견적
소식
분석
사용자
7x24
경제 일정
NULL_CELL
데이터
- 이름
- 최신 값
- 이전
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
움:--
F: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
움:--
F: --
움:--
F: --
움:--
F: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
움:--
F: --
이: --
움:--
F: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
--
F: --
이: --
일치하는 데이터가 없습니다
최신 의견
최신 의견
트렌드 토픽
금융시장은 안정세를 유지하고 있지만 새로운 주가 시작되면서 초조한 기대감을 보이고 있습니다. 이스라엘과 하마스 사이의 갈등이 계속해서 중심이 되고 있으며, 폭력사태가 더 넓은 지역을 휩쓸 가능성에 대한 우려가 커지고 있습니다.
돈은 세상을 돌아가게 만들고 화폐는 영구적인 상품입니다. 외환시장은 놀라움과 기대로 가득 차 있습니다.
채권 시장은 가장 오래된 금융 시장으로 성숙하고 혁신적이지는 않지만 필수불가결한 반면, 부채는 눈에 띄지 않지만 무시무시한 고대의 공통 소용돌이입니다.
글로벌 금융시장에서 주식시장은 경제 지표의 역할을 하며 항상 투자자들의 관심의 초점이 되어 왔습니다. 그것의 상승과 하락은 여러 나라의 경제에 큰 영향을 미칩니다.
탑 칼럼니스트
안녕하세요! 금융계에 참여할 준비가 되셨나요?
최신 속보와 글로벌 금융 이벤트를 확인하세요.
저는 재무 분석, 특히 거시적 발전과 중장기 추세 판단 측면에서 5년의 경험을 갖고 있습니다. 저는 주로 중동, 신흥 시장, 석탄, 밀 및 기타 농산물의 개발에 중점을 두고 있습니다.
BeingTrader 수석 트레이딩 코치 및 연사, 주로 XAUUSD, EUR/USD, GBP/USD, USD/JPY 및 원유를 거래하는 외환 시장에서 8년 이상의 경험을 갖고 있습니다. 다양한 기회를 탐색하고 시장에서 투자자를 안내하는 것을 목표로 하는 자신감 있는 트레이더이자 분석가입니다. 분석가로서 나는 충분한 데이터와 신호로 트레이더를 지원함으로써 트레이더의 경험을 향상시키려고 합니다.
최근 업데이트
Risk Warning on Trading HK Stocks
Despite Hong Kong's robust legal and regulatory framework, its stock market still faces unique risks and challenges, such as currency fluctuations due to the Hong Kong dollar's peg to the US dollar and the impact of mainland China's policy changes and economic conditions on Hong Kong stocks.
HK Stock Trading Fees and Taxation
Trading costs in the Hong Kong stock market include transaction fees, stamp duty, settlement charges, and currency conversion fees for foreign investors. Additionally, taxes may apply based on local regulations.
HK Non-Essential Consumer Goods Industry
The Hong Kong stock market encompasses non-essential consumption sectors like automotive, education, tourism, catering, and apparel. Of the 643 listed companies, 35% are mainland Chinese, making up 65% of the total market capitalization. Thus, it's heavily influenced by the Chinese economy.
HK Real Estate Industry
In recent years, the real estate and construction sector's share in the Hong Kong stock index has notably decreased. Nevertheless, as of 2022, it retains around 10% market share, covering real estate development, construction engineering, investment, and property management.
Hongkong, China
베트남 호치민
Dubai, UAE
나이지리아 라고스
카이로 이집트
모두 보기
데이터가 없음
MBS: VN-Index dự kiến đạt 1.400 - 1.420 điểm trong năm 2025
MBS kỳ vọng VN-Index sẽ đạt 1.400 – 1.420 trong năm 2025 với kịch bản lợi nhuận doanh nghiệp tăng trưởng 18% và định giá 12,5 - 13 lần P/E. VN-Index hiện đang giao dịch ở mức P/E TTM là 13.5, thấp hơn mức trung bình 3 năm (13.8x) và giảm 20% so với đỉnh 3 năm (16.7x vào Q4/21)...
Theo thống kê của MBS, Viễn thông, Hàng hóa công nghiệp và Công nghệ là các ngành có diển biến tốt nhất trong năm 2024.
Thanh khoản thị trường tăng tốc trong nửa đầu năm 2024, theo đà tăng của chỉ số, nhưng sau đó giảm xuống còn khoảng 15.000 tỷ đồng mỗi phiên giao dịch trong giai đoạn tháng 10 – tháng 12. Tính cho cả năm, giá trị giao dịch trung bình hàng ngày trên HOSE đạt 21.500 tỷ đồng tăng khoảng 23% so với cùng kỳ năm trước.
Việt Nam nằm trong số các thị trường mới nổi ghi nhận dòng vốn đầu tư nước ngoài rút ròng kể từ đầu năm 2024. Nhà đầu tư nước ngoài ghi nhận mức bán ròng kỷ lục hơn 3,3 tỷ USD trên toàn thị trường. Tốc độ rút ròng của khối ngoại tại Việt Nam chỉ thua mỗi Trung Quốc và Thái Lan.
MBS kỳ vọng VN-Index sẽ đạt 1.400 – 1.420 trong năm 2025 với kịch bản lợi nhuận doanh nghiệp tăng trưởng 18% và định giá 12,5 - 13 lần P/E. Tính đến ngày 5 tháng 12, VN-Index đang giao dịch ở mức P/E TTM là 13.5, thấp hơn mức trung bình 3 năm (13.8x) và giảm 20% so với đỉnh 3 năm (16.7x vào Q4/21).
Xét theo nhóm ngành, nhiều nhóm ngành đang có định giá P/E thấp hơn so với trung bình 3 năm gần nhất, mở ra nhiều cơ hội đầu tư tích lũy các cổ phiếu của các doanh nghiệp đầu ngành.
MBS đưa ra 8 chủ đề đầu tư cho năm 2025. Đầu tiên là Bất động sản nhà ở khởi động chu kỳ phát triển mới. Một chu kỳ mới đang bắt đầu dựa trên 3 yếu chính: lãi suất thấp – cải thiện cơ sở hạ tầng – thay đổi khung pháp lý. Ngành bất động sản nhà ở hiện đang giao dịch với mức định giá tương đối thấp so với triển vọng phục hồi tích cực
Tăng tốc giải ngân Đầu tư công: Năm 2025 đánh dấu năm cuối cùng thực hiện kế hoạch đầu tư trung hạn 2021-2025, Chính phủ đã đề ra mục tiêu đầu tư đầy tham vọng là 790.7 nghìn tỷ VND (30,8 tỷ USD). Với dự báo giải ngân đầu tư sẽ đạt khoảng 85% kế hoạch, giá trị sẽ tăng 24 – 31% so với năm 2024. Ngoài nhóm doanh nghiệp xây dựng hạ tầng, thép, đá, sẽ là những nhóm ngành được hưởng lợi.
Những câu chuyện riêng của ngành ngân hàng: MBS tin rằng chính sách tiền tệ nới lỏng toàn cầu và tăng trưởng cầu tiêu dùng nội địa (bao gồm cả sản xuất khối doanh nghiệp trong nước ) sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngành ngân hàng đẩy mạnh tín dụng và tăng chất lượng tài sản.
Hiệu ứng từ các gói kích thích kinh tế của Trung Quốc: Tác động tích cực đến một số hàng hóa cơ bản đại diện cho sự phục hồi kinh tế của Trung Quốc như cao su, hóa chất, đồng, nickel.
Tiêu thụ điện năng tăng lên: Vào năm 2025, nền kinh tế quốc gia dự kiến sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. Theo đó, Bộ Công Thương đã đặt ra một kịch bản cơ sở cho tăng trưởng tiêu thụ điện ở mức cao 11-12%, vượt qua cả kịch bản cao trong PDP8, dự báo 9.8%. Từ năm 2025-2030, tăng trưởng nhu cầu dự kiến duy trì tỷ lệ tăng trưởng hàng năm kép (CAGR) cao khoảng 9.1%.
Chính sách Trump 2.0 vẫn chưa chắc chắn và có thể sẽ ảnh hưởng đến các ngành xuất khẩu của Việt Nam, nhưng bất động sản công nghiệp có khả năng là ngành hưởng lợi lớn nhất dù có nhiều thách thức.
Sự xuất hiện của các ngành công nghiệp mới: Việt Nam có vị thế tốt để nắm bắt cơ hội từ các ngành công nghiệp mới, ví dụ: trung tâm dữ liệu, công nghệ 5G và chất bán dẫn. Ngoài nhóm ngành công nghệ được hưởng lợi trực tiếp, nhu cầu tiêu thụ điện và nhu cầu thuê bất động sản khu công nghiệp sẽ tăng mạnh.
Câu chuyện nâng hạng của thị trường chứng khoán Việt Nam đang dần trở thành hiện thực: Các cổ phiếu vốn hóa lớn và có sẵn room cho nhà đầu tư nước ngoài và các công ty chứng khoán sẽ là các nhóm được hưởng lợi.
Dự báo yếu tố "kìm chân" khiến ngân hàng khó cải thiện NIM năm 2025
Theo NHNN, tổng lượng tiền gửi tính đến 7/12 đạt khoảng 14,8 triệu tỷ đồng, tăng 7,36% so với đầu năm), chậm hơn đáng kể so với mức tăng trưởng tín dụng là 12,5%.
MBS dự báo NIM của các ngân hàng khó có thể tăng đáng kể năm 2025. Bởi trong khi lãi suất huy động khó có thể duy trì ở mức thấp, chịu nhiều áp lực tăng dần, thì các ngân hàng có thể vẫn tiếp tục hạ lãi suất cho vay trong 6-9 tháng tới vì nhiều nguyên do.
Trong báo cáo chiến lược Vững bước tiến tới “kỷ nguyên vươn mình” vừa phát hành, Công ty cổ phần Chứng khoán MB (MBS) dự báo các ngân hàng sẽ tiếp tục hạ lãi suất cho vay trong 6-9 tháng tới để hỗ trợ khách hàng vì nhu cầu tín dụng vẫn chưa phục hồi hoàn toàn.
Việc phục hồi chậm của các khoản vay mua nhà, do nguồn cung bất động sản bị hạn chế, chủ yếu làm chậm lại hoạt động vay bán lẻ vào năm 2024 và xu hướng này có thể kéo dài trong 06 tháng tới, làm giảm thêm lợi suất tài sản của các ngân hàng vào năm 2025.
Hội tụ ba yếu tố, tăng trưởng tín dụng sẽ vượt trội
Tính riêng quý III/2024, biên lãi thuần (NIM) của các ngân hàng niêm yết giảm 4 điểm cơ bản theo quý và giảm 15 điểm cơ bản so với năm 2023, đạt 3,37%. Nhìn chung, hầu hết các ngân hàng đều ghi nhận mức giảm NIM trong 9 tháng năm 2024, trong đó MB và VIB có mức giảm lớn nhất lần lượt là 119 điểm cơ bản và 113 điểm cơ bản so với năm 2023.
Cũng theo MBS, lãi suất huy động duy trì ở mức thấp và nhu cầu tín dụng bán lẻ yếu trong nửa đầu năm khuyến khích các ngân hàng giảm lãi suất cho vay trong quý III/2024.
Hơn nữa, Thông tư 06/2023/TT-NHNN yêu cầu các ngân hàng thương mại phải công bố lãi suất cho vay mới, thúc đẩy tính minh bạch. Chính sách này làm tăng cường cạnh tranh giữa các ngân hàng, góp phần làm giảm đáng kể lãi suất cho vay vào quý III/2024.
Ngoài ra, tác động của cơn bão Yagi thúc đẩy các ngân hàng liên tục hạ lãi suất và tung ra các gói vay ưu đãi để hỗ trợ doanh nghiệp và cá nhân trong quý III/2024.
Tính đến 7/12, tín dụng toàn hệ thống tăng trưởng 12,5% so với đầu năm, nhanh hơn so với cùng kỳ năm ngoái và tiến gần mục tiêu 14-15% của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho cả năm. Nhờ tốc độ giải ngân đầu tư công mạnh mẽ và nhu cầu tín dụng cao hơn của quý 4, nhóm nghiên cứu cho rằng mức tăng trưởng 14-15% là khả thi.
Nhìn nhận các yếu tố thúc đẩy hoạt động tín dụng năm 2025, MBS chỉ rõ sự phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam vào năm 2025 được thúc đẩy bởi sự phục hồi của hoạt động sản xuất và thương mại, nhờ nhu cầu trong và ngoài nước tăng lên. Điều này dựa trên việc NHNN duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng vào năm 2025.
"Thúc đẩy đầu tư công mạnh mẽ hơn trong năm 2025 dự kiến sẽ tạo việc làm và hỗ trợ nhu cầu tín dụng, phù hợp với mục tiêu phục hồi kinh tế và triển khai các dự án cơ sở hạ tầng lớn của Việt Nam trong giai đoạn 2021-2025" - MBS đánh giá.
Trong đó, các ngân hàng có hội tụ đủ ba điều kiện sẽ có mức tăng trưởng tín dụng cao hơn vào năm 2025. Một là, những nhà băng sử dụng hiệu quả và tối đa hạn mức tín dụng trong năm 2024 sẽ có lợi thế cạnh tranh trong việc đảm bảo hạn mức tín dụng tương đương cho năm tài chính 2025.
Hai là, tăng trưởng chi phí dự phòng và cải thiện chất lượng tài sản. Việc tăng cường chi phí trích lập dự phòng trong năm 2024, cùng với chất lượng tài sản cải thiện sẽ giảm bớt áp lực gia tăng của NPL (nợ xấu) trong năm 2025 khi tăng trưởng tín dụng bán lẻ phục hồi.
Ba là, sự phục hồi mạnh mẽ của NIM trong năm 2024 sẽ cho phép các ngân hàng có thêm dư địa giảm lãi suất cho vay, mang lại lợi thế quan trọng trong việc mở rộng tín dụng vào năm 2025.
Tăng trưởng huy động thua xa tín dụng kích hoạt cuộc đua lãi suất
Còn về tăng trưởng huy động, theo MBS, tính đến hết tháng 9 năm 2024, tổng cung tiền (M2) đạt 16,949 nghìn tỷ đồng, tăng 5.94% so với đầu năm. Tiền gửi cá nhân tăng mạnh hơn ở mức 6,5%, cao hơn tiền gửi doanh nghiệp (tăng 3,4% so với đầu năm).
Đáng chú ý, M2 trong tháng 9 năm 2024 ghi nhận mức tăng trưởng 1,75% so với tháng trước, được thúc đẩy bởi chính sách tiền tệ linh hoạt của NHNN và việc các ngân hàng vừa và nhỏ tăng lãi suất huy động kể từ tháng 4 năm 2024 để cải thiện tăng trưởng tiền gửi.
Tổng số dư tiền gửi của các ngân hàng niêm yết tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, LPBank, MSB và Sacombank dẫn đầu tăng trưởng huy động trong số các ngân hàng, đạt mức ấn tượng lần lượt là 14,3%; 12,2% và 11%.
Theo ghi nhận, lãi suất tiền gửi bắt đầu tăng trở lại vào tháng 4 do việc rút dần tiền gửi của công chúng khỏi hệ thống ngân hàng khiến huy động khó khăn.
Xu hướng tăng trở nên rõ rệt hơn từ tháng 6, khi tăng trưởng tín dụng tăng tốc từ 3,4% vào cuối tháng 5 lên 6,1% vào cuối tháng 6. Tăng trưởng tín dụng vượt xa tăng trưởng huy động từ 2-3 lần thúc đẩy cuộc cạnh tranh tăng lãi suất tiền gửi, với một số ngân hàng vượt quá 6%/năm tại một số thời điểm.
Tính đến cuối tháng 11, lãi suất tiền gửi bình quân kỳ hạn 12 tháng của các ngân hàng thương mại ở mức 5%, tăng 14 điểm cơ bản so với đầu năm. Trong khi đó, lãi suất tại các ngân hàng thương mại nhà nước vẫn ở mức 4,7%, thấp hơn 26 điểm cơ bản so với đầu năm.
Dự báo về mặt bằng lãi suất tiền gửi, MBS cho rằng lãi suất huy động sẽ tăng thêm 20 điểm cơ bản vào cuối năm, dao động trong khoảng 5,1-5,2% do tăng trưởng tín dụng đang tăng nhanh gần gấp đôi so với huy động vốn.
Nhiều nhóm cổ phiếu đang có định giá thấp hơn trung bình 3 năm
Trong báo cáo mới đây, MBS cho rằng kinh tế vĩ mô vững chắc, chính sách hỗ trợ tích cực, các nút thắt pháp lý được tháo gỡ, môi trường lãi suất thuận lợi kết hợp với yếu tăng trưởng lợi nhuận hoạt động kinh doanh sẽ là nền tảng vững chắc một chu kỳ tăng trưởng toàn diện của TTCK trong năm tới.
MBS ước tính tăng trưởng lợi nhuận của các DN niêm yết đạt 18% - 19% giai đoạn 2025 - 26 đóng góp bởi sự ổn định của ngành ngân hàng, bán lẻ, cũng như từ phục hồi từ đáy của ngành bất động sản, xây dựng. Bên cạnh đó, Việt Nam đang tiến gần hơn đến cơ hội được tham gia vào nhóm các TTCK mới nổi. Kỳ vọng chu kỳ nới lỏng của Mỹ sẽ kích hoạt dòng vốn đầu tư nước ngoài quay trở lại các TTCK mới nổi, trong đó có Việt Nam.
Về định giá, VN-Index đang giao dịch ở mức P/E TTM là 13,5, thấp hơn mức trung bình 3 năm (13,8x) và giảm 20% so với đỉnh 3 năm (16,7x vào Q4/21). Sự phục hồi gần đây của các cổ phiếu vốn hóa vừa và nhỏ đã đưa định giá của VNMID lên mức 17,3x P/E 12 tháng, cao hơn khoảng 17% so với VN-Index.
Thậm chí, các cổ phiếu vốn hóa vừa hiện tại được giao dịch với mức P/B tương đương với các cổ phiếu vốn hóa lớn. Trong khi đó, định giá của các cổ phiếu vốn hóa lớn (đại diện bởi VN30 và VNX50) thấp hơn khoảng 11% so với mức trung bình của thị trường. Đội ngũ phân tích tin rằng định giá cổ phiếu vốn hóa lớn vẫn hấp dẫn hơn khi xét về tiềm năng tăng trưởng lợi nhuận kinh doanh giai đoạn 2025-2026 so với các nhóm cổ phiếu khác.
Xét theo nhóm ngành, nhiều nhóm ngành đang có định giá P/E thấp hơn so với trung bình 3 năm gần nhất, mở ra nhiều cơ hội đầu tư tích lũy các cổ phiếu của các doanh nghiệp đầu ngành. Trong kịch bản cơ sở, với mức tăng trưởng 18% lợi nhuận của các DN niêm yết, và định giá 12,5 – 13 lần P/E MBS kỳ vọng VN-Index sẽ đạt 1.400 – 1.420 trong năm 2025.
VN-Index được dự báo đạt 1.420 điểm năm 2025, cổ phiếu vốn hóa lớn hấp dẫn nhất
Rủi ro cho thị trường là chính sách điều hành khó dự đoán của thời kỳ Trump 2.0 có thể tác động đến triển vọng kinh tế thế giới và Việt Nam
Trong kịch bản cơ sở, với mức tăng trưởng 18% lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết, và định giá 12.5 – 13 lần P/E, kỳ vọng VN-Index sẽ đạt 1.400 – 1.420 trong năm 2025.
Thị trường chứng khoán Việt Nam có khởi đầu thuận lợi trong nửa đầu 2024, nhưng sau đó các lo ngại về tỷ giá và hoạt động bán ròng của nhà đầu tư nước ngoài đã kéo chỉ số chững lại trong nửa cuối năm 2024. Do đó, mức tăng trưởng của VN-Index thấp hơn đà tăng của thị trường chứng khoán toàn cầu nhưng vẫn cao thị trường khu vực ASEAN.
Theo thống kê của MBS, Mid-cap và small-cap tăng lần lượt là 9,8% và 4,1% kể từ đầu năm, thấp hơn so với VN-Index. Dòng tiền đổ vào các cổ phiếu blue-chip đẩy chỉ số VN30 tăng 18, 2%.
Thanh khoản thị trường tăng tốc trong nửa đầu năm 2024, theo đà tăng của chỉ số, nhưng sau đó giảm xuống còn khoảng 15.000 tỷ đồng mỗi phiên giao dịch trong giai đoạn tháng 10 – tháng 12. Tính cho cả năm, giá trị giao dịch trung bình hàng ngày trên HOSE đạt 21.500 tỷ đồng tăng khoảng 23% so với cùng kỳ năm trước.
Năm 2024, MBS dự báo lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết toàn thị trường tăng 18% so với cùng kỳ từ nền thấp của năm 2023. Động lực chính cho sự cải thiện lợi nhuận toàn thị trường đến từ các nhóm ngành như ngân hàng tăng 15%, bán lẻ tăng 230%, vật liệu xây dựng tăng 81% và xuất khẩu tăng 40%.
Trong thời gian tới, nền tảng vĩ mô vững chắc, thể chế cải cách và chính sách tiền tệ thuận lợi sẽ lan tỏa đến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp nghiệp. Lợi nhuận thị trường năm 2025 - 2026 dự báo tăng trưởng lần lượt 18% và 19%, trong đó các ngành ngân hàng +20%/ +24%; vật liệu xây dựng +35%/31%; bất động sản nhà ở +14%/+6%; bán lẻ (27%/26%) và bất động sản công nghiệp 6%/17%.
Trong khi lợi nhuận năm 2024 chủ yếu được thúc đẩy bởi tăng trưởng doanh thu so với nền thấp của năm 2023, việc cải thiện biên lợi nhuận gộp sẽ là yếu tố then chốt cho tăng trưởng năm 2025. Giữa bối cảnh lãi suất giảm, chi phí đầu vào thấp (giá dầu Brent, hàng hóa,...), và mức tăng lương vừa phải, biên lợi nhuận gộp của nhiều ngành sẽ có sự cải thiện đáng kể.
Tính đến ngày 5 tháng 12, VN-Index đang giao dịch ở mức P/E TTM là 13.5, thấp hơn mức trung bình 3 năm (13.8x) và giảm 20% so với đỉnh 3 năm (16.7x vào Q4/21). Trong kịch bản cơ sở, với mức tăng trưởng 18% lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết, và định giá 12.5 – 13 lần P/E, MBS kỳ vọng VN-Index sẽ đạt 1.400 – 1.420 trong năm 2025.
Các yếu tố hỗ trợ cho thị trường gồm: Năm 2025 sẽ đánh dấu sự chuyển mình của nền kinh tế với mục tiêu phát triển đột phá 7 – 8% trong thập kỷ tới; Lợi nhuận thị trường năm 2025 - 2026 dự báo sẽ tăng trưởng lần lượt 18% và 19%, hỗ trợ cho đà tăng của chỉ số; Việt Nam đang tiến gần hơn đến cơ hội được tham gia vào nhóm các thị trường chứng khoán mới nổi; Kỳ vọng chu kỳ nới lỏng của Mỹ sẽ kích hoạt dòng vốn đầu tư nước ngoài quay trở lại các thị trường mới nổi, trong đó có Việt Nam.
Rủi ro cho thị trường là chính sách điều hành khó dự đoán của thời kỳ Trump 2.0 có thể tác động đến triển vọng kinh tế thế giới và Việt Nam, có thể làm chậm lại quá trình cắt giảm lãi suất của FED; Áp lực tỷ giá trong bối cảnh đồng VND yếu; Thị trường bất động sản nhà ở có thể phục hồi chậm hơn dự kiến, tạo gánh nặng lên tài sản đảm bảo của hệ thống ngân hàng.
Sự phục hồi gần đây của các cổ phiếu vốn hóa vừa và nhỏ đã đưa định giá của VNMID lên mức 17.3x P/E 12 tháng, cao hơn khoảng 17% so với VN-Index. Thậm chí, các cổ phiếu vốn hóa vừa hiện tại được giao dịch với mức P/B tương đương với các cổ phiếu vốn hóa lớn. Trong khi đó, định giá của các cổ phiếu vốn hóa lớn đại diện bởi VN30 và VNX50 thấp hơn khoảng 11% so với mức trung bình của thị trường.
MBS tin rằng định giá cổ phiếu vốn hóa lớn vẫn hấp dẫn hơn khi xét về tiềm năng tăng trưởng lợi nhuận kinh doanh giai đoạn 2025-2026 so với các nhóm cổ phiếu khác. Xét theo nhóm ngành, nhiều nhóm ngành đang có định giá P/E thấp hơn so với trung bình 3 năm gần nhất, mở ra nhiều cơ hội đầu tư tích lũy các cổ phiếu của các doanh nghiệp đầu ngành.
Thị trường giảm mạnh | Dấu hiệu đảo chiều vĩ mô ?
Đánh giá thị trường qua 4 biến số quan trọng nhất: vĩ mô nền kinh tế - yếu tố dòng tiền - vĩ mô ngành nghề - nội tại cổ phiếu
Nội dung chính
✔️ Cuộc họp lãi suất của FED
✔️ Tỷ giá leo cao
Tôi sẽ liên tục cập nhật xu hướng Vnindex trong thời gian tới để đưa ra chiến lược đầu tư phù hợp cho anh chị và các bạn
Thêm vào đấy, sẽ có những phần phân tích chuyên sâu ngành nghề và doanh nghiệp
Khuyến nghị mua bán, quản trị danh mục đầu tư
Cảm ơn anh chị Nhà đầu tư đã theo dõi
Tác giả: Phan Thu Hằng
ID VPS: 8506
Liên hệ: 096 808 6598
👇👇 THEO DÕI TẠI ĐÂY
Thị trường ảm đạm | Dòng tiền đang vào nhóm cổ phiếu này
Đánh giá thị trường qua 4 biến số quan trọng nhất: vĩ mô nền kinh tế - yếu tố dòng tiền - vĩ mô ngành nghề - nội tại cổ phiếu
✔️ Sức mạnh của cổ phiếu ngách
✔️ DGC - Cổ phiếu hóa phượng hoàng
Tôi sẽ liên tục cập nhật xu hướng Vnindex trong thời gian tới để đưa ra chiến lược đầu tư phù hợp cho anh chị và các bạn
Thêm vào đấy, sẽ có những phần phân tích chuyên sâu ngành nghề và doanh nghiệp
Khuyến nghị mua bán, quản trị danh mục đầu tư
Cảm ơn anh chị Nhà đầu tư đã theo dõi
Tác giả: Phan Thu Hằng
ID VPS: 8506
Liên hệ: 096 808 6598
👇👇 THEO DÕI TẠI ĐÂY
Ngày 10/12/2024, Ngân hàng TMCP Quân đội (MB, HOSE: MBB) chính thức bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng thành viên (HĐTV), Tổng Giám đốc cùng các nhân sự cấp cao HĐTV và Ban Kiểm soát OceanBank.
Đồng thời, từ ngày 18/12/2024, OceanBank sẽ đổi tên thành Ngân hàng thương mại TNHH MTV Việt Nam hiện đại (MBV), hướng đến trở thành một ngân hàng hiện đại, an toàn và bền vững.
Ông Vũ Thành Trung (bên trái) - Chủ tịch HĐTV MBV và ông Lê Xuân Vũ (bên phải) - Tổng Giám đốc MBV
Sau 2 tháng MB tiếp nhận MBV, ngày 10/12/2024, MB chính thức bổ nhiệm nhân sự cấp cao Hội đồng thành viên, Ban Kiểm soát, Tổng Giám đốc tại MBV.
Theo đó, ông Vũ Thành Trung - Phó Chủ tịch HĐQT MB sẽ đồng thời giữ chức Chủ tịch HĐTV MBV, ông Lê Xuân Vũ - Thành viên Ban điều hành MB chính thức được bổ nhiệm làm Thành viên HĐTV kiêm Tổng Giám đốc MBV.
Ông Vũ Thành Trung có trình độ thạc sỹ, chuyên ngành quản trị kinh doanh với 14 năm công tác tại MB Group. Ông Trung từng là Phó Tổng Giám đốc MBCapital, Phó Giám đốc Khối Đầu tư và Chánh Văn phòng CEO. Năm 2017, ông là Giám đốc Khối Ngân hàng số, từ tháng 1/2019 đồng thời là Phó Chủ tịch HĐQT Công ty MBS. Từ tháng 8/2020, ông Trung được bổ nhiệm Thành viên Ban điều hành MB.
Ông Trung có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực đầu tư, bán lẻ và được ĐHĐCĐ MB bầu làm Thành viên HĐQT MB nhiệm kỳ 2024-2029, ông Trung đã được HĐQT bầu vị trí Phó Chủ tịch HĐQT MB.
Ông Lê Xuân Vũ có trình độ thạc sỹ, chuyên ngành quản trị kinh doanh. Ông có gần 30 năm kinh nghiệm trong ngành tài chính - ngân hàng và nhiều năm đảm nhiệm các vị trí quản lý cấp cao tại các tổ chức tín dụng uy tín, đặc biệt trong lĩnh vực hiện đại hóa ngân hàng và áp dụng các chuẩn mực quốc tế về công tác quản trị các hoạt động tài chính - ngân hàng.
Năm 2017, ông Vũ chính thức gia nhập MB với vị trí là Thành viên Ban điều hành phụ trách khối Khách hàng cá nhân, khối Vận hành và nhiều hoạt động quan trọng khác của MB. Sau thời gian giữ chức vụ Thành viên Ban triển khai Đề án Nhận chuyển giao bắt buộc OceanBank, Trưởng Ban trù bị Đề án Nhận chuyển giao bắt buộc OceanBank, ngày 10/12/2024, ông được bổ nhiệm vị trí Thành viên HĐTV kiêm Tổng Giám đốc MBV.
Với việc nắm giữ chức vụ mới tại MBV, ông Vũ Thành Trung và ông Lê Xuân Vũ sẽ thôi đảm nhiệm vị trí Thành viên Ban điều hành MB. Sau quyết định này, Ban điều hành MB có tổng cộng 12 thành viên.
Bên cạnh đó, MB cũng bổ nhiệm các Thành viên Hội đồng thành viên MBV bao gồm ông Hà Trọng Khiêm - Phó Tổng Giám đốc MB, ông Trần Hải Hà - Giám đốc Khối CIB MB, ông Lưu Hoài Sơn - Giám đốc Ban Kế hoạch và Marketing MB và ông Ngô Anh Tuấn - là thành viên tham gia HĐTV OceanBank nhiệm kỳ trước.
Ban Kiểm soát MBV cũng được kiện toàn gồm 5 thành viên. Trong đó, bà Hoàng Thị Thu Nguyệt giữ chức vụ Trưởng Ban Kiểm soát. Bà Nguyệt đã gắn bó với MB Group 21 năm, với nhiều năm kinh nghiệm tại mảng đầu tư, và là một trong các nhân sự đầu tiên tham gia Công ty Quản lý Quỹ Đầu tư MB (MBCapital) trong giai đoạn đầu thành lập. Bà Nguyệt từng giữ vị trí Trưởng Ban Kiểm soát Tổng Công ty Bảo hiểm Quân đội (MIC) giai đoạn 2012-2015 và là Phó giám đốc khối Đầu tư MB từ năm 2017.
Các thành viên khác của Ban Kiểm soát MBV gồm có bà Hoàng Thị Mỹ Linh, bà Nguyễn Thị Hải Yến, bà Nguyễn Thị Lan và bà Lê Hải Yến.
Hàn Đông
FILI
주식, FX, 상품, 선물, 채권, ETF 또는 암호화폐와 같은 금융 자산 거래의 손실 위험은 상당할 수 있습니다. 중개인에게 자금을 예치할 경우, 이 자금이 전부 손실될 수도 있습니다. 따라서 귀하의 상황과 재정 상황에 비추어 그러한 거래가 귀하에게 적합한지 신중하게 고려해야 합니다.
본인 스스로 나름대로 철저히 조사를 하거나 재무 관련 상담가와 상의하지 않고는 이러한 투자는 고려해서는 안됩니다. 이런 절차 없이 투자할 경우, 귀하의 재정 상태와 투자 요구 사항을 알지 못한 상태에서 하는 투자이기 때문에 당사의 웹 콘텐츠는 귀하에게 적합하지 않을 수 있습니다. 당사의 재무 정보가 최신으로 업데이트 되는 데는 지연이 있을 수 있고, 부정확한 내용이 포함될 수도 있으므로 모든 거래 및 투자 결정에 대한 책임은 투자자 본인의 몫입니다. 회사는 귀하의 자본 손실에 대해 책임을 지지 않습니다.
웹사이트의 허가 없이 웹사이트 그래픽, 텍스트 또는 상표를 복사할 수 없습니다. 이 웹사이트에 포함된 콘텐츠 또는 데이터에 대한 지적 재산권은 해당 공급자 및 거래소 판매자에게 있습니다.