Teklifler
Haberler
Analiz
Kullanıcı
7/24
Ekonomik Takvim
Eğitim
Veri
- İsimler
- En Yeni
- Önceki
G:--
T: --
Ö: --
G:--
T: --
Ö: --
G:--
T: --
Ö: --
G:--
T: --
Ö: --
G:--
T: --
G:--
T: --
G:--
T: --
Ö: --
G:--
T: --
Ö: --
G:--
T: --
G:--
T: --
G:--
T: --
G:--
T: --
Ö: --
G:--
T: --
Ö: --
G:--
T: --
G:--
T: --
G:--
T: --
Ö: --
G:--
T: --
Ö: --
G:--
T: --
G:--
T: --
Ö: --
G:--
T: --
Ö: --
G:--
T: --
Ö: --
G:--
T: --
Ö: --
G:--
T: --
Ö: --
G:--
T: --
Ö: --
G:--
T: --
Ö: --
G:--
T: --
Ö: --
G:--
T: --
Ö: --
G:--
T: --
Ö: --
G:--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
--
T: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
--
T: --
Ö: --
Eşleşen veri yok
Son Görüntülenenler
Son Görüntülenenler
Çok Konuşulan Konular
Finansal piyasalar istikrarlı seyrediyor ancak yeni hafta başlarken gergin bir beklenti sergiliyor. Şiddetin daha geniş bir bölgeye yayılma potansiyeline ilişkin endişelerin artmasıyla birlikte, İsrail ile Hamas arasındaki çatışmalar ön planda olmaya devam ediyor.
Para dünyanın dönmesini sağlar ve para birimi kalıcı bir metadır. Forex piyasası sürprizler ve beklentilerle doludur.
Tahvil piyasası en eski finansal piyasadır; olgunlaşmıştır, yenilikçi değildir ancak vazgeçilmezdir; borç ise göze çarpmayan ancak zorlu, eski bir ortak girdaptır.
Küresel finans piyasalarında borsa ekonomik bir barometre görevi görmekte ve her zaman yatırımcıların ilgi odağı olmuştur. Yükselişi ve düşüşü çeşitli ülkelerin ekonomisi üzerinde derin bir etkiye sahiptir.
En İyi Köşe Yazarları
Merhaba! Finans dünyasına dahil olmaya hazır mısınız?
En son son dakika haberleri ve küresel finansal olaylar.
Mali analiz, özellikle makro gelişmeler ve orta ve uzun vadeli trend muhakemesi konularında 5 yıllık tecrübem var. Odak noktam ağırlıklı olarak Orta Doğu'daki gelişmeler, gelişen piyasalar, kömür, buğday ve diğer tarım ürünleridir.
BeingTrader baş Ticaret Koçu ve Konuşmacısı, forex piyasasında ağırlıklı olarak XAUUSD, EUR/USD, GBP/USD, USD/JPY ve Ham Petrol ticaretinde 8 yılı aşkın deneyim. Çeşitli fırsatları keşfetmeyi ve piyasadaki yatırımcılara rehberlik etmeyi amaçlayan kendine güvenen bir yatırımcı ve analist. Bir analist olarak yatırımcının deneyimini yeterli veri ve sinyallerle destekleyerek geliştirmek istiyorum.
Son Güncelleme
Risk Warning on Trading HK Stocks
Despite Hong Kong's robust legal and regulatory framework, its stock market still faces unique risks and challenges, such as currency fluctuations due to the Hong Kong dollar's peg to the US dollar and the impact of mainland China's policy changes and economic conditions on Hong Kong stocks.
HK Stock Trading Fees and Taxation
Trading costs in the Hong Kong stock market include transaction fees, stamp duty, settlement charges, and currency conversion fees for foreign investors. Additionally, taxes may apply based on local regulations.
HK Non-Essential Consumer Goods Industry
The Hong Kong stock market encompasses non-essential consumption sectors like automotive, education, tourism, catering, and apparel. Of the 643 listed companies, 35% are mainland Chinese, making up 65% of the total market capitalization. Thus, it's heavily influenced by the Chinese economy.
HK Real Estate Industry
In recent years, the real estate and construction sector's share in the Hong Kong stock index has notably decreased. Nevertheless, as of 2022, it retains around 10% market share, covering real estate development, construction engineering, investment, and property management.
Hongkong, China
Ho Chi Minh, Vietnam
Dubai, Birleşik Arap Emirlikleri
Lagos, Nijerya
Kahire, Mısır
Markalı Ürün
Veri API'si
Web Eklentileri
Ortaklık Programı
Tümünü Görüntüle
Veri yok
Oturum Açılmadı
Daha fazla özelliğe erişmek için oturum açın
FastBull Üyesi
Henüz değil
Satın al
Giriş Yap
Kaydol
Hongkong, China
Ho Chi Minh, Vietnam
Dubai, Birleşik Arap Emirlikleri
Lagos, Nijerya
Kahire, Mısır
Markalı Ürün
Veri API'si
Web Eklentileri
Ortaklık Programı
Giá nhà vẫn đang vượt xa mức tăng trưởng thu nhập của phần lớn người dân
Các chuyên gia cho rằng giá bán căn hộ tại Việt Nam đang tăng nhanh hơn mức tăng trưởng thu nhập, đặc biệt ở các đô thị lớn như Hà Nội và TP.HCM. Dự báo, giá bất động sản sẽ tiếp tục tăng trong năm 2025, với nguồn cung duy trì nhờ các chính sách hỗ trợ và tháo gỡ khó khăn…
Tại tọa đàm “Bất động sản 2025: Đường đến thập kỷ tăng trưởng mới” do Hiệp hội Doanh nghiệp TP.HCM (HUBA) và Trung tâm Sản xuất và Phát triển nội dung số VTV Digital phối hợp tổ chức, các chuyên gia nhận định: “Giá nhà liên tục tăng trong nhiều năm, vượt quá khả năng chi trả của người dân. Giá nhà có thể giảm hay không là câu hỏi khó, thách thức rất lớn của thị trường”.
GIÁ NHÀ CAO HƠN MỨC THU NHẬP TRUNG BÌNH VẪN LÀ THÁCH THỨC LỚN
Theo Chuyên gia kinh tế Đinh Thế Hiển, hiện nay, giá bất động sản đang tăng nhanh khiến cơ hội sở hữu nhà xa tầm với của người dân. Điểm lại giai đoạn 2012-2013, ông Hiển cho biết giá căn hộ trung cấp tại TP.HCM khoảng 22-25 triệu đồng/m2, cao cấp khoảng 30 triệu đồng/m2, còn lương chuyên viên văn phòng khoảng 20 triệu đồng/tháng.
Song, sau hơn thập kỷ, đến nay, giá căn hộ trung cấp đã ở mức 50-65 triệu đồng/m2, nhưng lương chuyên viên văn phòng chỉ ở khoảng 25 triệu đồng/m2. “Tiền lương không theo kịp đà tăng giá bất động sản. Mức giá hiện tại vẫn cao hơn khả năng chi trả của phần lớn người dân, đặc biệt là tại các đô thị lớn như TP.HCM và Hà Nội”, ông Hiển nhận định.
Cũng theo ông Hiển, mặc dù nền kinh tế phục hồi với các ngành sản xuất và kinh doanh tăng trưởng tốt, dòng tiền vào bất động sản vẫn đối mặt với thách thức lớn. Hiện nay, các ngân hàng không dám giải ngân vốn mới cho doanh nghiệp bất động sản do rủi ro cao, trong khi các công ty lại thiếu vốn nghiêm trọng. Nhiều công ty trên sàn chứng khoán ghi nhận dòng tiền âm, gây áp lực lớn lên toàn bộ thị trường.
Nói về câu chuyện giá bất động sản có thể giảm hay không để người dân dễ tiếp cận nhà ở, bà Dương Thùy Dung, Giám đốc cấp cao CBRE Việt Nam, cho rằng chưa có lý do gì để các chủ đầu tư giảm giá bán. “Đây là câu hỏi khó, là thách thức rất lớn của thị trường. Bởi nhìn vào nguồn cung hiện tại, 80% là căn hộ cao cấp, hạng sang và giá sẽ tăng đều 8-10%/năm”, bà Dung nói.
Các chuyên gia thảo luận về thị trường bất động sản tại tọa đàm.
Mặt khác, ông Nguyễn Đức Lệnh, Phó Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh TP.HCM, cho biết: “Trong điều kiện thị trường vốn chưa phát triển mạnh, nhu cầu vốn cho phát triển các ngành kinh tế nói chung và lĩnh vực bất động sản nói riêng vẫn còn phụ thuộc rất lớn vào vốn tín dụng ngân hàng”.
Nhìn lại 10 năm trở lại đây, mặc dù vốn tín dụng luôn được định hướng để tập trung và đáp ứng nhu cầu cho phát triển sản xuất kinh doanh, thương mại dịch vụ với các chính sách tín dụng ưu đãi cho các nhóm ngành là động lực tăng trưởng kinh tế như: lĩnh vực xuất khẩu; nông nghiệp và nông thôn; doanh nghiệp nhỏ và vừa; công nghiệp hỗ trợ và doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Song, điểm sáng là dư nợ cho vay bất động sản vẫn tăng trưởng đều trong 10 năm qua. Đến cuối tháng 10/2024, tổng dư nợ tín dụng bất động sản đạt 1.047 nghìn tỷ đồng, tăng 8,5% so với cuối năm trước và chiếm 27,6% trong tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn thành phố.
GIÁ BẤT ĐỘNG SẢN NĂM 2025 VẪN SẼ TĂNG
Các chuyên gia dự báo giá bán bất động sản sẽ tiếp tục tăng nhẹ trong năm 2025, với nguồn cung duy trì đà tăng nhờ các chính sách hỗ trợ và tháo gỡ khó khăn.
Để giá bất động sản giảm, bà Dương Thùy Dung khuyến nghị cần đẩy mạnh giãn dân, mở rộng vùng đô thị. Tại TP.HCM, nhà đầu tư có thể nhìn thấy nhiều khu vực trung tâm có giá 150-200 triệu đồng/m2 căn hộ, nhưng khu vực vùng ven chỉ 40-50 triệu đồng/m2. Do đó, nếu người dân có thể đi xa hơn thì giá sẽ giảm, nhưng đó là câu chuyện của 5-10 năm nữa.
Mặt khác, về nguồn cung của thị trường, theo số liệu của CBRE Việt Nam, giai đoạn 2011-2012, nguồn cung căn hộ mới ở cả TP.HCM và Hà Nội giảm, còn khoảng 15.000-17.000 căn, giá bán cũng giảm 7-10%. Thị trường chứng kiến đà giảm sâu về giá bán căn hộ. Đây là thời điểm lãi vay cao 15-17%/năm, chỉ số CPI cũng cao, tăng trưởng GDP trung bình 5,6%/năm.
Sau giai đoạn khó khăn, giai đoạn 2013-2014, thị trường phục hồi trở lại, nguồn cung tăng. Số lượng căn hộ chào bán mới lên 20.000 căn, rồi 30.000-40.000 căn, đỉnh điểm 80.000 căn vào năm 2016. Thời điểm này, chỉ số kinh tế vĩ mô tích cực hỗ trợ thị trường, lãi vay thấp, người mua hưởng lợi vay mua nhà. Giá căn hộ cũng tăng vừa phải, khoảng 3-4%/năm.
Thị trường giai đoạn này cũng đón nhận “cú hích” từ Luật Đất đai 2014 và các hiệp định. Bà Dung cho biết các chuyên gia của CBRE Việt Nam nhìn thấy chu kỳ thị trường sau 10 năm đang có sự lặp lại. Đến năm 2024 chứng kiến sự chuyển mình mạnh mẽ, thị trường đón nhận khoảng 30.000 căn hộ, 80% đến từ Hà Nội.
“Năm 2025, thị trường dự kiến có khoảng 35.000-40.000 căn hộ. Điều này cho thấy có phục hồi nhưng cần thời gian dài để trở về mức cao điểm”, Giám đốc cấp cao CBRE Việt Nam nhận định.
Còn theo ông Nguyễn Đức Lệnh, Phó Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh TP.HCM, trong năm 2025, dòng vốn FDI và thương mại, dịch vụ sẽ tiếp tục là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thị trường bất động sản. Dự báo đến năm 2025, GDP có thể đạt mức tăng trưởng 6,5-7%.
Đánh giá về thực trạng nguồn cung nhà ở TP.HCM, ông Phạm Đăng Hồ, Trưởng phòng Phát triển nhà ở và Thị trường bất động sản, Sở Xây dựng TP.HCM, cho biết thị trường bất động sản năm 2024 có phục hồi nhưng chậm, riêng nguồn cung cũng được cải thiện hơn so với những năm 2022 và 2023. Ba bộ luật quan trọng cùng với các nghị định đã được ban hành mang lại những tác động đồng bộ, hạn chế sự chồng chéo trong quy định pháp luật. Thành phố đã đẩy mạnh giải quyết vướng mắc cho các dự án.
Tuy nhiên, ông Đăng Hồ cũng nhìn nhận rằng các dự án sau khi được gỡ vướng, chấp thuận chủ trương đầu tư, vẫn cần thời gian để hoàn thiện pháp lý, triển khai xây dựng đúng quy trình trước khi đi đến bước mở bán (dự kiến mất từ 1-2 năm).
Ngoài ra, Luật mới cơ bản giải quyết được một số vướng mắc nhưng hiện nay, quy trình duyệt dự án vẫn phải đi qua nhiều bộ luật, ban ngành, dẫn đến kéo dài. Vì vậy, năm 2025, nguồn cung có cải thiện nhưng không nhiều và vẫn cần thêm thời gian để "bùng nổ".
Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư: Tăng trưởng cả năm có thể vượt 7%
Nền kinh tế tiếp tục phục hồi rõ nét, tăng trưởng cả năm 2024 có thể đạt và vượt 7% nhờ lực kéo từ các địa phương là động lực như TP HCM, Hà Nội, Hải Phòng...
Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 sáng 7/12, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết nền kinh tế tiếp tục phục hồi rõ nét, tháng, quý sau tốt hơn tháng, quý trước. Các địa phương là động lực thúc đẩy kinh tế như TP HCM, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Bình Dương, Đồng Nai... dự báo tăng trưởng cao trong quý IV.
"Đây cũng là các địa phương sẽ dẫn dắt tăng trưởng cả nước năm 2024 có thể đạt và vượt 7%", ông Dũng nói.
Theo Bộ trưởng, các tổ chức quốc tế đánh giá cao, liên tục điều chỉnh dự báo tăng trưởng của Việt Nam theo hướng ngày càng tích cực. Chẳng hạn, IMF đánh giá Việt Nam là một trong những nước tăng trưởng cao nhất thế giới.
Cùng đó, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân có xu hướng giảm dần, 11 tháng tăng 3,69% so với cùng kỳ. Hoạt động sản xuất kinh doanh tiếp tục chuyển biến tích cực, lấy lại được đà tăng trưởng như giai đoạn trước dịch.
Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng cho thấy, các động lực tăng trưởng từ phía cầu phục hồi tích cực. Tính chung 11 tháng, tổng vốn FDI đăng ký khoảng 31,4 tỷ USD, vốn FDI thực hiện khoảng 21,7 tỷ USD, tăng 7,1%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 8,8%. Xuất khẩu tiếp tục là điểm sáng, hầu hết các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực tăng trưởng cao. Tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử thuộc nhóm dẫn đầu thế giới.
Cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước đánh giá cao về triển vọng tăng trưởng. Họ cũng cam kết đầu tư và gắn bó lâu dài, điển hình như sự kiện ký kết giữa Chính phủ và Tập đoàn NVIDIA gần đây.
Năm nay, Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế quý IV khoảng 7,5%, cả năm trên 7%. Theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, đây là một trong những việc khó phải thực hiện từ đây đến cuối năm.
Do đó, Thủ tướng yêu cầu các thành viên Chính phủ, trưởng ngành, thủ trưởng phải đổi mới tư duy, hành động với tinh thần "dám nghĩ, dám làm"; "thực hiện phải có hiệu quả"; "bàn làm, không bàn lùi". Các thành viên Chính phủ cũng cần có sáng kiến, đột phá để thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Việc này, theo lãnh đạo Chính phủ, còn giúp giữ nhịp phát triển trong các năm tới, nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng khoảng 8% vào 2025; tạo đà tăng trưởng hai con số trong giai đoạn 2026-2030.
Liên quan tới tăng trưởng kinh tế, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cũng thừa nhận nền kinh tế còn nhiều khó khăn, thách thức, nhất là từ bên ngoài. Khối lượng công việc tháng cuối năm lớn, cần nỗ lực, quyết tâm cao nhất từ các bộ ngành, địa phương để giải quyết.
Để đạt mục tiêu, Bộ Kế hoạch và Đầu tư kiến nghị Chính phủ triển khai kịp thời, hiệu quả các luật, nghị quyết được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 8. Các nguồn lực cần được tập trung ưu tiên cho hoàn thiện thể chế, tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng cho phát triển sản xuất kinh doanh, thu hút đầu tư.
Bên cạnh đó, các bộ ngành cần tiếp tục làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống về đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu; thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới, liên kết vùng, tiêu thụ hàng hoá dịp cuối năm.
Phương Dung
CPI cuối năm có thể giảm nhẹ do sự sụt giảm của giá xăng dầu
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong tháng 10 tăng 0,3% so với tháng trước và tăng 2,89% so với cùng kỳ.
Mức tăng của lạm phát được thúc đẩy chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm tăng cao tại các địa phương bị ảnh hưởng trực tiếp bởi bão. Tuy vậy, áp lực lạm phát phần nào được giảm bớt nhờ giá xăng dầu trong nước giảm trên mức nền cao của năm 2023.
Trung bình trong 10 tháng đầu năm 2024, CPI tăng 3,8% so với cùng kỳ, trong khi lạm phát cơ bản tăng 2,7%. Nhìn chung, lạm phát đang bắt đầu cho thấy những dấu hiệu tích cực, và CPI bình quân vẫn được kiểm soát dưới mức mục tiêu của Chính phủ là 4,5%.
Trong tháng 10, nhóm thực phẩm và dịch vụ ăn uống đóng góp lớn nhất vào sự tăng trưởng của chỉ số CPI, chủ yếu do nhóm lương thực tăng mạnh với mức tăng 8,23% so với cùng kỳ. Ngoài ra, đà tăng của nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng, nhóm thuốc và dịch vụ y tế cũng góp phần vào đà tăng của CPI.
Ở chiều ngược lại, việc giá dầu giảm mạnh trên mức nền cao của năm 2023 khi xung đột địa chính trị tại Trung Đông leo thang, đã khiến chỉ số nhóm giao thông tháng này giảm 3,3% so với cùng kỳ.
Công ty Chứng khoán MB (MBS) dự báo CPI đến cuối năm có thể giảm nhẹ nhờ sự sụt giảm của giá xăng dầu, qua đó kéo CPI bình quân năm 2024 về mức 3,9%, dưới mức mục tiêu của Chính phủ là 4,5%. Mặc dù OPEC+ đã quyết định duy trì cắt giảm sản lượng đến hết tháng 12, đà giảm của giá dầu được dự báo sẽ tiếp tục được duy trì, do nhu cầu tiêu thụ đang hồi phục khá chậm, đặc biệt ở thị trường Trung Quốc.
Tuy vậy, rủi ro tăng giá dầu vẫn còn nếu căng thẳng địa chính trị ở Trung Đông lan rộng hơn nữa. Theo đó, MBS cho rằng giá dầu trong năm 2024 sẽ dao động với biên độ hẹp quanh mức 80 USD/thùng, cao hơn so với giá dầu trung bình nửa cuối năm 2023.
Tuy vậy, áp lực lạm phát vẫn hiện hữu khi giá thép và vật liệu xây dựng nội địa dự kiến sẽ phục hồi lên mức 14 triệu đồng/tấn, tăng 4% so với cùng kỳ trong năm 2024, nhờ đà tăng của giá thép thế giới và nhu cầu ấm lên ở thị trường Việt Nam. Bên cạnh đó, việc xung đột địa chính trị lan rộng có thể gây đứt gãy chuỗi cung ứng và đẩy giá cả hàng hóa tăng cao, theo đó, sẽ gia tăng áp lực lên lạm phát.
Ở góc nhìn khác, Công ty Chứng khoán Vietcombank (VCBS) cho rằng lạm phát hoàn toàn nằm trong mục tiêu Chính phủ đề ra, là cơ sở và dự địa để Ngân hàng Nhà nước tiếp tục sử dụng hài hòa các công cụ trong thời gian tới.
“Trong bối cảnh lạm phát trong khả năng kiểm soát, xu hướng tăng của tỉ giá chững lại, chúng tôi cho rằng áp lực tăng lên mặt bằng lãi suất giảm bớt. Hiện nay, chúng tôi nghiêng về kịch bản lãi suất có thể ổn định, và đi ngang trong thời gian tới”, VCBS nhận định.
Có thể bạn quan tâm
Lạm phát ở Pennsylvania có thể quyết định kết quả bầu cử tổng thống Mỹ 2024 - Nhịp sống kinh tế Việt Nam & Thế giới
Quan điểm của cử tri về lạm phát đặc biệt quan trọng ở Pennsylvania - một tiểu bang mà giới chuyên gia cho là có khả năng phân định thắng thua giữa ông Trump và bà Harris...
Trong cuộc đua vào Nhà Trắng đang diễn ra gay cấn giữa hai ứng cử viên là ông Donald Trump của Đảng Cộng hòa và bà Kamala Harris của Đảng Dân chủ, các vấn đề kinh tế - nhất là lạm phát - thu hút sự quan tâm đặc biệt của cử tri. Quan trọng hơn nữa, cảm nhận của cử tri về lạm phát tại các bang chiến trường còn có thể quyết định kết quả cuối cùng của cuộc bầu cử.
Theo nhà kinh tế trưởng Bernard Yaros của công ty nghiên cứu Oxford Economics, quan điểm của cử tri về lạm phát đặc biệt quan trọng ở Pennsylvania - một tiểu bang mà giới chuyên gia cho là có khả năng phân định thắng thua giữa ông Trump và bà Harris. Người Pennslvania đã trở nên nhạy cảm với lạm phát hơn người dân ở nhiều bang khác: nghiên cứu của ông Yaros phát hiện thấy cứ 1 điểm phần trăm tăng thêm trong tỷ lệ lạm phát trước một cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, lại có hàng chục nghìn cử tri Pennsylvania bỏ phiếu chống lại ứng cử viên của đảng cầm quyền và thay vào đó, lựa chọn ứng cử viên của đảng kia.
MÔ HÌNH CÚ SỐC TEM GIÁ
Điều này có thể xuất phát từ việc thu nhập trung vị hàng năm của hộ gia đình ở Pennsylvania thấp hơn so với ở nhiều bang khác, chỉ đạt khoảng 73.000 USD. Con số toàn quốc là 75.000 USD. Bang này cũng có dân số già hơn, với tuổi bình quân của người dân toàn bang là 41 tuổi, so với mức 39 tuổi của toàn quốc - theo dữ liệu của Cục Thống kê dân số Mỹ.
“Những người có thu nhập thấp hơn phải dành một tỷ trọng lớn hơn trong thu nhập của họ để chi cho các hàng hóa và dịch vụ thiết yếu. Bởi vậy, họ sẽ có phản ứng tiêu cực hơn” với các cú sốc lạm phát - ông Yaros nhận định. Pennsylvania “cũng có dân số già hơn nên những người sống bằng thu nhập cố định thường có cảm nhận rõ ràng hơn về những tác động bất lợi của lạm phát cao”.
Theo thăm dò dư luận của CBS, việc cử tri Pennsylvania chọn ông Trump hay bà Harris đến thời điểm này vẫn còn là một điều rất khó đoán. Bởi vậy, con đường đi tới chiến thắng ở bang này sẽ tùy thuộc vào việc cử tri của bang cảm nhận lạm phát như thế nào.
Giá cả nói chung ở Mỹ đã tăng 22% trong thời gian từ tháng 1/2020 đến tháng 9 năm nay, khiến người tiêu dùng phải chi nhiều tiền hơn cho tất cả mọi thứ, từ thực phẩm tới bảo hiểm xe cộ. Nhưng tốc độ lạm phát ở nước này hàng năm ở nước này hiện đã giảm còn 2,4%, tiến gần tới mục tiêu 2% của Fed.
Với những xu hướng lạm phát như vậy, câu hỏi mấu chốt có thể làm dịch chuyển cán cân bầu cử ở Pennsylvania cũng như ở các bang chiến trường khác là liệu cử tri sẽ tập trung vào sự tăng giá tích lũy kể từ năm 2020 - một con số cho thấy hậu quả tồi tệ của những năm lạm phát cao, hay thay vào đó ăn mừng việc lạm phát đã giảm mạnh trong một năm qua, theo ông Yaros.
Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Mỹ qua các năm - Nguồn: Bộ Lao động Mỹ/CBS.
Nếu cử tri chú ý tới việc giá cả nhiều hàng hóa và dịch vụ còn cao hơn nhiều so với trước đại dịch - điều mà ông Yaros gọi là “mô hình cú sốc tem giá” - ông Trump được dự báo sẽ thắng ở Pennsylvania với chênh lệch hơn 90.000 phiếu. Cũng theo phân tích của ông Yaros, nếu cử tri quan tâm hơn tới sự xuống thang gần đây của lạm phát, bà Harris được dự báo sẽ thắng với chênh lệch 70.000 phiếu.
Từ năm 2020, một số bang chiến trường đã chứng kiến tỷ lệ lạm phát cao hơn so với các bang khác, nhất là những bang ở các bang vùng Vành đai Mặt trời (Sun Belt) như Arizona. Lạm phát ở hững bang đó hiện đang có xu hướng giảm nhanh, nhưng giá cả ở các bang vùng Trung Đại Tây Dương (Middle Atlantic), bao gồm các bang như Pennsylvania, New Jersey và New York - vẫn tăng 3,4% trong tháng 10 - cao hơn tròn 1 điểm phần trăm so với tỷ lệ lạm phát toàn quốc, theo số liệu thống kê chính thức.
Mô hình của ông Yaros cho thấy cử tri ở các bang chiến trường khác như Arizona, Georgia và Wisconsin - những bang mà ông Biden đã giành chiến thắng vào năm 2020 - cũng có thể ủng hộ ông Trump trong cuộc bầu cử năm nay nếu cử tri ở đó nhìn nhận lạm phát thông qua “mô hình cú sốc tem giá”. Thông thường, người Mỹ lo về lạm phát cao nhiều hơn là các cú sốc kinh tế khác như tỷ lệ thất nghiệp tăng - theo ông Yaros.
“Thất nghiệp chỉ ảnh hưởng đến một bộ phận trong nền kinh tế, nhưng lạm phát cao ảnh hưởng đến tất cả mọi người”, ông nói. Tuy nhiên, ông thừa nhận rằng rất khó để đoán xem cử tri ở các bang chiến trường như Pennsylvania sẽ nhìn nhận lạm phát ở góc độ nào.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), một thước đo lạm phát quan trọng, cho thấy tốc độ tăng giá hàng hóa và dịch vụ đã chậm lại. Nhưng nhiều người Mỹ có khuynh hướng gắn lạm phát với mức giá thực tế mà họ phải trả khi đi mua hàng, thay vì con số CPI là bao nhiêu.
MÔ HÌNH CHỈ SỐ KHỔ SỞ
Nói cách khác, dù tốc độ lạm phát giảm nhưng giá hàng hóa còn cao sau mấy năm lạm phát cao có thể khiến người Mỹ tiếp tục cảm nhận rõ áp lực của lạm phát đối với túi tiền của họ. Chưa kể, giá cả sẽ còn cao trừ phi xảy ra một thời kỳ giảm phát, mà giảm phát thường chỉ xuất hiện khi kinh tế suy thoái hoặc sụt tốc mạnh. Đó là lý do vì sao cứ 4 người ở Mỹ được tổ chức YouGov khảo sát vào tháng 8 lại có 1 người tin rằng tốc độ lạm phát đang là hơn 10%, cao gấp hơn 4 lần so với mức lạm phát thực tế.
“Người dân không phải là các chuyên gia kinh tế. Khi họ nghĩ về lạm phát, họ nghĩ về mức giá. Chẳng hạn, 1 gallon sữa bây giờ có giá 3 USD thay vì 2 USD như trước đây, và họ nghĩ đó là lạm phát”, ông nói.
Theo nhà kinh tế học này, những cử tri quan tâm nhiều hơn đến sự xuống thang của tốc độ lạm phát có thể sẽ nghiêng về ủng hộ bà Harris. Đây là mô hình mà ông Yaros gọi là “mô hình chỉ số khốn khổ”. Đó là một chỉ số không chính thức, được tính bằng tổng giữa tỷ lệ thất nghiệp toàn quốc và tỷ lệ thất nghiệp hàng năm ở Mỹ. Hiện tại chỉ số khốn khổ đang ở mức 6,5%, thấp hơn nhiều mức bình quân 9,1% từ năm 1947 đến nay.
Chỉ số khốn khổ của Mỹ qua các năm - Nguồn: CBS.
Lịch sử cho thấy chỉ số khổ sở ở Mỹ đã dự báo chính xác về kết quả các cuộc bầu cử tổng thống của nước này: khi chỉ số càng cao thì khả năng thất cử của ứng cử viên đảng cầm quyền càng lớn. Chẳng hạn, chỉ số khổ sở lên tới 15% vào năm 2020, cho thấy bất lợi của ông Trump trong cuộc đua vào Nhà Trắng năm đó.
Tuy nhiên, có nhiều vấn đề khác có thể ảnh hưởng tới quyết định của cử tri trong cuộc bầu cử năm nay, từ nhập cư tớ quyền nạo phá thai. Và dù bi quan về triển vọng nền kinh tế Mỹ, người Mỹ vẫn tiếp tục chi tiêu.
“Chúng ta đang chứng kiến một sự gián đoạn kết nối giữa các chỉ số đo lường tâm lý người tiêu dùng và chi tiêu thực tế của người tiêu dùng. Bởi vậy, mọi người có thể nói một đằng nhưng làm một nẻo. Tôi không cho là ai có để đoán chắc kết quả bầu cử như thế nào”, ông Yaros nhận xét.
Lạm phát ở Pennsylvania có thể quyết định kết quả bầu cử tổng thống Mỹ 2024
Quan điểm của cử tri về lạm phát đặc biệt quan trọng ở Pennsylvania - một tiểu bang mà giới chuyên gia cho là có khả năng phân định thắng thua giữa ông Trump và bà Harris...
Trong cuộc đua vào Nhà Trắng đang diễn ra gay cấn giữa hai ứng cử viên là ông Donald Trump của Đảng Cộng hòa và bà Kamala Harris của Đảng Dân chủ, các vấn đề kinh tế - nhất là lạm phát - thu hút sự quan tâm đặc biệt của cử tri. Quan trọng hơn nữa, cảm nhận của cử tri về lạm phát tại các bang chiến trường còn có thể quyết định kết quả cuối cùng của cuộc bầu cử.
Theo nhà kinh tế trưởng Bernard Yaros của công ty nghiên cứu Oxford Economics, quan điểm của cử tri về lạm phát đặc biệt quan trọng ở Pennsylvania - một tiểu bang mà giới chuyên gia cho là có khả năng phân định thắng thua giữa ông Trump và bà Harris. Người Pennslvania đã trở nên nhạy cảm với lạm phát hơn người dân ở nhiều bang khác: nghiên cứu của ông Yaros phát hiện thấy cứ 1 điểm phần trăm tăng thêm trong tỷ lệ lạm phát trước một cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, lại có hàng chục nghìn cử tri Pennsylvania bỏ phiếu chống lại ứng cử viên của đảng cầm quyền và thay vào đó, lựa chọn ứng cử viên của đảng kia.
MÔ HÌNH CÚ SỐC TEM GIÁ
Điều này có thể xuất phát từ việc thu nhập trung vị hàng năm của hộ gia đình ở Pennsylvania thấp hơn so với ở nhiều bang khác, chỉ đạt khoảng 73.000 USD. Con số toàn quốc là 75.000 USD. Bang này cũng có dân số già hơn, với tuổi bình quân của người dân toàn bang là 41 tuổi, so với mức 39 tuổi của toàn quốc - theo dữ liệu của Cục Thống kê dân số Mỹ.
“Những người có thu nhập thấp hơn phải dành một tỷ trọng lớn hơn trong thu nhập của họ để chi cho các hàng hóa và dịch vụ thiết yếu. Bởi vậy, họ sẽ có phản ứng tiêu cực hơn” với các cú sốc lạm phát - ông Yaros nhận định. Pennsylvania “cũng có dân số già hơn nên những người sống bằng thu nhập cố định thường có cảm nhận rõ ràng hơn về những tác động bất lợi của lạm phát cao”.
Theo thăm dò dư luận của CBS, việc cử tri Pennsylvania chọn ông Trump hay bà Harris đến thời điểm này vẫn còn là một điều rất khó đoán. Bởi vậy, con đường đi tới chiến thắng ở bang này sẽ tùy thuộc vào việc cử tri của bang cảm nhận lạm phát như thế nào.
Giá cả nói chung ở Mỹ đã tăng 22% trong thời gian từ tháng 1/2020 đến tháng 9 năm nay, khiến người tiêu dùng phải chi nhiều tiền hơn cho tất cả mọi thứ, từ thực phẩm tới bảo hiểm xe cộ. Nhưng tốc độ lạm phát ở nước này hàng năm ở nước này hiện đã giảm còn 2,4%, tiến gần tới mục tiêu 2% của Fed.
Với những xu hướng lạm phát như vậy, câu hỏi mấu chốt có thể làm dịch chuyển cán cân bầu cử ở Pennsylvania cũng như ở các bang chiến trường khác là liệu cử tri sẽ tập trung vào sự tăng giá tích lũy kể từ năm 2020 - một con số cho thấy hậu quả tồi tệ của những năm lạm phát cao, hay thay vào đó ăn mừng việc lạm phát đã giảm mạnh trong một năm qua, theo ông Yaros.
Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Mỹ qua các năm - Nguồn: Bộ Lao động Mỹ/CBS.
Nếu cử tri chú ý tới việc giá cả nhiều hàng hóa và dịch vụ còn cao hơn nhiều so với trước đại dịch - điều mà ông Yaros gọi là “mô hình cú sốc tem giá” - ông Trump được dự báo sẽ thắng ở Pennsylvania với chênh lệch hơn 90.000 phiếu. Cũng theo phân tích của ông Yaros, nếu cử tri quan tâm hơn tới sự xuống thang gần đây của lạm phát, bà Harris được dự báo sẽ thắng với chênh lệch 70.000 phiếu.
Từ năm 2020, một số bang chiến trường đã chứng kiến tỷ lệ lạm phát cao hơn so với các bang khác, nhất là những bang ở các bang vùng Vành đai Mặt trời (Sun Belt) như Arizona. Lạm phát ở hững bang đó hiện đang có xu hướng giảm nhanh, nhưng giá cả ở các bang vùng Trung Đại Tây Dương (Middle Atlantic), bao gồm các bang như Pennsylvania, New Jersey và New York - vẫn tăng 3,4% trong tháng 10 - cao hơn tròn 1 điểm phần trăm so với tỷ lệ lạm phát toàn quốc, theo số liệu thống kê chính thức.
Mô hình của ông Yaros cho thấy cử tri ở các bang chiến trường khác như Arizona, Georgia và Wisconsin - những bang mà ông Biden đã giành chiến thắng vào năm 2020 - cũng có thể ủng hộ ông Trump trong cuộc bầu cử năm nay nếu cử tri ở đó nhìn nhận lạm phát thông qua “mô hình cú sốc tem giá”. Thông thường, người Mỹ lo về lạm phát cao nhiều hơn là các cú sốc kinh tế khác như tỷ lệ thất nghiệp tăng - theo ông Yaros.
“Thất nghiệp chỉ ảnh hưởng đến một bộ phận trong nền kinh tế, nhưng lạm phát cao ảnh hưởng đến tất cả mọi người”, ông nói. Tuy nhiên, ông thừa nhận rằng rất khó để đoán xem cử tri ở các bang chiến trường như Pennsylvania sẽ nhìn nhận lạm phát ở góc độ nào.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), một thước đo lạm phát quan trọng, cho thấy tốc độ tăng giá hàng hóa và dịch vụ đã chậm lại. Nhưng nhiều người Mỹ có khuynh hướng gắn lạm phát với mức giá thực tế mà họ phải trả khi đi mua hàng, thay vì con số CPI là bao nhiêu.
MÔ HÌNH CHỈ SỐ KHỔ SỞ
Nói cách khác, dù tốc độ lạm phát giảm nhưng giá hàng hóa còn cao sau mấy năm lạm phát cao có thể khiến người Mỹ tiếp tục cảm nhận rõ áp lực của lạm phát đối với túi tiền của họ. Chưa kể, giá cả sẽ còn cao trừ phi xảy ra một thời kỳ giảm phát, mà giảm phát thường chỉ xuất hiện khi kinh tế suy thoái hoặc sụt tốc mạnh. Đó là lý do vì sao cứ 4 người ở Mỹ được tổ chức YouGov khảo sát vào tháng 8 lại có 1 người tin rằng tốc độ lạm phát đang là hơn 10%, cao gấp hơn 4 lần so với mức lạm phát thực tế.
“Người dân không phải là các chuyên gia kinh tế. Khi họ nghĩ về lạm phát, họ nghĩ về mức giá. Chẳng hạn, 1 gallon sữa bây giờ có giá 3 USD thay vì 2 USD như trước đây, và họ nghĩ đó là lạm phát”, ông nói.
Theo nhà kinh tế học này, những cử tri quan tâm nhiều hơn đến sự xuống thang của tốc độ lạm phát có thể sẽ nghiêng về ủng hộ bà Harris. Đây là mô hình mà ông Yaros gọi là “mô hình chỉ số khốn khổ”. Đó là một chỉ số không chính thức, được tính bằng tổng giữa tỷ lệ thất nghiệp toàn quốc và tỷ lệ thất nghiệp hàng năm ở Mỹ. Hiện tại chỉ số khốn khổ đang ở mức 6,5%, thấp hơn nhiều mức bình quân 9,1% từ năm 1947 đến nay.
Chỉ số khốn khổ của Mỹ qua các năm - Nguồn: CBS.
Lịch sử cho thấy chỉ số khổ sở ở Mỹ đã dự báo chính xác về kết quả các cuộc bầu cử tổng thống của nước này: khi chỉ số càng cao thì khả năng thất cử của ứng cử viên đảng cầm quyền càng lớn. Chẳng hạn, chỉ số khổ sở lên tới 15% vào năm 2020, cho thấy bất lợi của ông Trump trong cuộc đua vào Nhà Trắng năm đó.
Tuy nhiên, có nhiều vấn đề khác có thể ảnh hưởng tới quyết định của cử tri trong cuộc bầu cử năm nay, từ nhập cư tớ quyền nạo phá thai. Và dù bi quan về triển vọng nền kinh tế Mỹ, người Mỹ vẫn tiếp tục chi tiêu.
“Chúng ta đang chứng kiến một sự gián đoạn kết nối giữa các chỉ số đo lường tâm lý người tiêu dùng và chi tiêu thực tế của người tiêu dùng. Bởi vậy, mọi người có thể nói một đằng nhưng làm một nẻo. Tôi không cho là ai có để đoán chắc kết quả bầu cử như thế nào”, ông Yaros nhận xét.
Cẩn trọng rủi ro lạm phát cuối năm
Kinhtedothi- Diễn biến khó lường của tình hình thế giới cộng hưởng với những vấn đề nội tại của nền kinh tế sẽ tác động tới lạm phát.
Quy luật cuối năm giá cả tăng cao
Trong tháng 9, giá lương thực, thực phẩm tăng cao, giá thuê nhà ở tăng là những nguyên nhân chính làm cho CPI tháng 9/2024 tăng 0,29% so với tháng trước. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính, có 9 nhóm hàng tăng giá, 2 nhóm hàng giảm giá so với tháng trước.
Lạm phát thường tăng vào cuối năm. Ảnh minh hoạ
Theo Vụ trưởng Vụ Thống kê giá, giá nguyên vật liệu đầu vào thế giới đang ở mức cao trong khi tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới diễn biến theo chiều hướng ngày càng phức tạp, khó lường. Việt Nam là nước nhập khẩu nhiều nguyên liệu phục vụ sản xuất nên biến động của giá hàng hóa trên thế giới sẽ ảnh hưởng đến chi phí, giá thành, tạo áp lực cho sản xuất của DN và từ đó đẩy giá hàng hóa tiêu dùng trong nước tăng lên. Bên cạnh đó, đồng USD có mức giá cao làm tăng chi phí nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu, gây sức ép lên mặt bằng giá hàng hóa trong nước. Dự báo nhu cầu sử dụng điện cho sản xuất và tiêu dùng tăng mạnh trong thời gian tới cũng gây áp lực lên lạm phát. Thực hiện điều chỉnh giá dịch vụ do nhà nước quản lý theo hướng tính đúng, tính đủ các yếu tố, các chi phí cần được cân nhắc thận trọng, phù hợp về mức độ cũng như thời điểm tăng giá.
"Các gói kích cầu, hạ mặt bằng lãi suất cho vay, mở rộng tín dụng, đẩy mạnh đầu tư công giúp tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế nhưng cũng có thể tạo sức ép lên mặt bằng giá nếu nguồn cung tiền không được kiểm soát hợp lý" - bà Oanh cho biết thêm.
Điều hành giá các loại dịch vụ phù hợp, linh hoạt chính sách tiền tệ
Năm 2024, theo nghị quyết của Quốc hội, mục tiêu kiểm soát được đặt ra ở mức 4-4,5%. Tuy nhiên, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã chỉ đạo, mục tiêu tăng trưởng phải đạt ở ngưỡng trên (6-6,5%), còn lạm phát thì quyết tâm đạt ở ngưỡng thấp (4-4,5%).
CPI bình quân quý III/2024 tăng 3,48% so với quý III/2023. Tính chung 9 tháng năm nay, CPI tăng 3,88% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 2,69%. Theo Tổng cục Thống kê, lạm phát 9 tháng đầu năm ở mức 3,88%, dư địa để đạt được mức lạm phát cả năm nay theo mục tiêu Quốc hội đề ra vẫn còn. Tuy nhiên, nếu chỉ số tiêu dùng những tháng cuối năm liên tục tăng cao sẽ tạo ra lạm phát kỳ vọng lớn và tạo áp lực điều hành lạm phát cho năm 2025.
Xu hướng cuối năm thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, theo đó sẽ tác động đến lạm phát ở những khía cạnh như tiêu dùng, chi tiêu, đầu tư,... Tỷ giá VND/USD tăng từ đầu tháng 10 và có thể sẽ duy trì ở mức cao trong thời gian dài hơn.
Chính sách hiện tại của NHNN vẫn đang cố gắng duy trì nền lãi suất thấp để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, từ đó, tỷ giá USD/VND có thể sẽ vẫn neo cao. Bộ đôi lãi suất thấp và tỷ giá USDVND cao đều có thể dẫn tới nguy cơ gia tăng lạm phát"- khối phân tích ACBS nhận định.
Trong khi nhập khẩu tăng cao được xem là cơ sở sẵn sàng cho xuất khẩu trong quý tới đây, khi các thị trường lớn hồi phục nhu cầu và DN đã cạn hàng tồn kho, nhiều chuyên gia cũng có quan điểm khác nhau về khả năng nhập khẩu có chuyển thành nhập siêu kéo dài hơn trong thời gian tới, hay mang tính mùa vụ ngắn hạn, qua đó có tác động nhất định ngắn - dài đến tỷ giá. Điều này sẽ là ẩn số đối với tỷ giá và trong tính toán cán cân thanh toán tổng thể.
Cùng với đó, khi lãi suất khó có kỳ vọng tăng nhằm đảo bảo tiếp tục hỗ trợ phục hồi sản xuất, tăng trưởng kinh tế, rủi ro của lạm phát sẽ càng có áp lực cao hơn trong thời gian tới do giá lương thực, xăng dầu, điện và tiền lương tăng. Việc kiểm soát giá các mặt hàng trực tiếp trong rổ tính CPI hay có tác động đến nhiều nhóm hàng tính CPI có thể cũng sẽ là vấn đề trong thời gian tới.
Đó là lý do, Bộ KH&ĐT, trong các báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội kể từ cuối năm 2023, đều cảnh báo về áp lực điều hành giá cả thị trường, lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Nhiều chuyên gia kinh tế cả trong và ngoài nước cũng nhấn mạnh điều này. “Áp lực lạm phát còn lớn, trong khi lạm phát thường tăng vào cuối năm và có những yếu tố tác động rất khó dự báo, đặc biệt là biến động giá cả thế giới, tâm lý, kỳ vọng của người dân, DN…”- đại diện Bộ KH&ĐT nhấn mạnh
Chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long dự báo CPI năm nay tăng 4,2% - 4,5% với với năm ngoái. Nếu việc điều chỉnh giá được thực hiện nửa cuối năm với mức điều chỉnh không quá lớn, ông Long tin rằng mục tiêu kiểm soát lạm phát khoảng 4,5% như Quốc hội đề ra là khả thi. Ông Long nhấn mạnh Chính phủ thận trọng và chủ động trong điều hành giá cả thị trường và kiểm soát lạm phát, nhằm tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, tạo dư địa để đẩy mạnh thực hiện các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng.
Một số yếu tố như việc điều chỉnh giá dịch vụ, giá điện cũng có thể làm tăng chỉ số giá tiêu dùng CPI. Cuối năm cũng là thời điểm lễ tết do đó nếu hàng hóa không được chuẩn bị tốt có thể gây sức ép lên giá cả. Việc kiểm soát nguồn cung tiền một cách hợp lý từ các gói hỗ trợ, mở rộng tín dụng và đẩy mạnh đầu tư cũng cần được quan tâm để tránh gây áp lực lên việc kiểm soát lạm phát từ nay đến cuối năm. (Vụ trưởng Vụ Thống kê Giá - Tổng cục Thống kê Nguyễn Thu Oanh)
Mặt bằng lãi suất huy động dự báo sẽ ổn định ở vùng thấp
Diễn biến vĩ mô thuận lợi hơn là yếu tố quan trọng để hỗ trợ cho xu hướng hồi phục chung của thị trường chứng khoán.
Trong tháng 9, tỷ giá giảm mạnh sau động thái hạ lãi suất của Fed với mức 50 điểm cơ bản trong phiên họp chính sách vừa qua. Cụ thể, sau phiên họp tháng 9, chỉ số DXY đã giảm mạnh xuống gần ngưỡng 100, điều này cùng với sự cân bằng của cung cầu ngoại tệ đã giúp tỷ giá nhanh chóng hạ nhiệt từ mức nến cao. Theo công ty chứng khoán KB Việt Nam (KBSV), rủi ro tỷ giá trong quý IV đã được hạn chế do lạm phát trong nước duy trì ở mức ổn định.
KBSV cho rằng CPI bình quân cả năm 2024 sẽ ổn định dưới mức 4% so với cùng kỳ. Với áp lực tỷ giá và lạm phát không còn đáng lo ngại, Ngân hàng Nhà nước sẽ có thêm đủ địa để duy trì mức lãi suất thấp nhằm hỗ trợ kinh tế hồi phục. Điều này sẽ là yếu tố quan trọng để hỗ trợ cho xu hướng hồi phục chung của thị trường chứng khoán.
Lãi suất liên ngân hàng đã giảm mạnh trong hơn 2 tháng qua nhờ các động thái hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước bao gồm 2 lần hạ lãi suất OMO và tiếp tục bơm ròng 68.000 tỉ vào thị trường mở cuối quý III. KBSV dự đoán rằng mức lãi suất liên ngân hàng sẽ giảm thêm trong thời gian tới như một biện pháp hỗ trợ duy trì mức lãi suất tỷ thấp.
Đánh giá của KBSV cho thấy thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn linh hoạt, điều chỉnh trong quý IV, với dự báo tăng nhẹ lãi suất và ổn định mức lãi suất tiết kiệm đồng với sự hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước.
Markalı Ürün
Veri API'si
Web Eklentileri
Poster Oluşturucu
Ortaklık Programı
Hisse senetleri, döviz, emtialar, vadeli işlemler, tahviller, ETF'ler veya kripto gibi finansal varlıkların alım satımında kayıp riski ciddi miktarda olabilir. Brokerınıza yatırdığınız parayı tamamen kaybedebilirsiniz. Bu nedenle, koşullarınız ve finansal kaynaklarınız ışığında bu tür bir ticaretin sizin için uygun olup olmadığını dikkatle değerlendirmelisiniz.
Kendi kendinize durum tespiti yapmadan veya mali danışmanlarınıza danışmadan hiçbir yatırım yapmamalısınız. Mali durumunuzu ve yatırım ihtiyaçlarınızı bilmediğimiz için web içeriğimiz size uygun olmayabilir. Mali bilgilerimizin gecikmesi veya yanlışlık içermesi mümkündür; bu nedenle tüm işlemlerinizin ve yatırım kararlarınızın sorumluluğu tamamen size ait olacaktır. Kaybedilen sermayenizden şirket sorumlu olmayacaktır.
Web sitesinden izin almadan web sitesindeki grafikleri, metinleri veya ticari markaları kopyalamanıza izin verilmez. Bu web sitesinde yer alan içerik veya verilere ilişkin fikri mülkiyet hakları, sağlayıcılarına ve borsa tüccarlarına aittir.