng trong những tuần cuối năm 2024 là khoảng 520.000 tỷ đồng.
Nhu cầu vốn cuối năm tăng mạnh
Chỉ còn 3 tuần nữa là kết thúc năm 2024, để đạt chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng 15%, ngành ngân hàng cũng như các doanh nghiệp đang “chạy nước rút”. Từ trước đó, các ngân hàng, đặc biệt là những ngân hàng quốc doanh và ngân hàng nước ngoài, đã thực hiện nhiều biện pháp để thu hút khách hàng, đồng thời điều chỉnh lãi suất huy động và cho vay nhằm kích thích nền kinh tế.
Khảo sát trên thị trường trong tháng 11 tới nay đã có một nửa số ngân hàng tăng lãi suất huy động, trong đó có nhiều ngân hàng nhỏ như SeABank, BaoViet Bank, GPBank, Nam A Bank, Viet A Bank, ABBank, VietBank… áp dụng lãi suất tiền gửi kỳ hạn cao nhất trên 6%/năm.
Mặc dù lãi suất huy động tăng nhưng lãi suất cho vay ra của các ngân hàng cũng không mấy biến động. Đối với khách hàng doanh nghiệp, các ngân hàng duy trì mức giảm lãi suất sâu, tập trung vào tài trợ vốn lưu động và vốn trung dài hạn cho các doanh nghiệp với mức lãi suất từ 2,9% trở lên.
Nhìn chung, mức lãi suất cho vay hiện nay đã xuống thấp hơn nhiều so với các năm trước, với lãi suất cho vay thế chấp chỉ còn từ 5,8% đến 6,5%. Các mức lãi suất phổ biến đã giảm từ 12-13% xuống còn 9,5-11%.
Cùng với đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã nới thêm hạn mức tín dụng cho các ngân hàng, giúp thúc đẩy nhu cầu vay vốn trong nền kinh tế.
Đặc biệt, lãi suất cho vay của các ngân hàng quốc doanh và ngân hàng nước ngoài vẫn duy trì mức cạnh tranh cao, khiến các ngân hàng tư nhân cũng phải điều chỉnh lại mức lãi suất của mình. Điều này không chỉ giúp các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận vốn, mà còn hỗ trợ người dân trong việc vay mua nhà và tiêu dùng.
Lãi suất cho vay thấp là một yếu tố quan trọng giúp thúc đẩy nền kinh tế phục hồi sau đại dịch và khôi phục đà tăng trưởng tín dụng trong các quý tiếp theo.
Các chuyên gia đánh giá, chính sách nới chỉ tiêu tín dụng của NHNN sẽ là động lực cho các ngân hàng cạnh tranh mạnh mẽ hơn trong việc giành room tín dụng và thị phần.
Trước đó, trao đổi về cách thức phân bổ room tín dụng, Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú cho biết: Nếu như những năm trước đây, room tín dụng là cấp phát, phân bổ thì nay là cơ chế giao để cho các ngân hàng phấn đấu đạt chỉ tiêu. Năm ngoái, cũng có ngân hàng tăng hết room nhưng rất nhiều ngân hàng không đến room, thậm chí có ngân hàng tăng trưởng tín dụng âm. Những ngân hàng tăng trưởng âm, tăng trưởng thấp đó có thể do chưa mạnh dạn tăng trưởng. Những ngân hàng nào không cho vay được thì sẽ bị điều chuyển hạn mức tín dụng sang ngân hàng khác.
Tín dụng hồi phục mạnh mẽ
Theo dự báo từ các chuyên gia kinh tế, tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ đạt mức 14% trong năm 2024, và có thể đạt 15% vào năm 2025. Đặc biệt, trong quý 3 và quý 4 năm 2024, tín dụng ngân hàng đã có dấu hiệu phục hồi mạnh mẽ, với tín dụng cho vay doanh nghiệp tăng đáng kể, đặc biệt là các khoản vay phục vụ sản xuất và phát triển bất động sản.
Một số ngân hàng như Techcombank, HDBank, MBBank, MSB… ghi nhận mức tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ. Theo đó, Techcombank dẫn đầu thị trường với tốc độ tăng trưởng dư nợ cao nhất, trong đó tín dụng cá nhân tăng trưởng mạnh, đạt mức tăng 6% so với quý trước. Tại HDBank, tín dụng cho vay FDI tăng trưởng mạnh tới 56%, còn cho vay bất động sản cũng ghi nhận mức tăng trưởng 5%. Tại MBBank tăng trưởng tín dụng đạt 13,5%.
Tại MSB, tín dụng riêng lẻ đã tăng 15,1% so với đầu năm, với trọng tâm vào các ngành chế biến sản xuất, xuất khẩu và công nghiệp hỗ trợ. MBBank quý 3/2024 tăng trưởng 13,5% so với năm 2023 - đây là mức tăng trưởng tín dụng tốt so với thị trường. Dư nợ cho vay khách hàng riêng ngân hàng tăng trưởng tốt, đạt 664.452 tỉ đồng, tăng 15% so với năm 2023, chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, công nghiệp phụ trợ.
Tín dụng cho vay bán lẻ cũng ghi nhận sự tăng trưởng trong quý 3 năm 2024, sau một giai đoạn chậm chạp trong nửa đầu năm. Các đơn hàng xuất khẩu tiếp tục hồi phục, tạo ra nhu cầu vay vốn từ các doanh nghiệp sản xuất, đặc biệt trong ngành chế biến xuất khẩu.
Trong giai đoạn cuối năm 2024, nhiều chính sách đáng chú ý có thể tác động đến tín dụng. Đó là Ngân hàng Nhà nước tiếp tục chính sách cơ cấu nợ, giữ nguyên nhóm nợ; nâng gói tín dụng hỗ trợ lĩnh vực thủy sản và lâm sản từ 30.000 tỷ đồng lên 60.000 tỷ đồng. Các tổ chức tín dụng tiếp tục đăng ký thêm những gói tín dụng mới để cho vay mới và giảm lãi suất.
Dự báo về tăng trưởng tín dụng thời gian tới, các chuyên gia cho rằng, Ngân hàng Nhà nước đã nới lỏng chính sách tiền tệ sớm hơn, lãi suất đã ở mức thấp nên khả năng từ nay đến cuối năm 2024, chính sách tiền tệ sẽ ổn định. Trong khi đó, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các ngân hàng thương mại đánh giá, tăng cường bảo lãnh tín dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, từ đó khơi thông dòng vốn tín dụng. Cân bằng với lạm phát, tỷ giá và mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, nhiều khả năng tín dụng ngân hàng sẽ có sự bứt phá mạnh, tăng trưởng đạt mục tiêu 14-15%...
TCB, VPB, MSB đồng loạt tăng lãi suất tiết kiệm
Trong tuần đầu tiên tháng 12, nhiều ngân hàng điều chỉnh biểu lãi suất tiết kiệm với mức tăng cao nhất lên tới 0,7%/năm.
Lãi suất tiết kiệm mới nhất tại VPBank
Biểu lãi suất tiết kiệm của ngân hàng VPBank được điều chỉnh chính thức có hiệu lực từ ngày 3/12.
Với khách hàng cá nhân, VPBank đang triển khai 5 nhóm hạn mức tiền gửi với khung lãi suất khác nhau bao gồm: dưới 1 tỷ, từ 1 tỷ đến dưới 3 tỷ, từ 3 tỷ đến dưới 10 tỷ, từ 10 tỷ đến dưới 50 tỷ và trên 50 tỷ.
Cụ thể, với khách hàng gửi tiết kiệm dưới 3 tỷ đồng, lãi suất ở kỳ hạn 1 -18 tháng tăng thêm 0,2 điểm %. Cụ thể, lãi suất 1 tháng tăng lên mức 3,7%/năm. Lãi suất kỳ hạn 2- 5 tháng cũng ghi nhận ở mức 3,9%/năm. Lãi suất tiết kiệm ở kỳ hạn 6 - 11 tháng tăng lên 4,9%/năm, kỳ hạn 12 - 18 tháng tăng lên 5,4%/năm. Lãi suất tiết kiệm ở kỳ hạn 24 - 36 tháng giữ ở mức 5,5%/năm.
Với mức tiền gửi từ 3 tỷ đến 10 tỷ đồng, lãi suất tiết kiệm hiện dao động trong phạm vi 3,7% - 5,5%/năm cho kỳ hạn 1 tháng - 18 tháng. Lãi suất tiết kiệm ở kỳ hạn 24 tháng tăng lên 5,6%/năm.
Với mức tiền gửi từ 10 tỷ đến dưới 50 tỷ đồng, lãi suất tiết kiệm dao động ở mức 3,8%/năm - 5,7%/năm cho kỳ hạn 1-24 tháng.
Trong khi đó, với hạn mức tiền gửi tối thiểu 50 tỷ đồng, nhà băng này trả lãi 3,9%/năm – 5,7%/năm cho kỳ hạn 1-36 tháng.
Đối với lãi suất tiết kiệm online, VPBank điều chỉnh tăng trung bình 0,1-0,2 điểm % áp dụng cho tùy từng kỳ hạn và hạn mức. Hiện với khoản tiền gửi thông thường, mức lãi suất tiết kiệm dao động từ 3,8%/năm đến 5,8%/năm.
VPBank cũng cộng thêm lãi suất 0,4-0,7%/năm cho khách hàng hạng Pre- Diamond hay Diamond với khoản tiền gửi từ 300 triệu đồng trở lên, áp dụng hình thức gửi online.
Lãi suất tiết kiệm mới nhất tại Techcombank
Ngân hàng Techcombank cũng tăng nhẹ lãi suất tiết kiệm ở kỳ hạn ngắn kể từ ngày 2/12. Theo đó, lãi suất tiết kiệm ở kỳ hạn 1-2 tháng đối với khách hàng thường gửi tiết kiệm Phát Lộc tại quầy với mức tiền gửi dưới 1 tỷ tăng thêm 0,1 điểm % lên 3,25%/năm. Lãi suất tiết kiệm ở kỳ hạn 3-5 tháng tăng lên 3,55%/năm.
Nhà băng này giữ nguyên mức lãi suất từ kỳ hạn 6-12 tháng, hiện ở mức 4,45%/năm áp dụng cho kỳ hạn 6-11 tháng và 4,75%/năm cho kỳ hạn từ 12 – 36 tháng.
Techcombank cũng điều chỉnh tăng tương tự khi cộng thêm 0,1 điểm % lãi suất cho các kỳ hạn từ 1-5 tháng với mức tiền gửi từ 1 tỷ đến 3 tỷ đồng và trên 3 tỷ cho từng nhóm khách hàng: Inspire, Priotiry, Private. Các kỳ hạn khác, nhà băng này giữ nguyên lãi suất.
Biểu lãi suất tiết kiệm Phát Lộc online cũng được điều chỉnh cộng thêm 0,1 điểm % cho kỳ hạn từ 1-5 tháng so với lần điều chỉnh trước. Hiện với khách hàng thường gửi tiết kiệm dưới 1 tỷ đồng, lãi suất dao động từ 3,35%/năm đến 4,85%/năm áp dụng cho kỳ hạn 1-12 tháng.
Biểu lãi suất tiết kiệm mới nhất tại Techcombank dành cho khách hàng gửi tiết kiệm phát lộc tại quầy,
Biểu lãi suất tiết kiệm mới nhất tại Techcombank dành cho khách hàng gửi tiết kiệm phát lộc online.
Lãi suất tiết kiệm mới nhất tại MSB
Ngân hàng MSB cũng vừa điều chỉnh lãi suất tiết kiệm từ ngày 3/12. Với khách hàng thông thường, nhà băng này tăng 0,2%/năm lãi suất tiền gửi các kỳ hạn 1-12 tháng. Hiện, mức lãi suất gửi tại quầy dao động từ 3,6%/năm đến 5,5%/năm áp dụng cho kỳ hạn từ 1-12 tháng. Trong khi đó, lãi suất tiết kiệm online dao động 4,1%/năm - 5.8%/năm.
Biểu lãi suất tiết kiệm mới nhất tại MSB.
Đáng chú ý, MSB tăng mạnh lãi suất lên 0,7%/năm tại một số kỳ hạn dành cho nhóm khách hàng là: khách hàng ưu tiên theo quy định của MSB tại từng thời kỳ; cán bộ nhân viên thuộc Ngân hàng MSB hoặc Tập đoàn TNG; cá nhân đang được trả lương qua tài khoản tại MSB.
Cụ thể, lãi suất tiết kiệm ở kỳ hạn 6 tháng tăng mạnh 0,7%/năm, lên 5,5%/năm.
Lãi suất tại các kỳ hạn 12 tháng, 15 tháng và 24 tháng tăng lên 6,3%/năm.
Nguồn: MSB.
Theo tài liệu họp ĐHĐCĐ bất thường lần 2 năm 2024, HĐQT CTCP Vận tải biển Global Pacific P dự trình cổ đông thông qua phương án đầu tư 4 tàu chở dầu hoặc hóa chất mới, với tổng giá trị lên tới hơn 4.9 ngàn tỷ đồng.
Cụ thể, HĐQT PCT dự trình đại hội phê duyệt phương án đóng mới 4 tàu chở dầu/hóa chất có trọng tải 25,900 DWT. Địa điểm đóng tàu là Trung Quốc, với mức đầu tư không vượt quá 48.15 triệu USD/tàu. Tổng mức đầu tư gần 193 triệu USD, tương đương hơn 4.9 ngàn tỷ đồng. Suất sinh lời trên vốn chủ (ROE) dự kiến khoảng 10.72% trên mỗi tàu.
Nguồn: PCT
Nguồn vốn đầu tư sẽ đến từ vốn chủ sở hữu và vốn vay từ các tổ chức tín dụng (không vượt quá 80% giá trị mua tàu). Trong đó, Doanh nghiệp dự kiến chi hơn 49 triệu USD cho 4 tàu (hơn 1.2 ngàn tỷ đồng, mỗi tàu hơn 312 tỷ) từ vốn chủ sở hữu, vốn khác, hoặc thực hiện phát hành cổ phiếu theo tiến độ thanh toán.
Theo BCTC quý 3/2024, tổng tài sản của PCT là 1.73 ngàn tỷ đồng, vốn chủ sở hữu 635 tỷ đồng. Như vậy, số tiền chi từ vốn chủ cho mỗi tàu chiếm 18% cơ cấu tài sản, và gần 50% vốn chủ sở hữu hiện tại.
Đối với nguồn vốn vay, Công ty đang làm việc với một số ngân hàng có tính khả thi và cam kết cao, gồm OCB, TPBank, MSB và MB Bank. Thời hạn cho vay là 8 năm, được đảm bảo bằng chính con tàu, lãi suất cho vay dao động từ 6.5-9% (khoản vay bằng VNĐ), trung bình 8%/năm. Doanh nghiệp ưu tiên vay bằng USD, dự phòng là vay VNĐ trong nước.
Ngoài ra, HĐQT dự trình thông qua đơn từ nhiệm của ông Phạm Xuân Quang - Thành viên HĐQT nhiệm kỳ 2023-2028 vì lý do cá nhân.
ĐHĐCĐ bất thường 2024 của PCT sẽ diễn ra vào 9h sáng ngày 03/12/2024, tại Tòa nhà Nexus, Tôn Đức Thắng, Q.1, TPHCM.
Mỗi tàu có thể mang về gần 600 triệu đồng/ngày
Theo PCT đánh giá, thị trường vận tải biển nói chung và vận tải hàng lỏng nói riêng đã cải thiện và phục hồi tích cực sau giai đoạn cực thịnh năm 2006-2007. Các xung đột địa chính trị căng thẳng những năm qua tại Trung Đông, Đông Âu… (những nơi có sản lượng dầu lớn) đã làm tăng nhu cầu nhập khẩu dầu. Cùng với đó, các lệnh cấm vận của Mỹ, EU đối với Iran, Venezuela hoặc Nga… cũng dẫn đến sự thay đổi trong nguồn cung toàn cầu và nhu cầu vận tải tăng cao ở các khu vực khác để bù đắp thiếu hụt.
Bối cảnh phức tạp hiện nay cho thấy nhu cầu vận tải bằng đường biển nói chung sẽ tăng trưởng trong các năm tiếp theo. Trong đó, dòng tàu dầu/hóa chất trọng tải từ 19,000-26,000 DWT rất được ưa chuộng để chạy các tuyến hàng xung quanh khu vực Trung Đông, Đông Nam Á, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, châu Mỹ, châu Âu... vì tính đa đạng mặt hàng chuyên chở.
Lợi thế của kiểu tàu này là chuyên chở kết hợp nhiều mặt hàng và giảm thiểu chạy rỗng cho chiều ngược lại, do đó giá cước luôn ở mức ổn định và cao hơn vận chuyển xăng dầu. Lợi nhuận trung bình cho toàn bộ phân khúc tàu chở dầu sản phẩm (CPP) năm 2024 cao hơn 87% so với mức trung bình 10 năm gần đây, theo đánh giá từ Clarksons Research.
PCT cho biết diễn biến trên làm các đơn đóng mới tàu biển có xu hướng tăng. Tàu mới đóng thường có hợp đồng thuê dài hạn với giá cước cao hơn tàu đã qua sử dụng, do khả năng đáp ứng tốt hơn về hiệu suất vận hành và yêu cầu về khí thải môi trường với những công nghệ đóng tàu có nhiều cải tiến.
Ngành hóa chất Việt Nam đóng vai trò chủ đạo trong việc phát triển kinh tế vì là ngành cung cấp đầu vào cho một số ngành công nghiệp thiết yếu. Hiện nay, Việt Nam đã phát triển đầy đủ các phân ngành của ngành công nghiệp hóa chất bao gồm: Phân bón và các hợp chất ni-tơ, xà phòng và chất tẩy rửa, nhựa nguyên sinh và cao su tổng hợp, hóa chất cơ bản, sơn và mực, thuốc trừ sâu, sợi nhân tạo và các loại sản phẩm hóa học khác. Để phục vụ nhu cầu trong nước, 70-80% lượng hóa chất được nhập khẩu từ Trung Quốc, còn lại từ các nước khác.
Do vậy, thị trường hóa chất nhập khẩu cũng mang lại cơ hội cho chủ tàu Việt Nam sở hữu chủng loại tàu chở dầu sản phẩm/hóa chất trọng tải khoảng 25,000-26,000 DWT. Đối với PCT, việc đầu tư đóng mới tàu sẽ giúp Công ty phát huy tối đa năng lực, duy trì chi phí quản lý và vận hành ở mức hợp lý, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Doanh nghiệp cũng đánh giá đây là thời điểm phù hợp để đầu tư mở rộng đội tàu, khi có đủ kinh nghiệm và năng lực khai thác hiệu quả tàu mới, giúp tối ưu hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro.
Hiện tại, PCT đang sở hữu và khai thác 4 tàu dầu sản phẩm/hóa chất dòng J19 với điều kiện kỹ thuật tốt và hiệu suất cao. Nhưng với nhu cầu tăng mạnh, đầu tư đóng mới tàu chở dầu/hóa chất thuộc phân khúc IMO II/III với trọng tải khoảng 25,000-26,000 DWT sẽ giúp Công ty mở rộng quy mô, tăng năng lực khai thác và tận dụng tối đa cơ hội trên thị trường.
Nguồn: PCT
Về kế hoạch doanh thu, Công ty dự tính doanh thu khai thác cho thuê TC/Pool (thuê tàu hạn định) trong 5 năm đầu là 22,800 USD/ngày (bằng 95% trung bình giá cước 3 năm), rồi giảm dần về 18,000 USD/ngày từ năm 21-25 (80% giá cước TC 3 năm). Thời gian khấu hao tàu tối đa 15 năm, chi phí cố định (chi phí hoạt động Opex và chi phí vốn Capex) mỗi năm 8.2 triệu USD/tàu. Giá thanh lý tàu gần 2.4 triệu USD.
Châu An
FILI
Rủi ro tài sản được kiểm soát, rủi ro thanh khoản ngân hàng gia tăng
Ngân hàng SOB và ngân hàng lớn ít rủi ro tài sản vì dư nợ cho vay khu vực ảnh hưởng bão; song các ngân hàng nhỏ chịu tác động vốn và chi phí tín dụng.
Rủi ro thanh khoản đang gia tăng khi các ngân hàng ngày càng phụ thuộc vào nguồn vốn thị trường ngắn hạn và lãi suất liên ngân hàng tăng mạnh.
Tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn (CASA) của toàn ngành duy trì ổn định ở mức 19% tổng dư nợ cho vay khách hàng trong 9 tháng 2024. OCB ghi nhận mức tăng lớn nhất, 3% QoQ, nhờ các nỗ lực chuyển đổi số. Tỷ lệ cho vay trên tiền gửi (LDR) toàn ngành vẫn ở mức cao, đạt 106%, ông Phan Duy Hưng, CFA, MBA, Giám đốc Phân tích cao cấp của VIS Rating cùng các cộng sự cập nhật trong báo cáo về ngân hàng 9 tháng 2024.
Theo các chuyên gia của VIS, các ngân hàng nhỏ và vừa (ví dụ: BVB,
Cập nhật diễn biến thị trường cũng phản ánh từ giữa tháng 10 năm 2024, lãi suất liên ngân hàng qua đêm đã tăng 3.5%, lên mức trung bình 6% sau những áp lực tỷ giá và thanh khoản thị trường thắt chặt hơn. "Lãi suất liên ngân hàng nếu tiếp tục duy trì ở mức cao trong thời gian tới sẽ làm tăng rủi ro thanh khoản đối với các ngân hàng nhỏ và vừa", các chuyên gia VIS Rating nhận định.
Lãi suất liên ngân hàng thực tế sau nhiều động thái can thiệp của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), đến 20/11, vẫn đang neo ở mức cao. Tại 20/11, lãi suất bình quân liên ngân hàng kỳ hạn qua đêm ghi nhận áp dụng 19/11 là 5,31%; 1 tuần là 5,34%, 2 tuần là 5,60% và 3 tháng là 5,40%. Trước đó, lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng đã vọt lên mức 5,5% vào đầu tháng 11/2024, cao nhất kể từ tháng 4/2023 và có thời điểm dâng cao 6%, khiến NHNN đã phải phát hành gần 100 nghìn tỷ đồng tín phiếu, bơm hơn 200 nghìn tỷ đồng qua thị trường mở (OMO). Qua đó, để đưa lãi suất liên ngân hàng tạm thời về mức như hiện tại.
Rủi ro lãi suất liên ngân hàng có thể dâng trở lại, theo giới chuyên môn, vẫn có thể lặp lại nếu tỷ giá vẫn tiếp tục gặp các biến động và rủi ro, theo sát những biến động của DXY và các thay đổi trên thị trường quốc tế sau hơn 2 tuần nước Mỹ có kết quả bầu cử Tổng thống.
Tuy nhiên, trong trường hợp áp lực tỷ giá hạ nhiệt, lãi suất liên ngân hàng cũng sẽ giảm rủi ro tăng lên. Điều kiện "đồng hành" là nguồn vốn của các TCTD có thể cải thiện tốt hơn ngoài phụ thuộc vốn ngắn hạn như hiện tại, một chuyên gia lưu ý.
Bên cạnh vấn đề về rủi ro thanh khoản của các ngân hàng và lưu ý nguồn vốn, chi phí vốn của các ngân hàng quy mô nhỏ, một tín hiệu tích cực của hệ thống, theo đánh giá của ông Phan Duy Hưng và các cộng sự, là rủi ro tài sản của các ngân hàng duy trì ổn định trong 9 tháng đầu năm 2024. Trong đó, rủi ro tài sản của các ngân hàng được kiểm soát nhờ quy mô cho vay hạn chế với khu vực bị ảnh hưởng bởi bão. Điều này khác với dự báo của nhiều tổ chức trước đó khi cho rằng dù dư nợ khu vực bị ảnh hưởng bởi bão Yagi không quá lớn, song các ngân hàng quốc doanh (SOB) và các ngân hàng lớn cũng sẽ vẫn sẽ bị ảnh hưởng ngắn hạn.
Theo VIS Rating, tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân (ROAA) của toàn ngành giảm nhẹ xuống 1,5% trong 9 tháng 2024 so với 1,6% trong 6 tháng 2024, với các ngân hàng nhỏ chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ biên lãi ròng (NIM) thu hẹp và chi phí tín dụng cao hơn.
"Đến cuối năm 2024, chúng tôi kỳ vọng việc cải thiện tăng trưởng cho vay mua nhà lợi tức cao và nợ quá hạn phát sinh mới chậm lại sẽ góp phần ổn định lợi nhuận và chất lượng tài sản cho các ngân hàng.
Phần lớn các ngân hàng ít chịu tổn thất liên quan đến bão nhờ quy mô cho vay hạn chế ở các tỉnh phía Bắc bị ảnh hưởng. Tổng dư nợ tín dụng cho các khách hàng bị ảnh hưởng bởi bão chiếm khoảng 1% tổng dư nợ toàn ngành, chủ yếu thuộc về các SOB có hoạt động tại các tỉnh bị ảnh hưởng. Các biện pháp hỗ trợ của NHNN như tái cơ cấu nợ và cung cấp các khoản vay lãi suất thấp cho các khách hàng vay bị ảnh hưởng sẽ góp phần giảm bớt gánh nặng trả nợ cho khách hàng", chuyên gia đánh giá.
Nhìn chung, theo dữ liệu BCTC, tỷ lệ nợ có vấn đề toàn ngành duy trì ổn định so với quý trước ở mức 2,4%. Các ngân hàng lớn, bao gồm SOB, ghi nhận tốc độ các khoản nợ quá hạn phát sinh mới chậm lại, nhờ sự cải thiện của một khoản nợ xấu lớn (ví dụ: CTG) cũng như siết chặt tiêu chuẩn cấp tín dụng, đặc biệt đối với các khoản vay tiêu dùng mới (ví dụ: VPB). Mặt khác, các khoản nợ quá hạn vẫn tiếp tục tăng tại các ngân hàng tập trung vào khách hàng cá nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) (ví dụ: PGB, SGB, VIB, OCB, LPB).
"Chúng tôi đánh giá khoảng 30% ngân hàng có hồ sơ rủi ro tài sản ở mức yếu, tăng từ mức 22% năm 2023. Trong cả năm 2024, chúng tôi kỳ vọng tỷ lệ nợ xấu toàn ngành sẽ ổn định ở mức 2,3-2,4% khi các ngân hàng hoàn tất việc xóa nợ trong quý 4".
Tăng trưởng lợi nhuận toàn ngành chậm lại do NIM thu hẹp, và các ngân hàng nhỏ chịu thêm ảnh hưởng bởi chi phí tín dụng cao. Phần lớn các ngân hàng ghi nhận ROAA và NIM giảm theo quý (QoQ); các ngân hàng nhỏ chịu mức giảm lợi nhuận đáng kể nhất do chi phí huy động tiền gửi tăng cao trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt. Các ngân hàng này và một số ngân hàng quy mô vừa (ví dụ: VIB, OCB) ghi nhận sự suy giảm chất lượng tài sản và chi phí tín dụng cao. Xu hướng lợi nhuận của các ngân hàng lớn có sự phân hóa; một số ngân hàng (ví dụ: TCB, MBB, ACB) bị ảnh hưởng bởi thu nhập từ dịch vụ bảo hiểm, ngoại hối (FX) và đầu tư chứng khoán giảm, trong khi một số ngân hàng khác hưởng lợi từ nỗ lực giảm rủi ro trước đó đã giảm mạnh chi phí tín dụng (ví dụ: VPB) và tăng lợi nhuận thu hồi nợ (ví dụ: CTG, VCB).
"Chúng tôi kỳ vọng phần lớn trong số 25 ngân hàng trong phân tích của chúng tôi sẽ đạt được mục tiêu lợi nhuận cả năm, đặc biệt là các SOB và các ngân hàng lớn có sự tăng trưởng cho vay doanh nghiệp mạnh mẽ. Với tốc độ tăng trưởng tín dụng tiếp tục được cải thiện, chúng tôi kỳ vọng ROAA toàn ngành sẽ cải thiện lên 1,6% cho cả năm 2024 từ mức 1.5% trong năm trước", VIS Rating phân tích.
Đáng chú ý, các chuyên gia cũng lưu ý bộ đệm rủi ro vẫn ở mức yếu. Tính đến 9 tháng 2024, tỷ lệ vốn chủ sở hữu hữu hình trên tổng tài sản hữu hình (TCE/TA) toàn ngành không thay đổi QoQ, ở mức 8,8% do tăng trưởng lợi nhuận chậm lại.
Được biết, có gần 20% ngân hàng trong đánh giá của VIS Rating có hồ sơ an toàn vốn yếu, bao gồm các ngân hàng nhỏ với lợi nhuận mỏng và một số SOB bị hạn chế trong việc tăng vốn mới. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLCR) toàn ngành tăng nhẹ 1% QoQ, đạt 83% vào cuối 9 tháng 2024, dẫn dắt bởi CTG do tăng mức trích lập dự phòng và giảm nợ có vấn đề. LLCR của MBB giảm xuống mức thấp nhất trong 5 năm, còn 69%, do khoản vay của doanh nghiệp bất động sản lớn trở thành nợ xấu.
Phần lớn các ngân hàng nhỏ và vừa tiếp tục có LLCR dưới mức trung bình của ngành. Một số ngân hàng (ví dụ: CTG, VCB) đang chờ phê duyệt từ cơ quan quản lý để hoàn thành việc chi trả cổ tức bằng cổ phiếu, điều này sẽ giúp các ngân hàng giữ lại vốn.
Việc chất lượng tài sản các ngân hàng suy giảm nhẹ, tuy nhiên, vẫn được kỳ vọng sẽ có sự thay đổi vào kỳ "chốt số" cuối năm, khi đây được xem là thời điểm tăng trưởng tín dụng đột biến, giúp các ngân hàng có cơ sở bù đắp LLCR và gia tăng lợi nhuận.
Hàng chục triệu cổ phiếu MSB, LPB được sang tay thỏa thuận giá cao
Phiên giao dịch sáng ghi nhận hàng chục triệu cổ phiếu
Cụ thể, hơn 6,4 triệu cổ phiếu LPBank được trao tay tại giá 33.000 đồng/cổ phiếu, tổng giá trị 268 tỷ đồng.
Đáng chú ý, gần 25 triệu cổ phiếu MSB được giao dịch thỏa thuận ở mức 12.300 đồng/cổ phiếu, tương ứng hơn 305 tỷ đồng.
Trái ngược với giao dịch thỏa thuận, khối lượng khớp lệnh trên thị trường thấp hơn đáng kể. MSB ghi nhận 1,6 triệu cổ phiếu khớp lệnh, giảm 0,9% về mức 11.600 đồng/cổ phiếu.
Tương tự, LPB giảm 0,6% còn 31.600 đồng/cổ phiếu, thấp hơn 4,2% so với giá giao dịch thỏa thuận, với khối lượng khớp lệnh chỉ 220.000 đơn vị. Xu hướng giảm khối lượng khớp lệnh của LPB kéo dài suốt ba tháng qua.
주식, FX, 상품, 선물, 채권, ETF 또는 암호화폐와 같은 금융 자산 거래의 손실 위험은 상당할 수 있습니다. 중개인에게 자금을 예치할 경우, 이 자금이 전부 손실될 수도 있습니다. 따라서 귀하의 상황과 재정 상황에 비추어 그러한 거래가 귀하에게 적합한지 신중하게 고려해야 합니다.
본인 스스로 나름대로 철저히 조사를 하거나 재무 관련 상담가와 상의하지 않고는 이러한 투자는 고려해서는 안됩니다. 이런 절차 없이 투자할 경우, 귀하의 재정 상태와 투자 요구 사항을 알지 못한 상태에서 하는 투자이기 때문에 당사의 웹 콘텐츠는 귀하에게 적합하지 않을 수 있습니다. 당사의 재무 정보가 최신으로 업데이트 되는 데는 지연이 있을 수 있고, 부정확한 내용이 포함될 수도 있으므로 모든 거래 및 투자 결정에 대한 책임은 투자자 본인의 몫입니다. 회사는 귀하의 자본 손실에 대해 책임을 지지 않습니다.
웹사이트의 허가 없이 웹사이트 그래픽, 텍스트 또는 상표를 복사할 수 없습니다. 이 웹사이트에 포함된 콘텐츠 또는 데이터에 대한 지적 재산권은 해당 공급자 및 거래소 판매자에게 있습니다.