行情
新聞
分析
使用者
快訊
財經日曆
學習
數據
- 名稱
- 最新值
- 前值
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
無匹配數據
最新觀點
最新觀點
最近更新
港股投資的風險預警
儘管香港法律體系和監管框架相對健全,但港股市場仍存在一些特定的風險和挑戰,如港幣與美元掛鉤,外地投資者可能會面臨匯率波動;中國內地的政策變化和經濟狀況對港股的影響等 。
投資港股費用架構與稅務
港股市場的交易成本包括總投資成本為買賣股票的交易費用、印花稅、結算費用等,對於外地投資者,可能會涉及兌換港幣所產生匯率轉換費用,以及依照所在地的相關法規需繳納的稅款。
港股產業分析:非必需消費產業
港股市場非必需消費產業涵蓋汽車、教育、旅遊、餐飲、服飾等多個領域,在643家上市公司中35%為中國內地公司,佔總市值的65%,因此受中國經濟影響深遠。
港股產業分析:地產建築業
地產建築業在港股指數中的份額近年來已明顯下降,但截至2022年,它依然在市場上佔有約10%的份額。 包含了房地產開發、建築工程、房地產投資和物業管理等各個方面。
中國·香港
越南·胡志明
杜拜
奈及利亞·拉各斯
埃及·開羅
查看所有搜尋結果
暫無數據
Biến động số dư tiền gửi của Kho bạc Nhà nước tại các ngân hàng ra sao?
Theo báo cáo tài chính quý III của 3/4 ngân hàng thương mại có vốn nhà nước là BIDV, VietinBank và Vietcombank vừa công bố, nguồn tiền gửi từ Kho bạc Nhà nước đạt gần 175. 596 tỷ đồng, giảm tới 40% so với quý liền trước (290.516 tỷ đồng), tương đương với mức giảm hơn 114.900 tỷ đồng.
Trong đó, BIDV vẫn là nhà băng được Kho bạc Nhà nước (KBNN) gửi nhiều tiền nhất, với số dư tiền gửi đến cuối tháng 9 là 74.645 tỷ đồng, gấp gần 4 lần số dư hồi đầu năm (19.338 tỷ đồng). Trong số này có hơn 73.000 tỷ đồng là tiền gửi có kỳ hạn và 1.382 tỷ đồng là tiền gửi không kỳ hạn.
Đáng chú ý, nếu so với cuối quý II (đạt 120.265 tỷ đồng), số dư tiền gửi của KBNN tại BIDV đã giảm gần 38%, tương ứng với mức giảm ròng là 45.620 tỷ đồng.
Tại VietinBank, đến cuối tháng 9, số dư tiền gửi của KBNN đạt 65.310 tỷ đồng, gấp 3 lần so với cuối năm ngoái (21.047 đồng). Tuy nhiên, nếu so với quý liền trước là 107.717 tỷ đồng, số dư tiền gửi này cũng đã giảm tới 39%, tương ứng mức giảm ròng hơn 42.000 tỷ đồng.
Đến cuối tháng 9, Vietcombank ghi nhận số dư tiền gửi của KBNN đạt 35.641 tỷ đồng. Trong số này, 34.229 tỷ đồng là tiền gửi có kỳ hạn, 1.412 tỷ đồng là tiền gửi không kỳ hạn (đã gộp tiền gửi bằng VND và ngoại tệ).
Trước đó, đến cuối quý II, số dư tiền gửi của KBNN tại Vietcombank đạt 62.534 tỷ đồng, như vậy tính đến hết quý III, số dư tiền gửi của KBNN tại nhà băng này đã giảm 26.893 tỷ đồng.
Thực tế, khoản tiền gửi của KBNN tại các ngân hàng quốc doanh thường xuyên biến động do đây là những khoản tiền tồn quỹ của ngân sách trung ương và địa phương cùng với số dư tài khoản của các tổ chức, đơn vị kinh tế khác. Khoản tiền gửi này sẽ thường xuyên biến động mạnh chủ yếu phụ thuộc vào tốc độ giải ngân vốn đầu tư công và huy động vốn trái phiếu Chính phủ của cơ quan quản lý…
Theo quy định, tiền gửi không kỳ hạn của KBNN sẽ được kết chuyển về Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Đồng thời, các ngân hàng có tên trong danh sách "nhà băng có mức độ an toàn cao" do Ngân hàng Nhà nước cung cấp cho Bộ Tài chính sẽ phải đấu thầu công khai để được nhận tiền gửi có kỳ hạn của Kho bạc.
Bốn tiêu chí do Bộ Tài chính quy định gồm: quy mô tổng tài sản; tổng vốn chủ sở hữu; nợ xấu so với dư nợ tín dụng; kết quả hoạt động kinh doanh (lãi sau thuế/vốn chủ sở hữu bình quân) và được tính theo trọng số. Tuy nhiên, tổng tài sản và vốn chủ sở hữu vẫn chiếm tới 80% trọng số đánh giá. Vì vậy, với bộ tiêu chí này, hầu như chỉ 4 nhà băng có vốn nhà nước có thể đáp ứng được yêu cầu nhờ cách biệt lớn với nhóm cổ phần về quy mô tài sản và vốn.
Tại phiên chất vấn ngày 11/11, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết NHNN có chức năng cung ứng dịch vụ cho Chính phủ, các khoản tiền gửi của Chính phủ gửi tại cơ quan này. Tuy nhiên, theo Luật NHNN, các khoản ngân sách cũng được phép gửi tại các nhà băng trong hệ thống tổ chức tín dụng.
Thống đốc cho biết, tiền gửi tại KBNN khi chưa sử dụng chủ yếu được gửi ở các ngân hàng thương mại lớn và gần đây được chuyển về gửi tại NHNN, khoảng 80% trong 1 triệu tỷ đồng đang gửi tại NHNN.
Tuy vậy, việc gửi tiền ngân sách nhàn rỗi tại các nhà băng cũng có tác động nhất định tới chính sách tiền tệ, thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Do đó, NHNN và Bộ Tài chính đã có quy chế phối hợp, trao đổi thông tin và chủ động điều tiết tiền tệ.
Theo kinh nghiệm điều hành của các nước, cách thức điều chuyển tiền gửi ngân sách về NHNN là giải pháp được thực hiện khi lạm phát tăng quá cao, tức cần hút tiền về ngân hàng trung ương. Còn trong điều kiện bình thường, điều chuyển ngược lại.
Quy định hiện nay, các tổ chức tín dụng không được dùng tiền này cho vay, nhưng có thể dùng gián tiếp các khoản này để hỗ trợ họ trong đảm bảo thanh khoản. Vì thế, để tránh rủi ro, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết nhà chức trách theo dõi chặt chẽ, không chủ quan và phối hợp với các cơ quan, yêu cầu tổ chức tín dụng cân đối vốn hợp lý, đảm bảo cân đối vốn an toàn.
Thực tế, nhờ duy trì được số tiền gửi lớn từ KBNN đã hỗ trợ đáng kể giúp nhóm ngân hàng quốc doanh giảm áp lực huy động tiền gửi từ khách hàng.
Điển hình từ đầu năm đến nay, khi các ngân hàng tư nhân liên tục tăng lãi suất huy động thì lãi suất tại nhóm ngân hàng quốc doanh rất ít biến động và mức lãi suất tiền gửi của nhóm ngân hàng này luôn thấp nhất trên thị trường. Hiện tại, lãi suất huy động kỳ hạn dài của nhóm Big 4 chỉ ở mức 4,7-4,8%/năm, trong khi các ngân hàng tư nhân huy động ở mức 5-6%/năm.
Mặc dù lãi suất huy động thấp nhưng nhóm các ngân hàng thương mại Nhà nước luôn tiên phong trong việc giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ các doanh nghiệp gặp khó khăn, thực hiện các chương trình tín dụng ưu đãi của Chính phủ cho một số lĩnh vực ưu tiên như Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao và giảm phát thải tại ĐBSCL, cho vay lâm thuỷ sản, cho vay nhà ở xã hội…
Điểm danh những ngân hàng có lợi nhuận tăng bằng lần trong quý 4
Trong báo cáo cập nhật ngành ngân hàng mới đây, SSI Research đã chỉ ra những ngân hàng có lợi nhuận tăng bằng lần trong quý 4
SSI Research cho rằng điểm nhấn chính của ngành ngân hàng là biên lãi thuần (NIM) thấp hơn so với dự kiến do áp lực cạnh tranh cao. Tăng trưởng tín dụng đến cuối tháng 9 của nhóm ngân hàng được theo dõi ở mức 11,1% so với đầu năm và 3% so với quý liền trước.
Ngoài ra, NIM thu hẹp trong quý III, đặc biệt tại nhóm ngân hàng tập trung cho vay bất động sản (cả chủ đầu tư và mua nhà). Đồng thời, nhóm có tăng trưởng tín dụng yếu và nhóm ngân hàng quốc doanh cũng ghi nhận NIM thấp hơn.
Theo SSI Research, nhu cầu tín dụng còn chậm và phân mảnh khiến cho ngân hàng phải áp dụng nhiều gói vay ưu đãi với lãi suất thấp. Ngoài ra, việc cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng làm cho lãi suất cho vay khó tăng trong khi lãi suất huy động đang tăng dần. Chất lượng tài sản của các ngân hàng tiếp tục xấu đi, tuy nhiên điểm sáng là tỷ lệ hình thành nợ xấu đã giảm xuống.
Bước sang quý IV, SSI Research cho rằng NIM sẽ vẫn tiếp tục chịu áp lực trong bối cảnh sự cạnh tranh giữa ngân hàng ngày càng gay gắt.
Tuy nhiên, quý IV thường là thời gian các ngân hàng mở rộng tăng trưởng tín dụng, trích lập dự phòng, và xử lý nợ xấu. Do đó, các chuyên viên phân tích dự báo tỷ lệ nợ xấu tại nhóm ngân hàng theo dõi sẽ giảm xuống 1,89% trong quý IV.
SSI Research cũng cảnh báo vẫn còn tồn tại một số rủi ro tín dụng tiềm ẩn liên quan đến cho vay mua nhà, các chủ đầu tư bất động sản, và ngành năng lượng tái tạo.
Từ những yếu tố trên, các chuyên viên phân tích ước tính lợi nhuận trước thuế của các ngân hàng trên sẽ tăng trưởng 14,5% trong quý IV, đạt 66.481 tỷ đồng. Trong đó, Vietcombank tiếp tục dẫn đầu nhóm quốc doanh, MB dẫn đầu nhóm cổ phần.
10 ngân hàng lãi nhiều nhất từ kinh doanh ngoại hối 9 tháng
BIDV tiếp tục giữ vị trí quán quân về thu nhập từ kinh doanh ngoại hối từ tay Vietcombank
Top 10 ngân hàng lãi nhiều nhất từ kinh doanh ngoại hối 9 tháng năm 2024.
Ngành Ngân hàng- Đầu tư có chọn lọc giai đoạn cuối năm
Trong giai đoạn đầu của sự phục hồi kinh tế, nhiều ngân hàng còn gặp khó khăn trong việc giải quyết nợ xấu cũng như tìm cách kiểm soát các khoản nợ tiềm ẩn rủi ro tín dụng. Do đó, việc lựa chọn cổ phiếu ngân hàng để đầu tư vào giai đoạn cuối năm cần xem xét các yếu tố:
- Chất lượng tài sản: các ngân hàng có chất lượng tài sản tốt sẽ có nhiều dư địa giảm chi phí dự phòng cụ thể là vào năm 2025.
- Chi phí vốn: ưu tiên những ngân hàng có lợi thế cạnh tranh về chi phí vốn sẽ giúp họ có nhiều cơ hội để duy trì NIM và gia tăng thị phần trong bối cảnh nhu cầu tín dụng dần phục hồi.
=> Các lựa chọn hàng đầu cho các tiêu chí trên bao gồm: ACB, VCB, CTG và BID.
- Ngoài ra, sự phục hồi của thị trường bất động sản: sẽ phần nào cải thiện tâm lý và lòng tin của nhà đầu tư vào thị trường bất động sản. Kỳ vọng điều này sẽ dần lan tỏa vào thị trường miền Nam.
=> Trong trường hợp thị trường bất động sản phục hồi nhanh hơn dự kiến và các vấn đề pháp lý được giải quyết trong năm 2025 => Những ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với nhiều chủ đầu tư bất động sản sẽ được hưởng lợi. => Có thể theo dỏi, giải ngân với TCB, VCB và MBB.
Luận điểm chi tiết từng ngân hàng sẽ được đưa lên ở bài viết sau!
Một mã ngân hàng được khuyến nghị mua với tiềm năng tăng giá 17,4%
Chứng khoán Shinhan Việt Nam đã đưa ra khuyến nghị mua cổ phiếu VCB của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) với giá mục tiêu năm 2025 là 109.400 đồng/cổ phiếu, tương đương tiềm năng tăng 17,4%.
Muốn 'lột xác', Big 4 cũng cần trợ lực
Trong quá trình tái cơ cấu hệ thống các TCTD, nhu cầu tăng vốn của 4 NHTM có vốn nhà nước luôn là một vấn đề cấp thiết, và nhóm này đang cần nhiều hỗ trợ từ phía Nhà nước trong việc nâng vốn điều lệ.
Nhu cầu tăng vốn cao
Tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, Chính phủ đã trình việc đầu tư bổ sung vốn nhà nước tại Vietcombank với số tiền 20.695 tỷ đồng, thông qua việc chia cổ tức bằng cổ phiếu cho cổ đông nhà nước, từ nguồn lợi nhuận còn lại lũy kế đến hết năm 2018 và lợi nhuận còn lại năm 2021 của Vietcombank.
Căn cứ quy định tại Điều 17 Luật 69/2014/QH13, với mức vốn nhà nước đầu tư bổ sung này, Quốc hội sẽ có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư. Trên cơ sở đó, Thủ tướng Chính phủ sẽ ban hành quyết định đầu tư vốn.
Hiện vốn điều lệ của Vietcombank thấp hơn nhiều so với VPBank, Techcombank. Cuối năm 2023, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của Vietcombank là 11,05%, mức đảm bảo quy định nhưng thấp hơn so với nhóm các NHTMCP và thấp hơn nhiều các NH trong khu vực châu Á và Đông Nam Á.
Trường hợp Vietcombank phải chia cổ tức bằng tiền mặt đối với toàn bộ phần lợi nhuận sau thuế, sau trích lập các quỹ, không được trả cổ tức bằng cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, hệ số CAR sẽ giảm xuống mức 6,28%, thấp hơn yêu cầu tối thiểu của NHNN. Và không chỉ thiếu vốn năm 2024, Vietcombank còn thiếu hụt tới 118.166 tỷ đồng cả giai đoạn 2024-2026, nếu muốn đáp ứng các tỷ lệ an toàn theo quy định hiện hành.
Tăng vốn không chỉ là câu chuyện riêng của Vietcombank. Trong phiên thảo luận tổ sáng ngày 26-10 về chủ trương đầu tư bổ sung vốn nhà nước tại Vietcombank, ông Phạm Đức Ấn, đại biểu Quốc hội đoàn Hà Nội, cũng là Chủ tịch Hội đồng Thành viên (HĐTV) Agribank, cho rằng cần có cơ chế cho phép các NHTMCP nhà nước chủ động tăng vốn.
Bởi Agribank cùng với Vietcombank, VietinBank và BIDV là 4 NHTM có vốn nhà nước với dư nợ chiếm khoảng 44,5% toàn hệ thống, có vai trò dẫn dắt, thực thi chính sách tiền tệ rất tốt, là một công cụ rất quan trọng của NHNN để điều tiết thị trường, nhưng vốn điều lệ hiện nay còn thấp hơn một số NHTMCP.
Theo quy định, nếu muốn tăng trưởng tín dụng 10%/năm, mỗi năm các NH trong nhóm này phải tăng vốn trên 10.000 tỷ đồng. Nhưng muốn bổ sung vốn nhà nước từ 10.000 tỷ đồng trở lên sẽ phải trình Quốc hội thông qua.
Cần cơ chế hỗ trợ
Hơn 10 năm nay, việc xây dựng một vài NH có quy mô tầm khu vực đã được đặt ra trong các đề án tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng. Gần đây, tại buổi làm việc với các NHTMCP, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã nhắc lại yêu cầu ngành NH phấn đấu đến cuối năm 2025, có ít nhất từ 2-3 NHTM nằm trong nhóm 100 NH lớn mạnh nhất trong khu vực châu Á. Ở thời điểm này, 3 NH kể trên vẫn nằm trong nhóm kỳ vọng, song năng lực toàn diện nhìn chung vẫn còn khó khăn.
Trên Bảng xếp hạng 500 NH mạnh nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương năm 2023 của The Asian Banker, TPBank vượt trội hơn so với các NH trong nước với thứ hạng 165/500, còn Vietcombank xếp hạng 190, MB hạng 221, Techcombank hạng 226, ACB hạng 230, VietinBank hạng 266, BIDV hạng 275, LPBank hạng 275, Agribank hạng 288.
Bảng xếp hạng này dựa trên 6 tiêu chí cùng với 14 yếu tố cụ thể về quy mô tài sản, tốc độ tăng trưởng, quản trị rủi ro, khả năng sinh lời, chất lượng tài sản và tính thanh khoản.
Cũng theo bảng xếp hạng này, NH xếp thứ 100 của khu vực là Hua Nan Bank (Đài Loan), có mức tổng tài sản 119 tỷ USD. Trong khi đó, tổng tài sản của Vietcombank chỉ khoảng 77 tỷ USD, tương đương 65% mức tổng tài sản của Hua Nan Bank. Như vậy cho thấy quãng đường để các NHTM Việt Nam tiến đến top 100 NH lớn mạnh nhất trong khu vực vẫn còn rất xa.
Trình bày Báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cũng cho biết, việc đầu tư bổ sung vốn nhà nước tại Vietcombank nhằm nâng cao năng lực tài chính, bảo đảm các tỷ lệ an toàn và hướng tới chuẩn mực quốc tế theo Hiệp ước Basel III, mở rộng hoạt động tín dụng, trong đó có các dự án quan trọng quốc gia có nhu cầu vốn lớn; tiếp tục phát huy vai trò chủ đạo trong thực hiện các chính sách của Nhà nước, hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường năng lực cạnh tranh, tăng uy tín trong nước và quốc tế, vươn tầm khu vực theo mục tiêu đã đặt ra tại Chiến lược phát triển ngành NH đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
Tuy nhiên để chủ động hơn, đại biểu Quốc hội Phạm Đức Ấn đề xuất, nếu 4 NHTM nhà nước năm nào cũng phải xin ý kiến các bộ ngành trình Chính phủ, Chính phủ trình Quốc hội thông qua sẽ tốn rất nhiều thủ tục và mất nhiều thời gian của Quốc hội, vì vậy nên xây dựng một cơ chế cho phép các NHTM nhà nước được tăng vốn từ nguồn lợi nhuận giữ lại.
Dẫu vậy, theo một chuyên gia kinh tế, muốn các NH này phát triển lớn mạnh hơn, không chỉ bổ sung vốn nhà nước mà cần tính đến việc giảm tỷ lệ sở hữu nhà nước tại những NH đã cổ phần hóa xuống mức 65%, để lại thị trường 35% đưa vào niêm yết trên thị trường chứng khoán, trở thành NH công cộng, công ty đại chúng để tăng vốn.
Mức này cũng phù hợp với quy định tại Quyết định số 22/2021/QĐ-TTg về tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước thực hiện chuyển đổi sở hữu, sắp xếp lại, thoái vốn giai đoạn 2021-2025.
Chuyên gia này nhấn mạnh, hiện nay Nhà nước sở hữu 74,8% vốn điều lệ tại Vietcombank, 81% tại BIDV, nên nhà nước vừa muốn lấy cổ tức vừa muốn lành mạnh hóa các NH là điều rất khó. Thậm chí cho phép giữ lại vốn, không chia cổ tức để tăng vốn cũng chưa đủ để các NH này nhanh chóng trở thành “người khổng lồ”. Vì nguồn này cũng có giới hạn và phải trải qua nhiều thủ tục để xin tăng vốn.
Thời gian qua, các nhà băng này cũng đẩy mạnh phát hành trái phiếu để tăng vốn tự có, đáp ứng hệ số CAR và mở rộng hoạt động mà không cần giảm tỷ lệ sở hữu qua phát hành cổ phiếu. Nhưng nguồn vốn này không cố định và phải giảm dần theo thời gian.
Diễn biến thị trường thế giới
Giá gạo giảm khi nguồn cung dồi dào. Hợp đồng tương lai gạo giao dịch dưới mức 15 USD/cwt khi các nhà giao dịch đánh giá triển vọng cung và cầu. Báo cáo WASDE tháng 10 từ Bộ Nông nghiệp Mỹ cho thấy triển vọng nguồn cung cho Mỹ trong năm 2024/25 tăng nhẹ.
- Trên toàn cầu, nguồn cung tăng 5.6 triệu tấn lên 710.3 triệu tấn, chủ yếu do tồn kho đầu kỳ cao hơn và sản lượng kỷ lục tại Ấn Độ.
- Đồ thị giá gạo giảm 1.9% trong ngày giao dịch 04/11/2024. Khả năng giá gạo sẽ tiếp tục giảm và kiểm định lại vùng hỗ trợ quanh mức 14.3 USD/cwt.
- Xu hướng ngắn hạn vẫn đang duy trì ở mức GIẢM.
Giá khí tự nhiên giảm do nhu cầu giảm:
- Hợp đồng tương lai khí tự nhiên của Mỹ đã giảm xuống dưới 2.7 USD/MMBtu do dự báo thời tiết ôn hòa kéo dài đến cuối tháng 11.
- Sản lượng khí đốt trung bình của Mỹ đã giảm xuống 100.9 tỷ cfd trong tháng 11, giảm so với tháng 10.
- Đồ thị giá khí tự nhiên giảm 4% trong ngày giao dịch 05/11/2024. Khả năng giá khí tự nhiên sẽ tiếp tục giảm và kiểm định lại vùng hỗ trợ quanh 2.6 USD/MMBtu.
- Xu hướng ngắn hạn vẫn đang duy trì ở mức TĂNG.
Phố Wall tăng mạnh trong ngày bầu cử:
- S&P 500 tăng 1.2%, Nasdaq 100 tăng 1.4%, và Dow Jones tăng hơn 427 điểm.
- Tất cả các lĩnh vực đều tăng, dẫn đầu là tiêu dùng không thiết yếu, công nghiệp, tiện ích và công nghệ. Các nhà sản xuất chip tăng mạnh, với Nvidia tăng 2.8%, Intel tăng 3.6%, và Broadcom tăng 3.2%.
- Boeing giảm 2.5% sau khi công nhân chấp thuận thỏa thuận lao động mới.
- Đồ thị giá của chỉ số Dow Jones đóng cửa tăng 1% trong ngày giao dịch 05/11/2024. Khả năng Dow Jones sẽ tiếp tục tăng và kiểm định lại vùng kháng cự quanh 42,444 điểm.
- Xu hướng ngắn hạn của cả ba chỉ số vẫn đang duy trì ở mức GIẢM.
Diễn biến thị trường Việt Nam
- Khối ngoại bán ròng 870 tỷ: Nhóm Bất động sản tiếp tục bị bán ròng mạnh.
- Tự doanh bán ròng 516 tỷ.
Chỉ số VNINDEX – Giao dịch quanh vùng hỗ trợ:
- Chỉ số VNINDEX đóng cửa ở mức 1245.76 điểm (+0.08%) với khối lượng giao dịch giảm mạnh 46% so với phiên giao dịch trước đó.
- Điểm tích cực là đồ thị giá vẫn biến động trên mức hỗ trợ ngắn hạn 1240 và các chỉ báo kỹ thuật đang giảm vào vùng quá bán.
- Kịch bản "đẹp nhất" là thị trường về vùng này sẽ có những nhịp bật lại. Tuy nhiên các anh chị nào cầm cổ phiếu vẫn đang lỗ vẫn nên đợi những nhịp hồi hạ 50% tỷ trọng. Anh chị nào cầm tiền lời muốn mua thì hãy chờ đợi thị trường có nhịp tăng thật sự rồi mua sau nhưng an toàn
交易股票、貨幣、商品、期貨、債券、基金等金融工具或加密貨幣屬高風險行為,這些風險包括損失您的部分或全部投資金額,所以交易並非適合所有投資者。
做出任何財務決定時,應該進行自己的盡職調查,運用自己的判斷力,並諮詢合格的顧問。本網站的內容並非直接針對您,我們也未考慮您的財務狀況或需求。本網站所含資訊不一定是即時提供的,也不一定是準確的。本站提供的價格可能由造市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他財務決定均應完全由您負責,並且您不得依賴通過網站提供的任何資訊。我們不對網站中的任何資訊提供任何保證,並且對因使用網站中的任何資訊而可能造成的任何交易損失不承擔任何責任。
未經本站書面許可,禁止使用、儲存、複製、展現、修改、傳播或分發本網站所含數據。提供本網站所含數據的供應商及交易所保留其所有知識產權。