行情
新聞
分析
使用者
快訊
財經日曆
學習
數據
- 名稱
- 最新值
- 前值
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
無匹配數據
最新觀點
最新觀點
最近更新
港股投資的風險預警
儘管香港法律體系和監管框架相對健全,但港股市場仍存在一些特定的風險和挑戰,如港幣與美元掛鉤,外地投資者可能會面臨匯率波動;中國內地的政策變化和經濟狀況對港股的影響等 。
投資港股費用架構與稅務
港股市場的交易成本包括總投資成本為買賣股票的交易費用、印花稅、結算費用等,對於外地投資者,可能會涉及兌換港幣所產生匯率轉換費用,以及依照所在地的相關法規需繳納的稅款。
港股產業分析:非必需消費產業
港股市場非必需消費產業涵蓋汽車、教育、旅遊、餐飲、服飾等多個領域,在643家上市公司中35%為中國內地公司,佔總市值的65%,因此受中國經濟影響深遠。
港股產業分析:地產建築業
地產建築業在港股指數中的份額近年來已明顯下降,但截至2022年,它依然在市場上佔有約10%的份額。 包含了房地產開發、建築工程、房地產投資和物業管理等各個方面。
中國·香港
越南·胡志明
杜拜
奈及利亞·拉各斯
埃及·開羅
查看所有搜尋結果
暫無數據
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) dự kiến tiếp tục giữ vai trò then chốt trong nền kinh tế Việt Nam những năm tới. Với các doanh nghiệp FDI trên sàn chứng khoán Việt Nam, bức tranh hoạt động trong những năm qua có gì?
Hoạt động niêm yết chững lại từ năm 2017, các gương mặt cũ thiếu sức hút
Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện có 10 doanh nghiệp FDI; trong đó, 6 doanh nghiệp đang niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán TPHCM , Công nghiệp Gốm sứ Taicera (TCR), Mirae (KMR), Thành Thành Công - Biên Hòa (SBT), Everpia (EVE), Siam Brothers Việt Nam (SBV); 1 doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) là Công nghiệp Tung Kuang (TKU); 3 doanh nghiệp giao dịch trên thị trường UPCoM gồm Quốc tế Hoàng Gia (RIC), Gạch men Chang Yih (CYC), Thực phẩm Quốc tế (IFS).
CTCP Thành Thành Công - Biên Hòa tiền thân là Công ty TNHH Mía Đường Bourbon Tây Ninh. Công ty thành lập năm 1995, là liên doanh giữa Tập đoàn Bourbon (Pháp), Liên hiệp Mía Đường II và Liên hiệp Mía Đường Tây Ninh, vốn đầu tư 95 triệu USD. Đến năm 2000, Mía Đường Bourbon Tây Ninh trở thành công ty 100% vốn nước ngoài sau khi 2 đối tác Việt Nam rút lui.
Năm 2007, Tập đoàn Bourbon đã chuyển nhượng một phần sở hữu và chính thức niêm yết cổ phiếu lên HOSE từ ngày 25/02/2008 với mã SBT.
Năm 2013, Công ty đổi tên thành CTCP Mía Đường Thành Thành Công Tây Ninh. Đến năm 2016 thì hoàn tất thương vụ sáp nhập với Đường Biên Hòa và đổi tên thành CTCP Thành Thành Công - Biên Hòa. Tính đến 31/12/2024, SBT có vốn chủ sở hữu hơn 7,621 tỷ đồng, 2 cổ đông lớn là CTCP Đầu tư Thành Thành Công (Đầu tư TTC) nắm 21.86% và Lengendary Venture Fund 1 (Singapore) nắm 16.43%. Trong đó, Đầu tư TTC là hạt nhân trong hệ sinh thái TTC Group của ông Đặng Văn Thành.
Trước đây, có 11 doanh nghiệp FDI niêm yết. Tuy nhiên, 4 trong số đó đã hủy niêm yết do hoạt động kinh doanh không hiệu quả, bao gồm RIC, CYC, IFS chuyển từ HOSE sang UPCoM và Full Power (FPC) hoàn toàn rời sàn chứng khoán.
Cách đây hơn 20 năm, Chính phủ đã ban hành Nghị định 38/2003/NĐ-CP, cho phép một số doanh nghiệp FDI niêm yết cổ phiếu lên sàn chứng khoán. Thực tế, việc niêm yết của các doanh nghiệp FDI đã trải qua nhiều giai đoạn, sôi động nhất là từ năm 2003 -2008 với 10 doanh nghiệp được chấp thuận chuyển đổi từ công ty TNHH sang CTCP và niêm yết. Doanh nghiệp FDI gần nhất niêm yết là SBV vào năm 2017, kể từ đó chưa ghi nhận thêm trường hợp nào niêm yết mới.
Xét theo nhóm ngành, vật liệu xây dựng và dệt may đóng góp 4 doanh nghiệp trên tổng số 10 doanh nghiệp FDI trên sàn.
Quá trình niêm yết chững lại, những gương mặt cũ cũng thể hiện sức hút không cao đối với nhà đầu tư. Tính trong năm gần nhất (22/02/2024 - 21/02/2025), thanh khoản bình quân mỗi phiên của các cổ phiếu này đa phần dưới mốc 10,000 cp, thậm chí CYC chỉ ở mức 33 cp. Các trường hợp có thanh khoản bình quân cao hơn là KMR hơn 36,000 cp, EVE hơn 74,000 cp và SBT vượt trội với hơn 2.4 triệu cp.
Tại thời điểm 31/12/2024, vốn hóa thị trường của 10 doanh nghiệp FDI trên sàn đạt gần 14,470 tỷ đồng, chỉ chiếm khoảng 0.2% vốn hóa toàn thị trường chứng khoán Việt Nam.
Bức tranh kinh doanh phân hóa
Theo thống kê của Bộ Tài chính, đến cuối năm 2023, trong khoảng 29,000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), có tới 16,292 doanh nghiệp báo lỗ; 18,140 doanh nghiệp lỗ lũy kế, tổng giá trị lỗ lũy kế gần 1 triệu tỷ đồng. Số tiền nộp ngân sách nhà nước trong năm 2023 cũng giảm gần 4,000 tỷ đồng so với năm 2022. Việc hơn 50% doanh nghiệp FDI lỗ được nhiều chuyên gia nhận định là một dấu hiệu đáng lo ngại.
Theo VietstockFinance, bắt đầu từ giai đoạn thị trường không ghi nhận thêm doanh nghiệp FDI niêm yết mới (2017) đến hết năm 2024, bức tranh kinh doanh của các doanh nghiệp FDI trên sàn chứng khoán có sự phân hóa mạnh mẽ.
Trong 8 doanh nghiệp đã công bố số liệu kết quả kinh doanh lũy kế năm 2024, 5 doanh nghiệp có lãi, gồm SBT (lũy kế 4 quý gần nhất), IFS, TYA, TKU, KMR. Trong đó, SBT, TYA tăng trưởng so với cùng kỳ năm 2023 và TKU chuyển lãi.
Lũy kế 4 quý gần nhất, SBT lãi ròng hơn 813 tỷ đồng, tăng 47%. Trong quý gần nhất, sản lượng tiêu thụ đạt gần 360 ngàn tấn đường, tăng 4% so với quý liền trước và tăng 11% so với cùng kỳ. Đặc biệt, kênh nội địa tăng trưởng 37%, nhờ vào đóng góp từ kênh công nghiệp (B2B) và kênh thương mại (trader).
TYA năm 2024 mang về lãi ròng gấp 81 lần, đạt gần 78 tỷ đồng, cao nhất kể từ năm 2020 và chấm dứt xu hướng suy giảm liên tục nhiều năm. Kết quả tích cực này được hỗ trợ bởi việc tiêu thụ sản phẩm tích cực, nhờ nhu cầu dây cáp điện trong xây xưởng và lắp đặt thiết bị sản xuất của đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng lên, đồng thời kiểm soát hiệu quả giá PVC nguyên liệu đầu vào, giảm chi phí sản xuất và lãi vay ngân hàng.
Với TKU, sau khi lỗ gần 37 tỷ đồng trong năm 2023, Công ty đã nhanh chóng chuyển trạng thái sang lãi ròng hơn 60 tỷ đồng. Doanh nghiệp ngành nhôm này cải thiện biên lãi gộp 11.4 điểm phần trăm, lên gần 16.3%; đồng thời chi phí tài chính giảm hơn một nửa, nhờ giảm lãi vay và lỗ chênh lệch tỷ giá.
Với trường hợp của RIC và CYC, dù chưa có số liệu lợi nhuận lũy kế năm 2024, nhưng kết quả của các năm trước đó đã đủ phản ánh sự khó khăn trong hoạt động kinh doanh. Trong đó, RIC lỗ liên tục từ năm 2019 còn CYC lỗ liên tục từ năm 2014.
Chịu tình cảnh trái ngược là 3 doanh nghiệp lỗ ròng trong năm 2024, gồm SBV và EVE chuyển lỗ, TCR tiếp tục lỗ. Xét trong chu kỳ dài hơn, các doanh nghiệp này cho thấy kết quả kinh doanh ngày càng kém hiệu quả.
SBV - doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh chính là sản xuất dây PP, dây PE, dây thừng bện dùng trong nông ngư nghiệp - cho biết, đã đẩy mạnh phát triển thị trường quốc tế, tuy nhiên sản phẩm bán cho các khách hàng này đều mới và khác với sản phẩm truyền thống, quy trình sản xuất chưa quen, công nhân vận hành từng công đoạn chưa thành thạo, một số công đoạn phải gia công ngoài, một số nguyên liệu khan hiếm, chi phí sản xuất tăng cao dẫn đến lỗ ròng hơn 30 tỷ đồng. Đây cũng năm đầu tiên SBV chịu lỗ trong một năm tài chính, kể từ khi cổ phần hóa vào năm 2009.
Về phần EVE, doanh nghiệp ngành dệt may lỗ ròng gần 32 tỷ đồng. Doanh thu suy giảm 6%, chủ yếu kênh bán B2B - đơn hàng khách sạn, doanh nghiệp giảm 9%, do nhiều dự án khách sạn tại khu vực phía Nam tạm ngưng thi công; ngành hàng bông tấm giảm 9%, do tính cạnh tranh cao, sự thay đổi về chính sách thu thuế; ngành hàng khăn giảm 57%, do thu hẹp sản xuất để tập trung nguồn lực cho các ngành hàng có biên lợi nhuận cao hơn. Không những vậy, EVE phải đối mặt với biên lãi gộp giảm, lợi nhuận hoạt động tài chính đi xuống, các khoản chi cho bán hàng, quản lý doanh nghiệp tăng lên.
Trong khi đó, TCR đánh đấu năm thứ hai liên tiếp thua lỗ với hơn 61 tỷ đồng. Việc không ghi nhận doanh thu từ thoái vốn công ty con như cùng kỳ, giá bán giảm trừ chi phí vận chuyển cho khách hàng và hàng loạt chi phí (gas, điện) tăng lên khiến TCR lỗ nặng hơn so với năm 2023.
Còn FPC, bị hủy niêm yết trên HOSE vào năm 2011 do lỗ trong 3 năm liên tiếp (từ 2008-2010). Doanh nghiệp tiếp tục chuỗi lỗ ròng, gần nhất là 5 năm lỗ liên tiếp từ 2020-2024, kéo theo vốn chủ sở hữu âm gần 350 tỷ đồng tại thời điểm 31/12/2024.
Huy Khải
FILI - 10:00:00 28/02/2025
Doanh nghiệp FDI trên sàn chứng khoán đang làm ăn ra sao?
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) dự kiến tiếp tục giữ vai trò then chốt trong nền kinh tế Việt Nam những năm tới. Với các doanh nghiệp FDI trên sàn chứng khoán Việt Nam, bức tranh hoạt động trong những năm qua có gì?
Hoạt động niêm yết chững lại từ năm 2017, các gương mặt cũ thiếu sức hút
Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện có 10 doanh nghiệp FDI; trong đó, 6 doanh nghiệp đang niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán TPHCM (HOSE) gồm: Dây và Cáp điện Taya Việt Nam (TYA), Công nghiệp Gốm sứ Taicera (TCR), Mirae (KMR), Thành Thành Công - Biên Hòa (SBT), Everpia (EVE), Siam Brothers Việt Nam (SBV); 1 doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) là Công nghiệp Tung Kuang (TKU); 3 doanh nghiệp giao dịch trên thị trường UPCoM gồm Quốc tế Hoàng Gia (RIC), Gạch men Chang Yih (CYC), Thực phẩm Quốc tế (IFS).
CTCP Thành Thành Công - Biên Hòa tiền thân là Công ty TNHH Mía Đường Bourbon Tây Ninh. Công ty thành lập năm 1995, là liên doanh giữa Tập đoàn Bourbon (Pháp), Liên hiệp Mía Đường II và Liên hiệp Mía Đường Tây Ninh, vốn đầu tư 95 triệu USD. Đến năm 2000, Mía Đường Bourbon Tây Ninh trở thành công ty 100% vốn nước ngoài sau khi 2 đối tác Việt Nam rút lui.
Năm 2007, Tập đoàn Bourbon đã chuyển nhượng một phần sở hữu và chính thức niêm yết cổ phiếu lên HOSE từ ngày 25/02/2008 với mã SBT.
Năm 2013, Công ty đổi tên thành CTCP Mía Đường Thành Thành Công Tây Ninh. Đến năm 2016 thì hoàn tất thương vụ sáp nhập với Đường Biên Hòa và đổi tên thành CTCP Thành Thành Công - Biên Hòa. Tính đến 31/12/2024, SBT có vốn chủ sở hữu hơn 7,621 tỷ đồng, 2 cổ đông lớn là CTCP Đầu tư Thành Thành Công (Đầu tư TTC) nắm 21.86% và Lengendary Venture Fund 1 (Singapore) nắm 16.43%. Trong đó, Đầu tư TTC là hạt nhân trong hệ sinh thái TTC Group của ông Đặng Văn Thành.
Trước đây, có 11 doanh nghiệp FDI niêm yết. Tuy nhiên, 4 trong số đó đã hủy niêm yết do hoạt động kinh doanh không hiệu quả, bao gồm RIC, CYC, IFS chuyển từ HOSE sang UPCoM và Full Power (FPC) hoàn toàn rời sàn chứng khoán.
Cách đây hơn 20 năm, Chính phủ đã ban hành Nghị định 38/2003/NĐ-CP, cho phép một số doanh nghiệp FDI niêm yết cổ phiếu lên sàn chứng khoán. Thực tế, việc niêm yết của các doanh nghiệp FDI đã trải qua nhiều giai đoạn, sôi động nhất là từ năm 2003 -2008 với 10 doanh nghiệp được chấp thuận chuyển đổi từ công ty TNHH sang CTCP và niêm yết. Doanh nghiệp FDI gần nhất niêm yết là SBV vào năm 2017, kể từ đó chưa ghi nhận thêm trường hợp nào niêm yết mới.
Xét theo nhóm ngành, vật liệu xây dựng và dệt may đóng góp 4 doanh nghiệp trên tổng số 10 doanh nghiệp FDI trên sàn.
Nguồn: VietstockFinance
Quá trình niêm yết chững lại, những gương mặt cũ cũng thể hiện sức hút không cao đối với nhà đầu tư. Tính trong năm gần nhất (22/02/2024 - 21/02/2025), thanh khoản bình quân mỗi phiên của các cổ phiếu này đa phần dưới mốc 10,000 cp, thậm chí CYC chỉ ở mức 33 cp. Các trường hợp có thanh khoản bình quân cao hơn là KMR hơn 36,000 cp, EVE hơn 74,000 cp và SBT vượt trội với hơn 2.4 triệu cp.
Tại thời điểm 31/12/2024, vốn hóa thị trường của 10 doanh nghiệp FDI trên sàn đạt gần 14,470 tỷ đồng, chỉ chiếm khoảng 0.2% vốn hóa toàn thị trường chứng khoán Việt Nam.
Bức tranh kinh doanh phân hóa
Theo thống kê của Bộ Tài chính, đến cuối năm 2023, trong khoảng 29,000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), có tới 16,292 doanh nghiệp báo lỗ; 18,140 doanh nghiệp lỗ lũy kế, tổng giá trị lỗ lũy kế gần 1 triệu tỷ đồng. Số tiền nộp ngân sách nhà nước trong năm 2023 cũng giảm gần 4,000 tỷ đồng so với năm 2022. Việc hơn 50% doanh nghiệp FDI lỗ được nhiều chuyên gia nhận định là một dấu hiệu đáng lo ngại.
Theo VietstockFinance, bắt đầu từ giai đoạn thị trường không ghi nhận thêm doanh nghiệp FDI niêm yết mới (2017) đến hết năm 2024, bức tranh kinh doanh của các doanh nghiệp FDI trên sàn chứng khoán có sự phân hóa mạnh mẽ.
Trong 8 doanh nghiệp đã công bố số liệu kết quả kinh doanh lũy kế năm 2024, 5 doanh nghiệp có lãi, gồm SBT (lũy kế 4 quý gần nhất), IFS, TYA, TKU, KMR. Trong đó, SBT, TYA tăng trưởng so với cùng kỳ năm 2023 và TKU chuyển lãi.
Lũy kế 4 quý gần nhất, SBT lãi ròng hơn 813 tỷ đồng, tăng 47%. Trong quý gần nhất, sản lượng tiêu thụ đạt gần 360 ngàn tấn đường, tăng 4% so với quý liền trước và tăng 11% so với cùng kỳ. Đặc biệt, kênh nội địa tăng trưởng 37%, nhờ vào đóng góp từ kênh công nghiệp (B2B) và kênh thương mại (trader).
Bà Đặng Huỳnh Ức My - Chủ tịch HĐQT SBT cập nhật tình hình và kế hoạch kinh doanh của Công ty tại ĐHĐCĐ bất thường niên độ 2024 - 2025 với nhiều kỳ vọng
TYA năm 2024 mang về lãi ròng gấp 81 lần, đạt gần 78 tỷ đồng, cao nhất kể từ năm 2020 và chấm dứt xu hướng suy giảm liên tục nhiều năm. Kết quả tích cực này được hỗ trợ bởi việc tiêu thụ sản phẩm tích cực, nhờ nhu cầu dây cáp điện trong xây xưởng và lắp đặt thiết bị sản xuất của đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng lên, đồng thời kiểm soát hiệu quả giá PVC nguyên liệu đầu vào, giảm chi phí sản xuất và lãi vay ngân hàng.
Với TKU, sau khi lỗ gần 37 tỷ đồng trong năm 2023, Công ty đã nhanh chóng chuyển trạng thái sang lãi ròng hơn 60 tỷ đồng. Doanh nghiệp ngành nhôm này cải thiện biên lãi gộp 11.4 điểm phần trăm, lên gần 16.3%; đồng thời chi phí tài chính giảm hơn một nửa, nhờ giảm lãi vay và lỗ chênh lệch tỷ giá.
Với trường hợp của RIC và CYC, dù chưa có số liệu lợi nhuận lũy kế năm 2024, nhưng kết quả của các năm trước đó đã đủ phản ánh sự khó khăn trong hoạt động kinh doanh. Trong đó, RIC lỗ liên tục từ năm 2019 còn CYC lỗ liên tục từ năm 2014.
*Số liệu SBT là lũy kế từ ngày 01/01 - 31/12 của năm. Nguồn: VietstockFinance
Chịu tình cảnh trái ngược là 3 doanh nghiệp lỗ ròng trong năm 2024, gồm SBV và EVE chuyển lỗ, TCR tiếp tục lỗ. Xét trong chu kỳ dài hơn, các doanh nghiệp này cho thấy kết quả kinh doanh ngày càng kém hiệu quả.
SBV - doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh chính là sản xuất dây PP, dây PE, dây thừng bện dùng trong nông ngư nghiệp - cho biết, đã đẩy mạnh phát triển thị trường quốc tế, tuy nhiên sản phẩm bán cho các khách hàng này đều mới và khác với sản phẩm truyền thống, quy trình sản xuất chưa quen, công nhân vận hành từng công đoạn chưa thành thạo, một số công đoạn phải gia công ngoài, một số nguyên liệu khan hiếm, chi phí sản xuất tăng cao dẫn đến lỗ ròng hơn 30 tỷ đồng. Đây cũng năm đầu tiên SBV chịu lỗ trong một năm tài chính, kể từ khi cổ phần hóa vào năm 2009.
Về phần EVE, doanh nghiệp ngành dệt may lỗ ròng gần 32 tỷ đồng. Doanh thu suy giảm 6%, chủ yếu kênh bán B2B - đơn hàng khách sạn, doanh nghiệp giảm 9%, do nhiều dự án khách sạn tại khu vực phía Nam tạm ngưng thi công; ngành hàng bông tấm giảm 9%, do tính cạnh tranh cao, sự thay đổi về chính sách thu thuế; ngành hàng khăn giảm 57%, do thu hẹp sản xuất để tập trung nguồn lực cho các ngành hàng có biên lợi nhuận cao hơn. Không những vậy, EVE phải đối mặt với biên lãi gộp giảm, lợi nhuận hoạt động tài chính đi xuống, các khoản chi cho bán hàng, quản lý doanh nghiệp tăng lên.
Trong khi đó, TCR đánh đấu năm thứ hai liên tiếp thua lỗ với hơn 61 tỷ đồng. Việc không ghi nhận doanh thu từ thoái vốn công ty con như cùng kỳ, giá bán giảm trừ chi phí vận chuyển cho khách hàng và hàng loạt chi phí (gas, điện) tăng lên khiến TCR lỗ nặng hơn so với năm 2023.
Công nghiệp gốm sứ Taicera thua lỗ liên tiếp trong hai năm qua - Ảnh: TCR
Còn FPC, bị hủy niêm yết trên HOSE vào năm 2011 do lỗ trong 3 năm liên tiếp (từ 2008-2010). Doanh nghiệp tiếp tục chuỗi lỗ ròng, gần nhất là 5 năm lỗ liên tiếp từ 2020-2024, kéo theo vốn chủ sở hữu âm gần 350 tỷ đồng tại thời điểm 31/12/2024.
Nguồn: VietstockFinance
Lợi nhuận nhiều doanh nghiệp dệt may lập đỉnh trong năm 2024 nhờ nhu cầu hồi phục, nhưng bức tranh toàn ngành vẫn chưa thể trọn vẹn. Khi những tên tuổi lớn hưởng "mùa vàng" lợi nhuận, một số doanh nghiệp nhỏ vẫn loay hoay vòng xoáy thua lỗ với tương lai đầy bất định.
"Vượt sóng" ngoạn mục
Năm 2024, ngành dệt may Việt Nam ghi nhận sự hồi phục mạnh mẽ với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 44.44 tỷ USD, tăng 10.3% so với năm trước. Trong đó, xuất khẩu hàng may mặc tăng 11.2%, giày dép tăng 13%; trong khi xuất khẩu xơ sợi gần như không tăng trưởng.
Mỹ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, đạt 16.2 tỷ USD, tăng 11.7% so với 2023. Xuất khẩu sang EU và Nhật Bản cũng khởi sắc, cùng đạt 4.3 tỷ USD, tương ứng tăng 13% và 14.6%. Đáng chú ý, thị trường Hàn Quốc cũng có sự cải thiện đáng kể, từ 2.4 tỷ USD trong 9 tháng đầu năm lên 3.1 tỷ USD vào cuối năm.
Sự phục hồi của nhu cầu tiêu dùng toàn cầu đã tạo động lực lớn cho các doanh nghiệp dệt may trong nước. Tính chung cả năm 2024, tổng doanh thu thuần của 33 doanh nghiệp dệt may trên các sàn HOSE, HNX, UPCoM đạt hơn 83.3 ngàn tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ. Lãi ròng cũng tăng trưởng ấn tượng 66%, đạt gần 3 ngàn tỷ đồng.
Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), hầu hết doanh nghiệp đã có đơn hàng cho quý 1/2025 và đang đàm phán cho quý 2/2025. Biên lợi nhuận gộp cũng cải thiện đáng kể, đạt 13.2%, tăng hơn 2 điểm % so với cùng kỳ, nhờ các đơn hàng FOB - phân khúc có lợi nhuận cao - quay trở lại.
Gấm hoa cho kẻ mạnh
Năm 2024 chứng kiến 15/33 doanh nghiệp dệt may có tăng trưởng lợi nhuận. May Nhà Bè (MNB) dẫn đầu ngành với lãi ròng tăng 168%, đạt hơn 85 tỷ đồng. Riêng quý 4, lãi ròng của MNB đạt 31 tỷ đồng, gấp hơn 9 lần so với cùng kỳ, nhờ doanh thu tăng 47% và đóng góp tích cực từ các công ty con.
Nhiều doanh nghiệp lớn khác cũng phục hồi vượt bậc, như "ông lớn" Vinatex (VGT) đạt lãi ròng 372 tỷ đồng, tăng 125%. Dệt may Thành Công (TCM) lãi 276 tỷ đồng, tăng 109%. May Việt Tiến (VGG) lãi gần 350 tỷ đồng, tăng 83%, mức cao nhất trong 5 năm qua. Dệt may TNG đạt lợi nhuận kỷ lục 316 tỷ đồng, tăng 42%. Dệt may Hòa Thọ (HTG) cũng lập kỷ lục với 281 tỷ đồng, tăng 63%.
Quán quân lợi nhuận năm 2024 của ngành thuộc về May Sông Hồng (MSH) với 410 tỷ đồng, tăng 68% so với năm trước. Đặc biệt, quý 4 của MSH ghi nhận mức lãi cao nhất trong lịch sử, đạt 170 tỷ đồng, tăng 109% nhờ doanh thu tăng và tiết giảm chi phí hiệu quả.
May Sông Hồng có quý lãi ròng cao nhất lịch sử hoạt động
Chông gai cho kẻ yếu
Vẫn còn đó "nốt trầm" trong bức tranh tươi sáng của ngành, một số doanh nghiệp tiếp tục thua lỗ kéo dài; điểm chung là phải đối mặt với những thách thức từ thị trường, như biến động tỷ giá, chi phí nguyên vật liệu tăng cao, và yêu cầu ngày càng khắt khe về chất lượng và bền vững.
Mặc dù đạt doanh thu trên ngàn tỷ đồng trong năm 2024, hai công ty Dệt May Nam Định (NDT) và Hanosimex (HSM) vẫn báo lỗ ròng lần lượt là 89 tỷ đồng và 71 tỷ đồng. Tuy mức lỗ đã giảm đáng kể so với năm trước, song gánh nặng lỗ lũy kế của hai công ty đã vượt 193 tỷ đồng và 169 tỷ đồng.
Fortex (FTM) lỗ nặng nhất ngành với 127 tỷ đồng, đánh dấu năm thứ 6 liên tiếp chìm trong thua lỗ. Tính đến cuối 2024, lỗ lũy kế của FTM đã vượt 1,216 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu âm 710 tỷ đồng.
Fortex nối dài mạch thua lỗ 6 năm liên tiếp
Everpia (EVE) cũng gây bất ngờ khi lần đầu tiên báo lỗ trong lịch sử, khoản lỗ 31.5 tỷ đồng do chi phí marketing, vận hành showroom và khấu hao nhà máy mới tăng cao, cùng với việc thu hẹp ngành hàng khăn.
Một trường hợp đáng chú ý khác là Garmex (GMC) - từng là doanh nghiệp may mặc hàng đầu TPHCM nhưng nay đối mặt với suy thoái nghiêm trọng do nhiều nguyên nhân, trong đó có hệ lụy từ đối tác Gilimex khởi kiện Amazon.
Garmex đã trải qua 3 năm liên tiếp thua lỗ. Chỉ tính riêng năm 2024, Công ty lỗ ròng 18 tỷ đồng, doanh thu thuần đạt vỏn vẹn 857 triệu đồng, giảm 90% so với năm trước, tương đương bình quân chỉ 2.3 triệu đồng/ngày. Tính đến cuối năm 2024, khoản lỗ lũy kế của GMC đã vượt quá 92 tỷ đồng, trong khi dòng tiền từ hoạt động kinh doanh âm hơn 23.5 tỷ đồng.
Do ngừng hoạt động sản xuất, kinh doanh chính từ 1 năm trở lên, cổ phiếu GMC còn bị HOSE hủy niêm yết bắt buộc và chuyển sang giao dịch trên UPCoM từ tháng 2/2025, nhưng ngay lập tức bị đưa vào diện hạn chế giao dịch.
Kết quả kinh doanh của Garmex đi xuống theo năm
Ngành xơ sợi phục hồi nhưng còn nhiều khó khăn
Các doanh nghiệp sản xuất xơ sợi - phân khúc thượng nguồn trong chuỗi giá trị dệt may - cũng cho thấy sự cải thiện, một số đơn vị tăng trưởng trở lại hoặc giảm lỗ đáng kể. X20 lãi ròng 45 tỷ đồng, tăng 123% so với năm trước. TCT Việt Thắng (TVT) lãi 24 tỷ đồng, tăng 100%. Phong Phú (PPH) lãi 366 tỷ đồng, tăng 17%.
Ở chiều ngược lại, một số doanh nghiệp xơ sợi vẫn đối mặt với lợi nhuận đi xuống, như Sợi Thế Kỷ (STK) báo lãi ròng năm 2024 giảm 48% còn gần 46 tỷ đồng, mức thấp nhất trong 8 năm. Mặc dù thoát lỗ trong nửa đầu năm nhờ hoàn nhập tỷ giá, thực tế STK chỉ có lãi từ quý 3. Nguyên nhân thua lỗ trong nửa đầu năm là do doanh số thấp và chi phí ngưng máy tăng. Sang quý 4, lãi ròng của STK giảm 47% so với cùng kỳ và 78% so với quý trước, chỉ còn 18 tỷ đồng.
Damsan (ADS) lãi kỷ lục 33 tỷ đồng trong quý 4 nhờ chuyển nhượng quyền thuê hạ tầng nhưng tính chung cả năm vẫn giảm 18%, chỉ còn 51 tỷ đồng.
Lãi ròng Damsan đạt đỉnh trong quý 4/2024
Triển vọng 2025: Kỳ vọng tăng trưởng bền vững
Bước sang năm 2025, ngành dệt may Việt Nam đặt mục tiêu xuất khẩu đạt 47-48 tỷ USD. Theo Chủ tịch VITAS Vũ Đức Giang, ngành sẽ chuyển hướng từ phát triển nhanh sang phát triển bền vững, với mục tiêu nâng tỷ lệ nội địa hóa lên 51-55% trong giai đoạn 2021-2025 và 56-60% vào giai đoạn 2026-2030.
Dưới góc nhìn của một số công ty chứng khoán, thị trường xuất khẩu dệt may Việt Nam có nhiều cơ hội tăng trưởng. Chứng khoán KB Việt Nam (KBSV) dự báo đơn hàng sẽ tiếp tục cải thiện khi nhu cầu tiêu dùng ở các thị trường trọng điểm sẽ phục hồi, hàng tồn kho của các nhà bán lẻ lớn đang ở mức hợp lý. Chứng khoán FPT (FTS) kỳ vọng Việt Nam sẽ giành thêm thị phần tại Mỹ và Nhật Bản khi xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng khỏi Trung Quốc diễn ra mạnh mẽ hơn.
Tuy nhiên, ngành cũng sẽ phải đối mặt với không ít thách thức như chính sách thuế mới của Mỹ, cạnh tranh từ các nước khác, và yêu cầu ngày càng cao về bền vững.
Chứng khoán Rồng Việt (VDS) nhận định xuất khẩu dệt may có thể duy trì tăng trưởng dương nhưng với tốc độ chậm lại trong nửa đầu năm 2025, do nhu cầu tiêu dùng toàn cầu chưa hoàn toàn phục hồi.
Bên cạnh đó, chính sách thuế mới của Mỹ dưới thời Tổng thống Donald Trump tạo ra cả cơ hội và rủi ro, khi Việt Nam có thể giành thêm đơn hàng từ Trung Quốc nhưng giá bán xuất khẩu có nguy cơ giảm do mức thuế mới.
Nhìn chung, năm 2025 được kỳ vọng sẽ là một năm tăng trưởng ổn định cho ngành dệt may, với điều kiện doanh nghiệp có chiến lược linh hoạt để thích ứng với biến động thị trường.
Thế Mạnh
FILI - 08:14:21 14/02/2025
Chủ sở hữu trà bí đao Wonderfarm liên tiếp phá đỉnh doanh thu, "dốc sạch" lợi nhuận thành cổ tức đem chia cho cổ đông
Cổ phiếu IFS cũng trở lại sàn chứng khoán vào đầu tháng 11/2016 khi đăng ký giao dịch trên UPCoM sau gần 3 năm hủy niêm yết.
Đơn cử năm 2024, Interfood đã chi khoảng 209 tỷ đồng để trả cổ tức trong khi lợi nhuận lũy kế cuối năm 2023 còn hơn 209 tỷ đồng, tương ứng lợi nhuận để lại chỉ vỏn vẹn vài chục triệu đồng.
Hành trình “thoát xác” ấn tượng
Cứ mỗi dịp Tết đến Xuân về, bên cạnh những món ăn truyền thống, việc lựa chọn thức uống cũng là một phần không thể thiếu trong văn hóa đón Tết của người Việt.
Trong số các loại nước giải khát được yêu thích như Coca Cola, Pepsi,… trà bí đao Wonderfarm của Công ty Cổ phần Thực phẩm Quốc tế (Interfood, mã: IFS) luôn chiếm một vị trí đặc biệt trên bàn tiệc ngày xuân, và còn hiện diện trên những mâm cỗ dịp hiếu, hỷ.
Hành trình của thương hiệu Wonderfarm bắt đầu từ cuối những năm 1991, khi Interfood được thành lập với lĩnh vực hoạt động chính là chế biến nông sản, thuỷ sản thành các sản phẩm đóng hộp để xuất khẩu.
Tới năm 2005, Interfood ký hợp đồng với Wonderfarm Biscuits and Confectionery để thuê thương hiệu Wonderfarm cho các sản phẩm của công ty. Thương hiệu trà bí đao Wonderfarm nhanh chóng làm mưa làm gió, đem về thị phần lớn cho công ty.
Tuy nhiên, biến cố lớn đã xảy ra với Interfood vào năm 2008 khi một số sản phẩm bánh của công ty có hàm lượng chất melamine vượt quá mức độ cho phép. Cũng trong năm 2008, công ty báo lỗ 267 tỷ đồng và kéo dài chuỗi thua lỗ nhiều năm sau đó. Tại thời điểm cuối năm 2010, nợ phải trả của IFS lên tới hơn 600 tỷ đồng, gần bằng tổng tài sản. Cổ phiếu IFS theo đó cũng buộc phải rời sàn chứng khoán vào cuối năm 2012.
Bước ngoặt vào năm 2011 khi cổ đông lớn Malaysia đã nhượng lại toàn bộ cổ phần Interfood cho Kirin (Tập đoàn sản xuất thực phẩm lớn tại Nhật Bản). Kirin sau đó đã có rất nhiều biện pháp cải thiện cơ cấu nợ của IFS, đồng thời phát triển nghiên cứu các sản phẩm, thị trường tiêu thụ mới cho công ty.
Kết quả, Interfood dưới bàn tay tái cấu trúc của tập đoàn Kirin bắt đầu có lãi từ năm 2016.
Cổ phiếu IFS cũng trở lại sàn chứng khoán vào đầu tháng 11/2016 khi đăng ký giao dịch trên UPCoM sau gần 3 năm hủy niêm yết. Từ mức giá khởi điểm 3.000 đồng/cp, đến nay thị giá đã xoay quanh mức 25.000 đồng/cp, tăng gấp 8 lần thời điểm đó. Vốn hóa thị trường đạt xấp xỉ 2.170 tỷ đồng.
Tiền mặt chiếm quá nửa tổng tài sản, đem hết lợi nhuận chia cổ tức cho cổ đông
Không chỉ tăng trưởng về giá cổ phiếu, hoạt động kinh doanh của Interfood cũng phục hồi mạnh mẽ trong giai đoạn 2016-2019. Sau giai đoạn ảnh hưởng bởi Covid-19, năm 2022 và 2023 chứng kiến sự hồi phục về cả doanh thu và lợi nhuận, liên tiếp lập đỉnh.
Sang năm 2024, Interfood ghi nhận doanh thu thuần đạt 1.973 tỷ đồng, tăng trưởng gần 6% so với mức kỷ lục cùng kỳ năm trước. Trong cơ cấu, doanh thu từ nước giải khát chiếm tỷ trọng lớn nhất 81,5%, mang lại hơn 1.608 tỷ đồng, còn lại là nguồn thu từ thực phẩm đóng hộp (357 tỷ) và bán phế liệu (7 tỷ).
Tính riêng quý 4/2024, IFS ghi nhận doanh thu 537 tỷ đồng, tăng nhẹ 2% so với cùng kỳ. Mức tăng khiêm tốn này được ký giải bởi ảnh hưởng từ thiên tai trong cuối quý 3/2024 ở miền Bắc.
Ngoài ra, chi phí giá vốn quý 4/2024 chiếm tỷ trọng tới 70% doanh thu thuần, tăng so với tỷ trọng 64% cùng kỳ năm ngoái do biến động tăng giá của nguyên liệu tươi đầu vào và tăng phí gia công từ nhà cung cấp. Do đó, giá thành sản phẩm tăng.
Kết quả, lợi nhuận sau thuế của Interfood trong quý 4 vừa qua đạt 25 tỷ đồng, sụt giảm tới 42%.
Tại thời điểm cuối năm 2024, tổng tài sản của Interfood đạt 1.476 tỷ đồng, tăng nhẹ 10 tỷ so với đầu năm. Trong đó, tiền và các khoản tương đương tiền ghi nhận hơn 971 tỷ đồng chiếm 66% tổng tài sản, Interfood duy trì khoản tiền gửi ngắn hạn 700 tỷ đồng.
Về phía nguồn vốn, vốn chủ sở hữu đạt 1.219 tỷ đồng chiếm tới 83% tổng nguồn vốn. Đáng chú ý, doanh nghiệp không ghi nhận nợ vay tài chính. Khoản lãi sau thuế chưa phân phối tính đến hết năm 2024 đạt gần 173 tỷ đồng.
Kể từ khi lỗ lũy kế được xóa hết từ năm 2021, Interfood năm nào cũng chia hết lợi nhuận thành cổ tức cho cổ đông. Đơn cử như năm 2022, lợi nhuận sau thuế chưa phân phối ghi nhận gần 156 tỷ đồng vào cuối năm. IFS đã chia cổ tức bằng tiền với tỷ lệ 17,8%, tương ứng chi ra hơn 155 tỷ đồng để trả cổ tức.
Sang năm 2024, Interfood đã chi khoảng 209 tỷ đồng để thanh toán cổ tức trong khi khoản lợi nhuận lũy kế cuối năm 2023 còn hơn 209 tỷ đồng, tương ứng lợi nhuận để lại chỉ vỏn vẹn vài chục triệu đồng.
Phần lớn cổ tức sẽ chảy về túi cổ đông nước ngoài là Kirin Holdings Singapore Pte. Ltd khi tổ chức này đang nắm đến gần 96% cổ phần của IFS.
CTCP Thực phẩm Quốc tế (Interfood, UPCoM: IFS) báo lãi ròng quý 4/2024 chỉ hơn 25 tỷ đồng, giảm 42% so với cùng kỳ năm trước, do chi phí đầu vào leo thang.
Theo BCTC quý 4/2024, doanh thu thuần của Interfood đạt gần 537 tỷ đồng, tăng nhẹ 2% so với cùng kỳ. Riêng mảng nước giải khát đóng góp hơn 81% tổng doanh thu.
Tuy nhiên, giá vốn tăng nhanh hơn tốc độ tăng doanh thu khiến lãi gộp giảm 14% còn dưới 163 tỷ đồng. Kết quả, lãi ròng quý 4 giảm mạnh 42% xuống còn 25 tỷ đồng.
Interfood lý giải giá vốn leo thang do biến động tăng giá một số nguyên liệu tươi và chi phí gia công từ nhà cung cấp.
Doanh thu kỷ lục
Tính chung năm 2024, thương hiệu trà bí đao Wonderfarm đạt 1,973 tỷ đồng doanh thu - mức cao nhất kể từ khi thành lập, tăng 6% so với năm 2023. Tuy nhiên, lãi ròng giảm 17% xuống còn 173 tỷ đồng, đạt 90% kế hoạch lợi nhuận cả năm.
Tính đến cuối năm 2024, tổng tài sản của Interfood đạt hơn 1,476 tỷ đồng, nhích nhẹ 1% so với đầu năm. Trong đó, tiền gửi ngân hàng chiếm hơn 970 tỷ đồng, tương đương 66% tổng tài sản.
Bên kia bảng cân đối, nợ phải trả tăng 22% so với đầu năm, đạt 257 tỷ đồng, phần lớn là phải trả người bán ngắn hạn. Interfood không có vay nợ tài chính.
Thế Mạnh
FILI - 11:09:00 17/01/2025
Nhiều doanh nghiệp dệt may báo lãi tăng bằng lần, lập những kỷ lục mới sau báo cáo tài chính quý 3, nhưng cũng có nơi tiếp tục chịu ảnh hưởng tiêu cực từ năm trước với không ít khó khăn.
Theo Tổng Cục Thống kê, 10 tháng đầu năm 2024, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đạt 30.57 tỷ USD, tăng 10.5% so với cùng kỳ 2023, trong đó các thị trường chủ lực đều tăng trưởng, đặc biệt ở Mỹ và EU.
Hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp cũng khởi sắc, nhiều nơi cho biết đã có đủ đơn hàng cho cả năm và đầu 2025. Kết quả tích cực này phần nào được thể hiện trong bức tranh kinh doanh của các doanh nghiệp dệt may trên sàn chứng khoán.
Dữ liệu của VietstockFinance cho thấy, trong 33 doanh nghiệp dệt may công bố kết quả kinh doanh quý 3/2024, có 16 doanh nghiệp tăng lãi, 7 doanh nghiệp giảm lãi, 6 doanh nghiệp có lãi trở lại, 4 doanh nghiệp lỗ.
Tổng doanh thu và lãi ròng của các doanh nghiệp đạt gần 23.1 ngàn tỷ đồng và 969 tỷ đồng, lần lượt tăng 17% và 133% so với cùng kỳ 2023. Biên lãi gộp cải thiện lên mức 13%, tăng 1 điểm phần trăm so với cùng kỳ.
Đa số "nở hoa"
Có 11/33 doanh nghiệp dệt may đạt mức tăng trưởng lợi nhuận ròng quý 3 trên 50% so cùng kỳ, thậm chí là tăng bằng lần như Tổng Công ty May Nhà Bè (MNB) hơn 8 lần cùng kỳ, đạt 32 tỷ đồng, cao nhất 2 năm qua.
MNB cho biết, do thị trường xuất khẩu chủ lực chuyển biến tích cực giúp doanh thu quý 3 tăng 36% lên hơn 1,300 tỷ đồng. Bên cạnh đó, một số công ty con, công ty liên kết tăng lợi nhuận do tiết giảm chi phí, làm tăng lợi nhuận hợp nhất.
Sợi Thế Kỷ (STK) lập kỷ lục lợi nhuận 82 tỷ đồng, gấp hơn 5 lần cùng kỳ, dù doanh thu đi lùi 19%, chủ yếu nhờ hoàn nhập chênh lệch tỷ giá. Kết quả này đã bù đắp khoản lỗ đậm 55.5 tỷ đồng của quý 2 trước đó.
Sợi Thế Kỷ có quý lãi ròng cao nhất lịch sử hoạt động
"Anh cả" ngành dệt may Vinatex (VGT) tăng trưởng cả về doanh thu và lợi nhuận, đạt 12% và 385% cùng kỳ, lần lượt gần 4,600 tỷ đồng và 129 tỷ đồng, đều là các con số cao nhất 2 năm qua.
Lãnh đạo Vinatex đánh giá, quý 3 ngành may có sự cải thiện cả về giá và số lượng đơn hàng, do tận dụng được sự dịch chuyển từ các thị trường Trung Quốc, Bangladesh và Myanmar. Với ngành sợi, thị trường dù vẫn còn nhiều khó khăn nhưng các đơn vị sợi có nhiều thời điểm chốt được giá bông, sợi tốt.
Quán quân lợi nhuận quý 3 gọi tên May Sông Hồng (MSH), đạt 130 tỷ đồng, hơn 2.5 lần cùng kỳ. Đây cũng là mức cao nhất 20 quý kể từ quý 4/2019. Công ty cho biết, đã ký được nhiều đơn hàng và một số đơn sản xuất trong quý 2 được xuất hàng vào đầu tháng 7.
May Sông Hồng có quý lãi cao nhất 5 năm qua
Lợi nhuận trăm tỷ còn có May Việt Tiến (VGG) và Dệt may TNG, đạt 117 tỷ đồng và 111 tỷ đồng, tăng lần lượt 126% và 60% cùng kỳ, do cải thiện biên lãi gộp nhờ kiểm soát tốt chi phí đầu vào.
Thông tin từ TNG cho biết, với lượng đơn hàng đủ sản xuất đến cuối năm, cùng với việc vừa đưa vào hoạt động thêm 45 chuyền may, doanh nghiệp này đang tuyển thêm khoảng 3,000 lao động, sẵn sàng nhận thêm đơn hàng thời gian tới.
Gam màu khởi sắc cũng xuất hiện ở nhóm doanh nghiệp xơ sợi, thuộc phân khúc thượng nguồn trong chuỗi giá trị ngành dệt may, như Sợi Vũ Đăng (SVD) và Sợi Phú Bài (SPB) đều có lãi trở lại; hay Tổng Công ty Việt Thắng (TVT) tăng trưởng lợi nhuận tới 145%, đạt gần 7 tỷ đồng, mức cao nhất 2 năm.
Số ít vẫn "bế tắc"
Ngược lại, cơn khủng hoảng vẫn đeo bám Fortex (FTM) khi lỗ thêm 30 tỷ đồng, nối dài mạch thua lỗ 23 quý liên tiếp kể từ quý 1/2019, qua đó nâng lỗ lũy kế lên 1,216 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu âm 707 tỷ đồng.
Fortex "ngụp lặn" trong thua lỗ từ 2019 đến nay
Thê thảm không kém, Everpia (EVE) lỗ kỷ lục 29.5 tỷ đồng do phải ngừng hoạt động sản xuất, kinh doanh ngành hàng khăn vì doanh số giảm liên tục trong 3 năm qua khi khách hàng tìm đến các đối thủ có giá thành thấp hơn. Everpia cho biết, đang xây kế hoạch phục hồi và phát triển 2024-2025 nhằm bảo toàn nguồn lực, tập trung vào những ngành hàng có lợi nhuận cao hơn, tiềm năng phát triển tốt hơn như chăn ga gối đệm và bông tấm.
Tình hình kinh doanh của Garmex (GMC) lệch pha hẳn so với mặt bằng chung của ngành. Đến cuối tháng 10, doanh nghiệp từng có hơn 4,000 lao động vẫn "trắng" đơn hàng, việc này kéo dài từ tháng 5/2023, tức gần một năm rưỡi qua. Hiện GMC chỉ còn 31 lao động, đang nghiên cứu đầu tư các ngành mới, tiết giảm chi phí và thanh lý các tài sản không sử dụng. Lỗ lũy kế tăng lên gần 82 tỷ đồng.
Kết quả kinh doanh hàng quý của Garmex giai đoạn 2021-2024
Khả năng về đích thành công?
Trước diễn biến tích cực của hoạt động xuất khẩu, Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS) đánh giá mục tiêu xuất khẩu 44 tỷ USD của ngành dệt may năm 2024 rất khả thi bởi cuối năm là cao điểm cho đơn hàng sản xuất mùa lễ hội Giáng sinh, năm mới.
Dù bức tranh xuất khẩu khá sáng, theo quan điểm của ông Cao Hữu Hiếu - Tổng Giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex), các doanh nghiệp vẫn phải chịu nhiều áp lực khi thị trường chưa có cải thiện đáng kể. Với ngành may áp lực về thời gian giao hàng, đơn giá chưa cải thiện, chất lượng sản phẩm yêu cầu khắt khe hơn.
"Dự kiến đơn hàng may mặc trong quý 4/2024 và quý 1/2025 sẽ tiếp tục dồi dào, tuy nhiên, đơn giá chưa cải thiện đáng kể. Trong dài hạn, khi chính sách cắt giảm lãi suất tại các thị trường lớn thực sự có tác động tích cực đối với nền kinh tế, tạo ra việc làm ổn định và sức mua, đơn giá sẽ cải thiện", ông Hiếu cho hay.
Với ngành sợi, mặc dù đã giảm lỗ 80-85% so với năm 2023, nhưng các doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn, bất lợi do phải đối mặt với sự trồi sụt của giá bông và chưa có sự cải thiện về giá bán sợi…
Tổng Giám đốc Vinatex kỳ vọng đến cuối năm 2024, giá bông sẽ đi lên trong ổn định và khả năng cao sẽ không tăng đột biến. Dự kiến quý 4, nhu cầu sợi nhìn chung chưa có khả năng phục hồi mạnh, bên cạnh đó giá cước vận chuyển tăng, cạnh tranh gay gắt với sợi nội địa Trung Quốc… sẽ khiến hiệu quả ngành sợi không có dấu hiệu cải thiện rõ rệt.
Không trông chờ may rủi thị trường
Nhận định về triển vọng ngành, ông Lê Tiến Trường - Chủ tịch HĐQT Vinatex dự báo, các đơn hàng sẽ được hưởng lợi khi nhu cầu tiêu dùng Mỹ cải thiện vào dịp mua sắm mùa lễ hội (nhưng đơn giá chưa cải thiện). Nhu cầu và đơn giá chỉ thực sự cải thiện từ năm 2025 trong kịch bản tốt.
Chủ tịch Vinatex cũng lưu ý các doanh nghiệp cần cẩn trọng, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất nguyên liệu đang phải đối mặt với tình hình khó khăn trong suốt 30 tháng trở lại đây.
"Các doanh nghiệp cần quản trị chặt chẽ hoạt động sản xuất kinh doanh bám sát kế hoạch đã đề ra, nhận diện và phòng ngừa tốt rủi ro, không để xảy ra bất kỳ tình huống bất ngờ nào nhằm hoàn thành kế hoạch năm và đón bắt xu hướng năm 2025", ông Trường nhận định .
Liên quan đến sự kiện ông Donald Trump tái đắc cử Tổng thống Mỹ, giới đầu tư kỳ vọng một số ngành có cơ hội lớn để phát triển, đặc biệt là các ngành như dệt may, thủy sản và gỗ, do việc thay thế hàng hóa Trung Quốc tại thị trường Mỹ.
Theo đó, chính sách bảo hộ của Mỹ sẽ tạo ra một khoảng trống lớn cho các sản phẩm Việt Nam xâm nhập vào thị trường này, giúp gia tăng xuất khẩu và thúc đẩy tăng trưởng. Trong dài hạn, Trung tâm phân tích Chứng khoán SSI (SSI Research) nhận định dệt may Việt Nam sẽ tiếp tục được hưởng lợi từ việc dịch chuyển các đơn đặt hàng từ Trung Quốc nhờ chi phí lao động thấp hơn, lợi thế lao động có tay nghề cao hơn Ấn Độ và Bangladesh.
Thế Mạnh
FILI
Dù đi lùi so với cùng kỳ, quý 3/2024 vẫn là kỳ kinh doanh khá ổn của ông lớn Tập đoàn Hóa chất Đức Giang khi thu lãi ròng tới 706 tỷ đồng.
Các chỉ tiêu kinh doanh của DGC trong quý 3/2024
Trong quý 3, ông lớn ngành hóa chất đạt doanh thu thuần gần 2.56 ngàn tỷ đồng, tăng 4% so với cùng kỳ. Trừ đi giá vốn, lãi gộp đạt 881 tỷ đồng, tăng trưởng 5%.
Doanh thu tài chính trong kỳ giảm khá mạnh còn 151 tỷ đồng, thấp hơn cùng kỳ 26%. Chi phí bán hàng tăng thêm 43%, lên 168 tỷ đồng. Đây cũng là 2 chỉ tiêu gây ảnh hưởng lớn nhất đến kết quả kinh doanh của Doanh nghiệp.
Sau cùng, DGC lãi ròng 706 tỷ đồng, thấp hơn cùng kỳ 7%. Dù đi lùi, đây vẫn là thành quả không tệ khi vượt xa những con số trước quý 4/2021 - thời điểm lãi bùng nổ nhờ hưởng lợi từ cơn sốt hàng hóa toàn cầu, và xấp xỉ kết quả những quý gần đây. Ngoài ra, Doanh nghiệp cũng vượt kế hoạch đặt ra cho quý 3 (2.4 ngàn tỷ đồng doanh thu và 720 tỷ đồng lãi sau thuế).
Nguồn: VietstockFinance
Lũy kế 9 tháng, DGC đạt hơn 7.4 ngàn tỷ đồng doanh thu, tăng trưởng 1%; lãi ròng hơn 2.2 ngàn tỷ đồng, giảm 6%. So với kế hoạch được ĐHĐCĐ thường niên 2024 thông qua, Doanh nghiệp thực hiện được 73% mục tiêu doanh thu và gần 75% chỉ tiêu lãi sau thuế sau 9 tháng.
Thời điểm cuối quý 3, tổng tài sản của DGC lên tới gần 16.2 ngàn tỷ đồng, tăng 4% so với đầu năm. Trong đó, tài sản ngắn hạn tăng nhẹ, chiếm hơn 13 ngàn tỷ đồng. Núi tiền mặt và tiền gửi của DGC tiếp tục dày thêm, đạt gần 11.4 ngàn tỷ đồng, hơn đầu năm 9%. Giá trị hàng tồn kho giảm 14%, còn hơn 738 tỷ đồng.
Bên nguồn vốn, hầu hết nợ phải trả là nợ ngắn hạn, giảm mạnh 43%, còn gần 2 ngàn tỷ đồng. Với núi tiền đang nắm giữ, không có nghi ngờ gì về khả năng trả nợ của ông lớn hóa chất.
Doanh nghiệp có 792 tỷ đồng nợ vay ngắn hạn, giảm 40% so với đầu năm, đều là nợ vay ngân hàng.
Sắp triển khai dự án Nghi Sơn
Theo nghị quyết công bố vào cuối tháng 7, DGC đã lùi tiến độ khởi công xây dựng, lắp đặt, chạy thử nghiệm và bàn giao sẽ diễn ra từ quý 4/2024 đến quý 1/2026. Cũng trong quý 1/2026, dự án sẽ hoàn thành và đi vào hoạt động.
Chủ tịch Đào Hữu Huyền từng nhận định đây là “dự án chiến lược” tại ĐHĐCĐ 2023, trong bối cảnh các dự án tại Lào Cai không thể phát triển nhiều hơn do trữ lượng quặng sắp hết (dự báo chỉ khoảng 20-30 năm nữa).
Khi hoàn thành, dự án có quy mô 150,000 tấn xút (NaOH)/năm. Ngoài ra, còn 150 ngàn tấn nhựa PVC, 34 ngàn tấn bột tẩy trắng, 1 ngàn tấn chất diệt khuẩn Chloramin B, 30 ngàn tấn chất xử lý nước, 15 ngàn tấn acid HCl, 10 ngàn tấn nước tẩy Javen 10%.
Dự án được các CTCK đánh giá là động lực đóng góp mạnh vào doanh thu của DGC. Theo TPS, dự án sẽ đóng góp khoảng 1,800 tỷ đồng doanh thu mỗi năm cho DGC, hoặc lên tới hơn 2.5 ngàn tỷ đồng nếu đạt công suất tối đa.
Châu An
FILI
交易股票、貨幣、商品、期貨、債券、基金等金融工具或加密貨幣屬高風險行為,這些風險包括損失您的部分或全部投資金額,所以交易並非適合所有投資者。
做出任何財務決定時,應該進行自己的盡職調查,運用自己的判斷力,並諮詢合格的顧問。本網站的內容並非直接針對您,我們也未考慮您的財務狀況或需求。本網站所含資訊不一定是即時提供的,也不一定是準確的。本站提供的價格可能由造市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他財務決定均應完全由您負責,並且您不得依賴通過網站提供的任何資訊。我們不對網站中的任何資訊提供任何保證,並且對因使用網站中的任何資訊而可能造成的任何交易損失不承擔任何責任。
未經本站書面許可,禁止使用、儲存、複製、展現、修改、傳播或分發本網站所含數據。提供本網站所含數據的供應商及交易所保留其所有知識產權。