行情
新聞
分析
使用者
快訊
財經日曆
學習
數據
- 名稱
- 最新值
- 前值
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
無匹配數據
最新觀點
最新觀點
最近更新
港股投資的風險預警
儘管香港法律體系和監管框架相對健全,但港股市場仍存在一些特定的風險和挑戰,如港幣與美元掛鉤,外地投資者可能會面臨匯率波動;中國內地的政策變化和經濟狀況對港股的影響等 。
投資港股費用架構與稅務
港股市場的交易成本包括總投資成本為買賣股票的交易費用、印花稅、結算費用等,對於外地投資者,可能會涉及兌換港幣所產生匯率轉換費用,以及依照所在地的相關法規需繳納的稅款。
港股產業分析:非必需消費產業
港股市場非必需消費產業涵蓋汽車、教育、旅遊、餐飲、服飾等多個領域,在643家上市公司中35%為中國內地公司,佔總市值的65%,因此受中國經濟影響深遠。
港股產業分析:地產建築業
地產建築業在港股指數中的份額近年來已明顯下降,但截至2022年,它依然在市場上佔有約10%的份額。 包含了房地產開發、建築工程、房地產投資和物業管理等各個方面。
中國·香港
越南·胡志明
杜拜
奈及利亞·拉各斯
埃及·開羅
查看所有搜尋結果
暫無數據
10 ngân hàng lãi từ dịch vụ cao nhất 9 tháng
Techcombank tiếp tục là nhà băng có lãi thuần từ dịch vụ cao nhất trong 9 tháng đầu năm 2024
TOP 10 ngân hàng lãi từ dịch vụ cao nhất 9 tháng đầu năm 2024
NIM suy giảm, điều chỉnh dự báo lợi nhuận ngân hàng
Từ mức lợi nhuận thấp trong quý 3/2023, LNTT quý 3/2024 của các ngân hàng trong phạm vi nghiên cứu của báo cáo ghi nhận tăng 13,6% svck. Theo đó, LNTT trong 9 tháng đầu năm 2024 phù hợp với ước tính, đạt 73,9% dự báo năm.
Xu hướng tỷ lệ biên lãi ròng (NIM) của các ngân hàng giảm mạnh trong quý 3/2024 khiến SSI Research điều chỉnh dự báo lợi nhuận ngành cả năm.
Theo báo cáo cập nhật về kết quả kinh doanh (KQKD) ngành ngân hàng tại quý 3/2024, SSI Research ghi nhận NIM cả hệ thống thu hẹp trong quý, ngoại trừ tại STB (+4 điểm cơ bản so với quý trước).
NIM tại các NHTMNN giảm 20 điểm cơ bản so với quý trước, trong khi NIM tại các ngân hàng tư nhân giảm mạnh hơn (-28 điểm cơ bản so với quý trước). Đáng chú ý, NIM tại các ngân hàng có dư nợ tăng mạnh ở lĩnh vực bất động sản (chủ đầu tư và mua nhà) trong quý 3/2024 giảm mạnh hơn, gồm có TCB (-43 điểm cơ bản so với quý trước), MBB (-40 điểm cơ bản so với quý trước), VPB (-34 điểm cơ bản so với quý trước), và TPB (-28 điểm cơ bản so với quý trước) chủ yếu do lợi suất sinh lời trên tài sản giảm.
Ngoài ra, các ngân hàng có tăng trưởng tín dụng yếu trong quý 3/2024 và/hoặc hỗ trợ nền kinh tế cũng có xu hướng NIM tương tự, bao gồm VCB (-35 điểm cơ bản so với quý trước), ACB (-26 điểm cơ bản so với quý trước), và BID (-25 điểm cơ bản so với quý trước).
"Chúng tôi nhận thấy nhu cầu tín dụng còn chậm và còn phân mảnh, điều này làm cho các ngân hàng phải áp dụng nhiều gói vay ưu đãi với lãi suất thấp. Ngoài ra, việc cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng làm cho lãi suất cho vay khó tăng trong khi lãi suất huy động đang tăng dần", SSI Research đánh giá.
Bên cạnh xu hướng NIM giảm, chất lượng tài sản của các ngân hàng cũng ghi nhận tỷ lệ nợ xấu tại NHTMNN và NHTMCP lần lượt tăng 4 điểm cơ bản và 7 điểm cơ bản lên 1,49% và 2,59% trong quý 3/2024.
Tăng trưởng tín dụng đạt 11,1% tính từ đầu năm (hoặc 3% so với quý trước) trong quý 3/2024, trong đó TPB và VIB là hai ngân hàng có mức tăng mạnh mẽ nhất lần lượt là 9,3% và 6,7% so với quý trước. Sau đợt bùng nổ tín dụng trong quý 2/2024, tăng trưởng tín dụng tại ACB (+0,9% so với quý trước) và VCB (+2,3% so với quý trước) giảm tốc trong quý 3/2024. Nhờ sự phục hồi gần đây của thị trường bất động sản, đặc biệt tại khu vực miền Bắc, dư nợ cho vay đối với các chủ đầu tư bất động sản, các công ty xây dựng và cho vay mua nhà đã tăng mạnh tại những ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với ngành bất động sản, bao gồm TCB, MBB, VPB, HDB, TPB và MSB. Mặt khác, các khoản giải ngân cho vay lĩnh vực chứng khoán giảm mạnh tại VPB (-9,1 nghìn tỷ đồng so với quý trước) và tại MSB (-3,9 nghìn tỷ đồng so với quý trước) trong khi tăng mạnh tại TPB (+7,2 nghìn tỷ đồng so với quý trước), VIB (ít nhất +3,1 nghìn tỷ đồng so với quý trước), TCB (+1,7 nghìn tỷ đồng so với quý trước), và HDB (+1,6 nghìn tỷ đồng so với quý trước), SSI Research thống kê.
Như vậy, tăng trưởng tín dụng có sự phân hóa và cơ cấu tín dụng tập trung vào lĩnh vực cho vay nào (bán lẻ, bất động sản) cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ NIM và chi phối KQKD quý 3 của các ngân hàng.
Theo SSI Research, tỷ lệ nợ xấu tăng tại các NHTMCP chủ yếu do nợ xấu tăng tại các ngân hàng MBB, TPB, VIB, và OCB, trong khi đó BID là nguyên ngân chính gây tỷ lệ nợ xấu tăng tại NHTMNN trong quý 3/2024. Tỷ lệ nợ xấu tăng nhẹ lên 2% trong quý 3/2024 (so với 1,94% trong quý 2/2024). Tuy nhiên, điểm sáng là tỷ lệ hình thành nợ xấu giảm (-90 điểm cơ bản so với quý trước xuống 1,22%) trong quý 3/2024. Cụ thể, tỷ lệ hình thành nợ xấu giảm đáng kể tại VPB (-495 điểm cơ bản so với quý trước) và CTG (-375 điểm cơ bản so với quý trước), nhưng tăng mạnh tại MBB (+469 điểm cơ bản so với quý trước), OCB (+215 điểm cơ bản so với quý trước), TPB (+132 điểm cơ bản so với quý trước), và VIB (+34 điểm cơ bản so với quý trước.
KQKD của các ngân hàng quý 3/2024
Do NIM thu hẹp, (-22 điểm cơ bản so với quý trước), thu nhập thuần từ phí (NFI) giảm (-18,6% so với quý trước), thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại hối và chứng khoán suy yếu (-54,4% so với quý trước), dù cho thu nhập từ nợ xấu đã xóa tăng mạnh (+20,8% so với quý trước) và dự phòng tín dụng giảm (-9% so với quý trước), kết quả lợi nhuận trước thuế (LNTT) của các ngân hàng trong danh mục theo dõi của SSI Research ghi nhận quý 3/2024 giảm 5,5% so với quý trước.
Trong đó, CTG là ngân hàng có mức thu nhập từ nợ đã xóa cao vượt bậc với 3,9 nghìn tỷ đồng trong quý 3/2024.
Tính riêng từng ngân hàng, TCB, VPB, và HDB vượt dự báo lợi nhuận quý3/2024 trong khi ACB, OCB, và MSB thấp hơn dự kiến.
Từ mức lợi nhuận thấp trong quý 3/2023, LNTT quý 3/2024 của các ngân hàng trong phạm vi nghiên cứu của báo cáo ghi nhận tăng 13,6% svck. Theo đó, LNTT trong 9 tháng đầu năm 2024 phù hợp với ước tính, đạt 73,9% dự báo năm.
Quý 4, do cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt, các nhà nghiên cứu cho rằng NIM sẽ thu hẹp trong 3 tháng cuối năm 2024. Tuy nhiên, quý 4 thường là quý các ngân hàng mở rộng tăng trưởng tín dụng, trích lập dự phòng, và xử lý nợ xấu. Do đó, dự báo tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng trong phạm vi nghiên cứu sẽ giảm còn 1,89% trong quý 4/2024. Cùng với đó, vẫn còn tồn tại một số rủi ro tín dụng tiềm ẩn liên quan đến cho vay mua nhà, các chủ đầu tư bất động sản, và ngành năng lượng tái tạo. SSI Research ước tính tăng trưởng LNTT đạt 14,5% trong quý 4/2024.
Cho cả năm 2024, điều chỉnh dự báo tăng trưởng LNTT xuống +13,3% svck so với +16,9% svck trong dự báo trước đó và điều chỉnh NIM xuống 3,48% (-7% svck) trong năm 2024 (chủ yếu từ NHTMNN và top đầu các NHTMCP), tương đương với mức giảm 16 điểm cơ bản so với dự báo trước đó là 3,64%.
[VIDEO] Phân tích cổ phiếu CTG, TPB, VPB: Lý do đừng vội bán!
CTG, TPB, VPB cổ phiếu sẽ tăng hay giảm? Xem ngay video này để có những phân tích và dự đoán chính xác nhất về xu hướng giá của các cổ phiếu này trong thời gian tới. Đừng bỏ lỡ những thông tin quan trọng và cập nhật mới nhất về thị trường chứng khoán Việt Nam.
TOP 5 cổ phiếu ngân hàng có định giá rẻ
Lịch sử chứng khoán Việt Nam từng chứng kiến 2 cơn đại sóng của nhóm ngành ngân hàng đó là 2017-2028 và 2020-2021 thì sẽ nhận ra 2 đặc điểm rất rõ đó là 2 con sóng này diễn ra trong khoảng thời gian rất dài và rất nhiều cổ phiếu ngân hàng có mức tăng bằng lần tạo ra rất nhiều của cải cho NĐT.
Chu kì năm 2022-2023 là giai đoạn rất khó khăn với BĐS và với các DN, câu chuyện nợ liên quan đến trái phiếu ảnh hưởng rất nhiều. Nợ trái phiếu chiếm 20% tổng dư nợ toàn ngành Ngân hàng. Khi mà BĐS gặp khó khăn là ngành ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng . Cuối năm 2023 khi mà 1 số DN BĐS bđầu trả nợ được đặc biệt trả nợ trái phiếu, và sang 2024 chỉ số ngành sản xuất có dấu hiệu hồi phục sau cả dài đoạn dài cho thấy sự suy yếu
=> Kì vọng 2024-2025 nền kinh tế có sự khởi sắc
1, Định giá rẻ
- Tính đến ngày 02/11/2024, định giá trung bình tại các ngân hàng tăng so với cuối 2023, nhưng vẫn ở mức tương đối hợp lý so với chu kỳ 2020 – 2021. Chưa kể ngân hàng là ngành tạo ra liên tục tạo ra lợi nhuận, điều này sẽ làm tăng giá trị số sách qua từng năm, từ đó khiến cho định giá của ngân hàng sẽ trở nên hấp dẫn nếu xét trên góc nhìn dài hạn.
- Các ngân hàng có định giá rẻ: MBB CTG VPB TCB STB
2. Tăng trưởng tín dụng
Trong 9T/2024, tổng tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 9%. Trong đó, một số ngân hàng như TCB, LPB, MBB, TPB, ACB, VPB, … có mức tăng trưởng tín dụng vượt trội hơn so với trung bình ngành. Mục tiêu tăng trưởng tín dụng trong năm 2024 là 15%, do đó tín dụng sẽ được tiếp tục đẩy mạnh trong các tháng cuối năm để đạt được kế hoạch.
Trong Q3/2024, lợi nhuận của các ngân hàng bắt đầu thể hiện sự phân hóa rõ rệt. Những ngân hàng như LPB, VPB, STB, CTG, … đều ghi nhận lợi nhuận trưởng tích cực, còn các ngân hàng như OCB, MSB, … thì lợi nhuận lại giảm mạnh so với cùng kỳ. Nếu so với quý liền kề trước đó thì lợi nhuận của các ngân hàng đều sụt giảm, hoặc tích cực hơn thì cũng chỉ tăng nhẹ.
2. Tỷ lệ CASA của các ngân hàng
Tính đến cuối Q3/2024, TCB, MBB, VCB vẫn là 3 ngân hàng có tỷ lệ CASA cao nhất toàn ngành, điều này sẽ giúp cho những ngân hàng này tiết giảm được chi phí huy động đầu vào so với các ngân hàng khác.
3. Nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu trong Q3/2024 của ngân hàng thể hiện sự phân hóa rõ rệt, các ngân hàng như MBB, OCB, TPB, LPB, BID, … đều chứng tỷ lệ nợ xấu tăng trở lại, nhưng những ngân hàng như VPB, MSB, … lại ghi nhận tỷ lệ nợ xấu giảm tương đối tích cực.
Xếp hạng đánh giá:
Chi tiết mời anh chị theo dõi video:
‘Nội soi’ 2 cổ phiếu vừa lọt rổ chỉ số cận biên lớn nhất của MSCI
Đều được bổ sung vào rổ chỉ số của thị trường cận biên là MSCI Frontier Markets Index trong kỳ cơ cấu sắp tới, “sức khỏe” cũng như biến động giá 2 mã cổ phiếu DBC (Dabaco) và VPB (VPBank) ra sao?
MSCI vừa công bố kết quả cơ cấu (review) định kỳ quý IV. Trong đó, bộ chỉ số của thị trường cận biên là MSCI Frontier Markets Index được bổ sung tổng cộng 4 cổ phiếu và loại ra 5 mã.
Đều kinh doanh khởi sắc
Riêng thị trường Việt Nam, MSCI thêm mới cổ phiếu DBC và VPB, đồng thời không loại bất kỳ mã nào.
Dữ liệu từ MSCI cho thấy, tại cuối tháng 10, Việt Nam vẫn là quốc gia chiếm tỷ trọng cao nhất trong MSCI Frontier Market Index với tỷ lệ 25%.
Về VPBank, lợi nhuận trước thuế hợp nhất quý III/2024 đạt 5.187 tỷ đồng, tăng 66% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng, lợi nhuận trước thuế đạt 13.861 tỷ đồng, tăng 67%. Trong đó, ngân hàng mẹ đóng góp hơn 13.000 tỷ đồng, các công ty con cũng tiếp nối đà tăng từ các quý trước.
Cuối quý III/2024, tổng tài sản VPBank đạt 858.884 tỷ đồng, tăng 5% so với đầu năm. Dư nợ cho vay khách hàng tăng 12,19% lên 635.344 tỷ đồng; tiền gửi của khách hàng tăng 7,55%, đạt 475.782 tỷ đồng.
Giá trị thương hiệu của VPBank năm 2024, theo đánh giá mới nhất của Brand Finance, đã tăng gần 6% so với năm 2023, đạt 1,35 tỷ USD, lọt Top 10 thương hiệu giá trị nhất Việt Nam năm 2024.
Tương tự, Dabaco cũng ghi nhận một quý kinh doanh đầy khởi sắc khi ghi nhận doanh thu thuần quý III/2024 đạt 3.525 tỷ đồng, tăng 30% so với cùng kỳ. Lợi nhuận gộp khoảng 624 tỷ đồng, biên lợi nhuận gộp đạt 18%. Lợi nhuận trước và sau thuế đều tăng mạnh so với cùng kỳ, lần lượt gấp 14 lần lên 331 tỷ đồng và 25 lần lên 312 tỷ đồng.
Luỹ kế 9 tháng, công ty ghi nhận doanh thu thuần 9.962 tỷ đồng, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước. Lợi nhuận gộp giai đoạn này khoảng 1.403 tỷ đồng, tăng 61% so với cùng kỳ. Biên lợi nhuận gộp hơn 14%.
Sau khi trừ đi các khoản phí, Dabaco báo lãi trước thuế 588 tỷ đồng và lãi sau thuế 530 tỷ đồng, lần lượt gấp 7 lần và 3 lần cùng kỳ.
Năm nay, Dabaco dự kiến doanh thu đạt 25.380 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế gần 730 tỷ đồng. Sau 3 quý, công ty đã hoàn thành 41% kế hoạch doanh thu và 73% mục tiêu lợi nhuận.
Tính đến cuối quý III, tổng tài sản của Dabaco đạt khoảng 14.070 tỷ đồng, tăng hơn 1.000 tỷ đồng so với đầu năm. Hàng tồn kho chiếm nhiều nhất trong cơ cấu tài sản của công ty, tương ứng 5.453 tỷ đồng. Nợ phải trả giảm đáng kể so với đầu kỳ, từ 8.345 tỷ đồng xuống 7.542 tỷ đồng.
Vốn chủ sở hữu tăng 1.861 tỷ đồng so với đầu năm, lên 6.527 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế chưa phân phối gấp 19 lần đầu kỳ, đạt 533 tỷ đồng.
Cổ phiếu được khuyến nghị khả quan
Trên thị trường, cổ phiếu DBC đã tăng đột biến từ tháng 2/2023 đến tháng 7/2024. Tuy nhiên, sau khi đạt mức giá 36.500 đồng/cp trong phiên 9/7, cổ phiếu này quay đầu điều chỉnh giảm. Đây cũng là giai đoạn Dabaco báo cáo kết quả kinh doanh quý II/2024 giảm sút. Hiện, cổ phiếu DBC đang giao dịch quanh vùng giá 28.000 đồng/cp; vốn hóa đạt hơn 9.200 tỷ đồng.
Trong báo cáo mới đây, Chứng khoán DSC đã đưa ra mức giá mục tiêu năm 2024 cho cổ phiếu DBC là 37.900 đồng/cp (vượt đỉnh lịch sử) dựa trên triển vọng tăng trưởng của ngành chăn nuôi heo và lợi thế dẫn đầu của doanh nghiệp.
Cụ thể, giá heo hơi đã quay đầu tăng trở lại kể từ cuối năm 2023 và hiện đang duy trì quanh mức 65.000 đồng/kg do nguồn cung heo giảm. Bên cạnh đó, mặt bằng giá heo sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao cho đến hết năm 2024.
Với sự chủ động về con giống và mô hình hoạt động khép kín, Dabaco không chỉ tái đàn trước các doanh nghiệp khác mà còn hạn chế được dịch bệnh. DSC đánh giá doanh nghiệp sẽ có lợi thế rất lớn trong đợt sóng giá heo này.
Mặt khác, giá các loại ngũ cốc làm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi đã hạ nhiệt đáng kể từ vùng đỉnh năm 2022, mặc dù diễn biến thời tiết tại các quốc gia xuất khẩu ngũ cốc lớn không quá thuận lợi.
Trong khi đó, cơ cấu nguồn cung heo đang dịch chuyển từ các nông hộ nhỏ lẻ sang doanh nghiệp lớn khi các quy định mới của Luật Chăn nuôi sắp đến thời điểm có hiệu lực (từ ngày 1/1/2025). Dabaco có thể chiếm lĩnh thị phần nhờ lợi thế quy mô lớn, trang trại hiện đại, khép kín và nguồn giống chất lượng có khả năng tái đàn nhanh.
Với dự án vaccine dịch tả heo châu Phi (ASF), Dabaco cho biết đang gấp rút hoàn thiện công đoạn kiểm nghiệm và tiến hành đánh giá GMP để sớm tiến hành thương mại hóa vaccine ASF. Doanh nghiệp cũng đang chuẩn bị cho 2 đợt phát hành cổ phiếu nhằm bổ sung vốn cho dự án nhà máy dầu đậu nành. Đây là 2 dự án lớn và quan trọng có tiềm năng trở thành động lực tăng trưởng cho Dabaco trong trung và dài hạn.
Về cổ phiếu VPB, trong vòng 3 tháng qua, cổ phiếu này diễn biến khá tích cực với mức tăng 9% cùng thanh khoản luôn nằm top giao dịch sôi động nhất thị trường.
Hiện, cổ phiếu VPB đang giao dịch với P/B và P/E dự phóng năm 2024 lần lượt là 1,11 lần và 10 lần, trong khi bình quân nhóm ngân hàng thương mại tư nhân lần lượt ở mức 1,23 lần và 7,6 lần.
Đưa ra khuyến nghị về cổ phiếu VPB, SSI Research cho biết việc lãi suất huy động của ngân hàng đã tăng nhẹ từ tháng 5/2024 dự kiến sẽ chỉ tác động nhỏ đến chi phí vốn. Tuy nhiên, lãi suất cho vay sẽ khó tăng do các ngân hàng phải cạnh tranh lãi suất với nhau để tăng trưởng tín dụng. Do đó, NIM có khả năng sẽ chịu áp lực trong nửa cuối năm 2024 nhưng nhìn chung vẫn sẽ cải thiện so với năm 2023.
Về chất lượng tài sản, nợ xấu chủ yếu do phân khúc bán lẻ, đặc biệt là các khoản cho vay mua nhà. Trong quý III/2024, tổng nợ tái cơ cấu đạt 12 nghìn tỷ đồng, chủ yếu từ phân khúc khách hàng doanh nghiệp.
Đối với VPBank, cổ đông chiến lược Sumitomo Mitsui Banking Corporation (SMBC) đóng vai trò quan trọng trong việc định hình và điều chỉnh các sản phẩm của nhà băng nhằm thu hút các doanh nghiệp FDI, các khoản tín dụng xanh và khách hàng bán lẻ có thu nhập cao.
Riêng về FE Credit, các nhà đầu tư tập trung vào danh mục cho vay và chất lượng tài sản của công ty. Danh mục cho vay hiện nay bao gồm 50% cho vay tiền mặt, 20% thẻ tín dụng, còn lại là các khoản cho vay đồ điện tử và xe máy. Trong giai đoạn 2019-2021, FE Credit đã tích cực gia tăng thị phần bằng cách đẩy mạnh các khoản vay tiền mặt cho phân khúc phổ thông và thu nhập thấp.
Tuy nhiên, nợ xấu cũng từ đó mà gia tăng, đặc biệt trong đại dịch Covid-19, không chỉ làm giảm chất lượng tài sản mà còn giảm thị phần công ty trong những lĩnh vực khác. Đối với chất lượng tài sản, công ty cho rằng nợ xấu đã đạt đỉnh trong quý III/2023 và kỳ vọng sẽ cải thiện cùng với nhu cầu tiêu dùng phục hồi.
Trong giai đoạn sắp tới, FE Credit dự kiến sẽ ưu tiên các khoản vay tiêu dùng mua các mặt hàng điện tử và xe máy, trong khi hạn chế cho vay những phân khúc rủi ro cao, như cho vay tiền mặt.
SSI hiện khuyến nghị khả quan đối với cổ phiếu VPB, với giá mục tiêu 1 năm là 21.700 đồng/cp (tiềm năng tăng giá là +6%).
Vn-Index 11/11/2024: Sóng Trump đã hết - Ai về nhà nấy - Săn sale 11/11
Khối ngoại có thêm tuần bán ròng gần 4.000 tỷ, tâm điểm tại 2 bluechips top đầu thị trường; Cổ phiếu "họ" Viettel đồng loạt bốc đầu sau khi Viettel Post thông qua chủ trương đầu tư dự án Công viên Logistics tại tỉnh giáp Trung Quốc; Một doanh nghiệp bất động sản KCN chuẩn bị trả cổ tức tiền mặt 60%, quá khứ từng bạo chi cổ tức "khủng" hơn 200%.
Thị trường ghi nhận diễn biến điều chỉnh hồi phục trong tuần 4-8/11. Sự suy yếu và không đồng thuận ở nhóm cổ phiếu trụ cột khiến VN Index mất đi điểm tựa vào đầu tuần. Tuy nhiên lực cầu bắt đáy dần tham gia chủ động hơn giúp thị trường tìm được điểm cân bằng quanh vùng 1.242 điểm. Kết tuần, VN Index giảm 2,33 điểm (-0,19%) so với tuần trước xuống 1.252,56 điểm.
Về giao dịch khối ngoại, dòng vốn tiếp tục bán ròng mạnh, giá trị lên tới 3.631 tỷ đồng trên toàn thị trường.
Xét riêng từng sàn, nhà đầu tư nước ngoài bán ròng 3.462 tỷ đồng trên HoSE, bán ròng 150 tỷ đồng trên HNX và bán ròng 2 tỷ đồng trên sàn UPCoM.
Thống kê theo các mã chứng khoán, khối ngoại bán ròng mạnh nhất tại hai cổ phiếu MSN và VHM với giá trị lần lượt đạt 765 tỷ và 732 tỷ đồng. Tiếp theo sau, cổ phiếu CMG cũng bị "xả" mạnh với giá trị 272 tỷ sau 5 phiên. Hai mã VCB và SSI cũng lần lượt bị bán ròng 232 tỷ và 185 tỷ. Danh sách bán ròng hàng trăm tỷ của khối ngoại còn ghi nhận cổ phiếu như HDB, DBC, FPT, PVD.
Trên sàn chứng khoán, cổ phiếu “họ” Viettel trở thành tâm điểm khi tiếp đà bứt phá ấn tượng. Đóng cửa 8/11, Viettel Global (VGI), Viettel Construction (CTR) lần lượt tăng mạnh 7,39% và 2,4%; Thiết kế Viettel (VTK) còn chứng kiến mức tăng tới hơn 13%.
Đáng chú ý, Viettel Post (VTP) còn nhuộm “sắc tím” tăng hết biên độ trong phiên trước khi đóng cửa thu hẹp đà tăng về gần 6,5%. Nhờ đó, cổ phiếu VTP lập đỉnh lịch sử 108.700 đồng/cp, vốn hóa thị trường theo đó tăng lên 13.238 tỷ đồng.
Nếu tính từ đầu năm, các cổ phiếu này phần lớn đạt mức tăng từ 50% tới hơn 95%. Riêng VTK bật tăng mạnh 130%, thậm chí VGI còn ghi nhận đà tăng tới 223% giá trị.
Cổ phiếu VTP tăng 'bốc đầu' sau thông tin Viettel Post công bố Nghị quyết Hội đồng quản trị về việc thông qua chủ trương đầu tư dự án Công viên Logistics Viettel tại Lạng Sơn. Động thái nhằm kinh doanh dịch vụ xuất nhập khẩu, dịch vụ kho, vận tải hàng hóa nội địa và thương mại điện tử quốc tế.
Một doanh nghiệp bất động sản KCN chuẩn bị trả cổ tức tiền mặt 60%, quá khứ từng bạo chi cổ tức "khủng" hơn 200%
CTCP Khu Công nghiệp Nam Tân Uyên (UPCoM, mã NTC) vừa chốt danh sách cổ đông để chia cổ tức năm 2023 bằng tiền với tỷ lệ thực hiện 60%, tương ứng cổ đông sở hữu 1 cp được nhận 6.000 đồng. Ngày đăng ký cuối cùng để trả cổ tức là 25/11/2024. Thời gian thực hiện dự kiến vào 18/12/2024.
Với gần 24 triệu cổ phiếu đang lưu hành, doanh nghiệp ước tính chi khoảng 144 tỷ đồng để hoàn tất đợt chi trả cổ tức này. Trong cơ cấu cổ đông của Nam Tân Uyên, CTCP Cao su Phước Hòa (HOSE: PHR) đang là cổ đông lớn nhất nắm 32,85% vốn có thể thu về 47 tỷ đồng, cổ đông lớn thứ hai là Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam - CTCP (HOSE: GVR) dự kiến bỏ túi 29 tỷ đồng với việc nắm 20,42% vốn và CTCP Đầu tư Sài Gòn VRG (HOSE: SIP) nắm 19,95% vốn sẽ thu về khoảng 28 tỷ đồng.
Một "đại gia" trên sàn chứng khoán chi gần 7.000 tỷ đồng trả cổ tức ngay trong tháng 12
Tổng Công ty Máy động lực và máy nông nghiệp Việt Nam – CTCP (VEAM Corp – mã VEA) vừa công bố nghị quyết HĐQT về việc chi trả cổ tức năm 2023 với tỷ lệ 50,3518% (01 cổ phiếu nhận về 4.035,18 đồng). Ngày chốt danh sách cổ đông đăng ký cuối cùng nhận cổ tức là 20/11 tới đây, thời gian thanh toán dự kiến vào ngày 20/12/2024.
Với 1,33 tỷ cổ phiếu đang lưu hành, VEAM dự kiến sẽ chi đến 6.691 tỷ đồng cho đợt cổ tức lần này. Phần lớn số tiền trên sẽ thuộc về cổ đông Nhà nước. Cụ thể, Bộ Công thương sẽ nhận gần 6.000 tỷ đồng cổ tức từ VEAM nhờ nắm giữ 88,47% vốn tại doanh nghiệp này.
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có 9 triệu tài khoản chứng khoán
Theo số liệu từ Trung tâm lưu ký Chứng khoán Việt Nam (VSD), số lượng tài khoản của nhà đầu tư trong nước đã tăng thêm gần 157.000 tài khoản trong tháng 10/2024, giảm nhẹ so với tháng trước. Số lượng tài khoản tăng thêm chủ yếu đến từ cá nhân trong khi tổ chức chỉ có thêm 121 tài khoản.
Luỹ kế từ đầu năm, số lượng tài khoản chứng khoán của nhà đầu tư trong nước đã tăng 1,73 triệu tài khoản. Tính đến cuối tháng 10, nhà đầu tư cá nhân có tổng cộng gần 9 triệu tài khoản, tương đương khoảng 9% dân số. Như vậy, chứng khoán Việt Nam đã đạt mục tiêu 9 triệu tài khoản trước thời hạn 2025 và đang hướng đến con số 11 triệu tài khoản vào năm 2030.
Khối ngoại bán ròng đột biến hơn 1.100 tỷ đồng, cổ phiếu nào là tâm điểm "xả hàng"?
Đà bán ròng của nhóm nhà đầu tư ngoại chưa dừng lại khi nhóm này tiếp đà “xả” hơn 1.100 tỷ đồng trong phiên hôm nay.
Trên HSX, khối ngoại bán ròng hơn 1.100 tỷ đồng
CMG, VHM và MSN là tâm điểm bán với giá trị lần lượt là 172 tỷ đồng, 157 tỷ đồng và 130 tỷ đồng. Họ cũng bán nhiều các mã như STB (78 tỷ đồng), VPB (68 tỷ đồng), TCB (64 tỷ đồng), SSI (40 tỷ đồng)...
Ngược lại, họ mua nhiều các mã như HPG (43 tỷ đồng), SZC (14 tỷ đồng), CTR (14 tỷ đồng)...
Trên HNX, khối ngoại bán ròng 23 tỷ đồng
Những mã bị bán nhiều gồm có IDC (29 tỷ đồng), CEO (3 tỷ đồng), NTP (3 tỷ đồng)...
Ngược lại, họ mua nhiều các mã như BVS, MBS, TNG, TVC...
Trên UPCoM, khối ngoại bán ròng 19 tỷ đồng
Những mã bị bán nhiều gồm có MCH, QTP, AAS, ACV...
Ngược lại, họ mua nhiều các mã như HNG, KLB, TCW...
交易股票、貨幣、商品、期貨、債券、基金等金融工具或加密貨幣屬高風險行為,這些風險包括損失您的部分或全部投資金額,所以交易並非適合所有投資者。
做出任何財務決定時,應該進行自己的盡職調查,運用自己的判斷力,並諮詢合格的顧問。本網站的內容並非直接針對您,我們也未考慮您的財務狀況或需求。本網站所含資訊不一定是即時提供的,也不一定是準確的。本站提供的價格可能由造市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他財務決定均應完全由您負責,並且您不得依賴通過網站提供的任何資訊。我們不對網站中的任何資訊提供任何保證,並且對因使用網站中的任何資訊而可能造成的任何交易損失不承擔任何責任。
未經本站書面許可,禁止使用、儲存、複製、展現、修改、傳播或分發本網站所含數據。提供本網站所含數據的供應商及交易所保留其所有知識產權。