行情
新聞
分析
使用者
快訊
財經日曆
學習
數據
- 名稱
- 最新值
- 前值
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
無匹配數據
最新觀點
最新觀點
最近更新
港股投資的風險預警
儘管香港法律體系和監管框架相對健全,但港股市場仍存在一些特定的風險和挑戰,如港幣與美元掛鉤,外地投資者可能會面臨匯率波動;中國內地的政策變化和經濟狀況對港股的影響等 。
投資港股費用架構與稅務
港股市場的交易成本包括總投資成本為買賣股票的交易費用、印花稅、結算費用等,對於外地投資者,可能會涉及兌換港幣所產生匯率轉換費用,以及依照所在地的相關法規需繳納的稅款。
港股產業分析:非必需消費產業
港股市場非必需消費產業涵蓋汽車、教育、旅遊、餐飲、服飾等多個領域,在643家上市公司中35%為中國內地公司,佔總市值的65%,因此受中國經濟影響深遠。
港股產業分析:地產建築業
地產建築業在港股指數中的份額近年來已明顯下降,但截至2022年,它依然在市場上佔有約10%的份額。 包含了房地產開發、建築工程、房地產投資和物業管理等各個方面。
中國·香港
越南·胡志明
杜拜
奈及利亞·拉各斯
埃及·開羅
查看所有搜尋結果
暫無數據
Xoay sở trong khó khăn, tiêu thụ chậm, đối mặt chi phí tăng cao, một số doanh nghiệp xi măng đã phải chấp nhận giảm giá bán sản phẩm để bù đắp chi phí duy trì hoạt động.
Theo số liệu thống kê từ VietstockFinance, của 17 doanh nghiệp xi măng trên sàn chứng khoán đã công bố BCTC từ quý 1/2022 - 3/2024, sau khi có lãi nhẹ trong quý 2 thì lại quay đầu báo lỗ hơn 64 tỷ đồng trong quý 3, cùng kỳ lỗ hơn 128 tỷ đồng; trong khi doanh thu tăng 5%, lên 5,084 tỷ đồng.
Doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp xi măng từ quý 1/2022 - quý 3/2024Nguồn: VietstockFinance
Trong 17 doanh nghiệp xi măng trên sàn, chỉ có 1 doanh nghiệp lãi tăng, 4 giảm, 2 lỗ chuyển lãi, 1 lãi chuyển lỗ, còn lại 9 doanh nghiệp tiếp tục thua lỗ.
Doanh nghiệp duy nhất có lãi tăng trong quý 3 là CTCP Xi măng Sài Sơn S với lợi nhuận ròng hơn 5 tỷ đồng, gấp đôi cùng kỳ. Xi măng Sài Sơn cho biết, do nhà máy hoạt động ổn định, chi phí lãi vay giảm; đồng thời, Công ty đã tiết kiệm chi phí sản xuất, giảm giá để bán hết sản phẩm, tăng độ phủ trên thị trường khiến lợi nhuận tăng. Sau 9 tháng, lãi ròng của SCJ tăng 51% so với cùng kỳ. Với kế hoạch lợi nhuận sau thuế hơn 11 tỷ đồng của năm, SCJ đã hoàn thành được 69%.
KQKD của doanh nghiệp xi măng trong quý 3/2024 (Đvt: Tỷ đồng)Nguồn: VietstockFinance
Nhờ sản lượng tiêu thụ xi măng tăng trong khi chi phí giảm đã giúp Xi Măng Vicem Hà Tiên (HOSE: HT1) lãi ròng quý 3 gần 23 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ hơn 10 tỷ đồng. Lợi nhuận ròng 9 tháng đạt gần 44 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ hơn 37 tỷ đồng; doanh thu giảm nhẹ 4%, về 5,041 tỷ đồng. So với kế hoạch năm trên nền thấp, HT1 đã vượt 89% mục tiêu lợi nhuận, còn doanh thu thực hiện được 72% kế hoạch và là doanh nghiệp sáng nhất trong 9 tháng đầu năm nay.
VICEM Thạch cao Xi măng T lãi ròng quý 3 gần 400 triệu đồng, cùng kỳ lỗ 800 triệu đồng. 9 tháng, TXM lãi hơn 1 tỷ đồng, giảm 53%. Tuy nhiên, Doanh nghiệp vẫn còn lỗ lũy kế hơn 6 tỷ đồng, tính đến cuối tháng 9.
TXM cho biết, tình hình sản xuất 9 tháng đầu năm gặp rất nhiều khó khăn, do thị trường bất động sản chưa phục hồi, cạnh tranh khốc liệt về giá bán, đặc biệt tại Thừa Thiên - Huế; các công trình xây dựng dân dụng mới ít được khởi công, các dự án chậm triển khai làm ảnh hưởng đến việc kinh doanh của Công ty. Ngoài ra, tiền thuê đất tăng đột biến khiến lợi nhuận thu được không bù đắp nổi chi phí.
Trong bối cảnh hầu hết doanh nghiệp cùng ngành thua lỗ thì việc duy trì được lợi nhuận ròng như CTCP Xi măng La Hiên VVMI C đạt 5 tỷ đồng hay CTCP Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh Q hơn 3 tỷ đồng cũng là nỗ lực đáng ghi nhận, dù so với cùng kỳ giảm lần lượt 44% và 92%.
Phần lớn doanh nghiệp vẫn đang vượt khó
KQKD của doanh nghiệp xi măng trong 9 tháng đầu năm 2024 (Đvt: Tỷ đồng)Nguồn: VietstockFinance
Xi măng VICEM Bút Sơn B là doanh nghiệp lỗ nhiều nhất trong quý 3 với hơn 26 tỷ đồng, cũng là quý thua lỗ thứ 8 liên tiếp (từ quý 4/2022). Lũy kế 9 tháng, BTS lỗ ròng gần 122 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ hơn 64 tỷ đồng; trong khi doanh thu thuần gần 1,840 tỷ đồng, giảm 3%.
Xi măng VICEM Hoàng Mai H cũng lỗ hơn 11 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ gần 27 tỷ đồng. Lũy kế 9 tháng, HOM mang về doanh thu thuần gần 1,204 tỷ đồng, giảm 5%; lỗ ròng hơn 51 tỷ đồng.
HOM cho biết, ngành xi măng vẫn đang đối mặt với khó khăn, do nguồn cung cao, trong khi thị trường trong nước và xuất khẩu tiếp tục cạnh tranh khốc liệt về giá, áp lực tồn kho sản phẩm, dư thừa năng lực sản xuất. Đồng thời, xu hướng dịch chuyển nhu cầu xi măng bao sang xi măng rời ngày càng tăng, làm giảm hiệu quả kinh doanh của Công ty, do giá trị thương hiệu gắn với xi măng bao.
Trong 9 tháng đầu năm, có 5 doanh nghiệp đạt doanh thu trên ngàn tỷ đồng gồm HT1, BCC, BTS, HOM và QNC. Trong đó, QNC có lãi giảm 63%, còn hơn 35 tỷ đồng; HT1 có lỗ chuyển lãi; còn lại 3 doanh nghiệp tiếp tục thua lỗ.
Top doanh nghiệp có doanh thu trên ngàn tỷ trong 9 tháng (Đvt: Tỷ đồng)Nguồn: VietstockFinance
Tính đến cuối tháng 9, nhóm doanh nghiệp niêm yết ngành xi măng có tổng giá trị tồn kho hơn 2,500 tỷ đồng, giảm hơn 10% so với đầu năm. Trong đó, tồn kho của ông lớn HT1 chiếm hơn 30%, với gần 790 tỷ đồng - giảm 11% so với đầu năm; giá trị thành phẩm của HT1 gần 432 tỷ đồng, tăng 11% so với đầu năm.
Nguồn: VietstockFinance
Ngành xi măng vẫn đang bất định?
Ngành xi măng vẫn đang đối mặt muôn vàn khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm vì nhiều yếu tố như giá nhiên liệu, năng lượng tăng cao, đặc biệt là giá than cũng gây nhiều khó khăn cho hoạt động của ngành. Bên cạnh đó, tiêu thụ nội địa yếu do các dự án đầu tư công triển khai còn chậm, thị trường bất động sản chưa phục hồi rõ nét…
Năm 2024, thị trường nội địa dự kiến tiêu thụ khoảng 60-62 triệu tấn xi măng; trong khi cả nước hiện có 61 nhà máy xi măng đang hoạt động với tổng công suất thiết kế 117 triệu tấn/năm, năng lực sản xuất thực tế có thể đạt trên 130 triệu tấn/năm. Số liệu cho thấy, sản lượng tiêu thụ chỉ bằng 1/2 công suất thiết kế là sự lãng phí, chưa kể đến sự tồn tại của các nhà máy và đời sống của người lao động.
9 tháng đầu năm 2024, lượng tiêu thụ xi măng nội địa cũng chỉ xấp xỉ với năm ngoái và tiếp tục duy trì ở mức thấp; trong khi xuất khẩu giảm hơn 4%, ở mức 22.5 triệu tấn.
Xoay sở trong khó khăn, một số doanh nghiệp đã phải chấp nhận giảm giá bán sản phẩm để bù đắp chi phí duy trì hoạt động.
Thanh Tú
FILI
Doanh nghiệp xi măng chìm trong thua lỗ
Xoay sở trong khó khăn, tiêu thụ chậm, đối mặt chi phí tăng cao, một số doanh nghiệp xi măng đã phải chấp nhận giảm giá bán sản phẩm để bù đắp chi phí duy trì hoạt động.
Theo số liệu thống kê từ VietstockFinance, của 17 doanh nghiệp xi măng trên sàn chứng khoán đã công bố BCTC từ quý 1/2022 - 3/2024, sau khi có lãi nhẹ trong quý 2 thì lại quay đầu báo lỗ hơn 64 tỷ đồng trong quý 3, cùng kỳ lỗ hơn 128 tỷ đồng; trong khi doanh thu tăng 5%, lên 5,084 tỷ đồng.
Doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp xi măng từ quý 1/2022 - quý 3/2024
Nguồn: VietstockFinance
Trong 17 doanh nghiệp xi măng trên sàn, chỉ có 1 doanh nghiệp lãi tăng, 4 giảm, 2 lỗ chuyển lãi, 1 lãi chuyển lỗ, còn lại 9 doanh nghiệp tiếp tục thua lỗ.
Doanh nghiệp duy nhất có lãi tăng trong quý 3 là CTCP Xi măng Sài Sơn (UPCoM: SCJ) với lợi nhuận ròng hơn 5 tỷ đồng, gấp đôi cùng kỳ. Xi măng Sài Sơn cho biết, do nhà máy hoạt động ổn định, chi phí lãi vay giảm; đồng thời, Công ty đã tiết kiệm chi phí sản xuất, giảm giá để bán hết sản phẩm, tăng độ phủ trên thị trường khiến lợi nhuận tăng. Sau 9 tháng, lãi ròng của SCJ tăng 51% so với cùng kỳ. Với kế hoạch lợi nhuận sau thuế hơn 11 tỷ đồng của năm, SCJ đã hoàn thành được 69%.
KQKD của doanh nghiệp xi măng trong quý 3/2024 (Đvt: Tỷ đồng)
Nguồn: VietstockFinance
Nhờ sản lượng tiêu thụ xi măng tăng trong khi chi phí giảm đã giúp Xi Măng Vicem Hà Tiên (HOSE: HT1) lãi ròng quý 3 gần 23 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ hơn 10 tỷ đồng. Lợi nhuận ròng 9 tháng đạt gần 44 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ hơn 37 tỷ đồng; doanh thu giảm nhẹ 4%, về 5,041 tỷ đồng. So với kế hoạch năm trên nền thấp, HT1 đã vượt 89% mục tiêu lợi nhuận, còn doanh thu thực hiện được 72% kế hoạch và là doanh nghiệp sáng nhất trong 9 tháng đầu năm nay.
VICEM Thạch cao Xi măng (HNX: TXM) lãi ròng quý 3 gần 400 triệu đồng, cùng kỳ lỗ 800 triệu đồng. 9 tháng, TXM lãi hơn 1 tỷ đồng, giảm 53%. Tuy nhiên, Doanh nghiệp vẫn còn lỗ lũy kế hơn 6 tỷ đồng, tính đến cuối tháng 9.
TXM cho biết, tình hình sản xuất 9 tháng đầu năm gặp rất nhiều khó khăn, do thị trường bất động sản chưa phục hồi, cạnh tranh khốc liệt về giá bán, đặc biệt tại Thừa Thiên - Huế; các công trình xây dựng dân dụng mới ít được khởi công, các dự án chậm triển khai làm ảnh hưởng đến việc kinh doanh của Công ty. Ngoài ra, tiền thuê đất tăng đột biến khiến lợi nhuận thu được không bù đắp nổi chi phí.
Trong bối cảnh hầu hết doanh nghiệp cùng ngành thua lỗ thì việc duy trì được lợi nhuận ròng như CTCP Xi măng La Hiên VVMI (HNX: CLH) đạt 5 tỷ đồng hay CTCP Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh (UPCoM: QNC) hơn 3 tỷ đồng cũng là nỗ lực đáng ghi nhận, dù so với cùng kỳ giảm lần lượt 44% và 92%.
Phần lớn doanh nghiệp vẫn đang vượt khó
KQKD của doanh nghiệp xi măng trong 9 tháng đầu năm 2024 (Đvt: Tỷ đồng)
Nguồn: VietstockFinance
Xi măng VICEM Bút Sơn (HNX: BTS) là doanh nghiệp lỗ nhiều nhất trong quý 3 với hơn 26 tỷ đồng, cũng là quý thua lỗ thứ 8 liên tiếp (từ quý 4/2022). Lũy kế 9 tháng, BTS lỗ ròng gần 122 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ hơn 64 tỷ đồng; trong khi doanh thu thuần gần 1,840 tỷ đồng, giảm 3%.
Xi măng VICEM Hoàng Mai (HNX: HOM) cũng lỗ hơn 11 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ gần 27 tỷ đồng. Lũy kế 9 tháng, HOM mang về doanh thu thuần gần 1,204 tỷ đồng, giảm 5%; lỗ ròng hơn 51 tỷ đồng.
HOM cho biết, ngành xi măng vẫn đang đối mặt với khó khăn, do nguồn cung cao, trong khi thị trường trong nước và xuất khẩu tiếp tục cạnh tranh khốc liệt về giá, áp lực tồn kho sản phẩm, dư thừa năng lực sản xuất. Đồng thời, xu hướng dịch chuyển nhu cầu xi măng bao sang xi măng rời ngày càng tăng, làm giảm hiệu quả kinh doanh của Công ty, do giá trị thương hiệu gắn với xi măng bao.
Trong 9 tháng đầu năm, có 5 doanh nghiệp đạt doanh thu trên ngàn tỷ đồng gồm HT1, BCC, BTS, HOM và QNC. Trong đó, QNC có lãi giảm 63%, còn hơn 35 tỷ đồng; HT1 có lỗ chuyển lãi; còn lại 3 doanh nghiệp tiếp tục thua lỗ.
Top doanh nghiệp có doanh thu trên ngàn tỷ trong 9 tháng (Đvt: Tỷ đồng)
Nguồn: VietstockFinance
Tính đến cuối tháng 9, nhóm doanh nghiệp niêm yết ngành xi măng có tổng giá trị tồn kho hơn 2,500 tỷ đồng, giảm hơn 10% so với đầu năm. Trong đó, tồn kho của ông lớn HT1 chiếm hơn 30%, với gần 790 tỷ đồng - giảm 11% so với đầu năm; giá trị thành phẩm của HT1 gần 432 tỷ đồng, tăng 11% so với đầu năm.
Nguồn: VietstockFinance
Ngành xi măng vẫn đang bất định?
Ngành xi măng vẫn đang đối mặt muôn vàn khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm vì nhiều yếu tố như giá nhiên liệu, năng lượng tăng cao, đặc biệt là giá than cũng gây nhiều khó khăn cho hoạt động của ngành. Bên cạnh đó, tiêu thụ nội địa yếu do các dự án đầu tư công triển khai còn chậm, thị trường bất động sản chưa phục hồi rõ nét…
Năm 2024, thị trường nội địa dự kiến tiêu thụ khoảng 60-62 triệu tấn xi măng; trong khi cả nước hiện có 61 nhà máy xi măng đang hoạt động với tổng công suất thiết kế 117 triệu tấn/năm, năng lực sản xuất thực tế có thể đạt trên 130 triệu tấn/năm. Số liệu cho thấy, sản lượng tiêu thụ chỉ bằng 1/2 công suất thiết kế là sự lãng phí, chưa kể đến sự tồn tại của các nhà máy và đời sống của người lao động.
9 tháng đầu năm 2024, lượng tiêu thụ xi măng nội địa cũng chỉ xấp xỉ với năm ngoái và tiếp tục duy trì ở mức thấp; trong khi xuất khẩu giảm hơn 4%, ở mức 22.5 triệu tấn.
Xoay sở trong khó khăn, một số doanh nghiệp đã phải chấp nhận giảm giá bán sản phẩm để bù đắp chi phí duy trì hoạt động.
Sau 3 quý liên tục thua lỗ, ngành xi măng đã trở lại “mặt đất” khi có lãi trong quý 2/2024. Liệu đây có phải khởi đầu chu kỳ tăng trưởng trở lại của ngành xi măng?
Theo số liệu thống kê từ VietstockFinance của 17 doanh nghiệp xi măng trên sàn chứng khoán đã công bố BCTC từ quý 1/2022 - 2/2024. Ngành xi măng có lãi trở lại sau 3 quý liên tục thua lỗ, đạt hơn 33 tỷ đồng, giảm 9% so với cùng kỳ; trong khi doanh thu đạt 5,935 tỷ đồng, tăng 4%.
Thời gian qua, do ảnh hưởng tình hình thế giới, chiến tranh Trung Đông ngày càng căng thẳng khó lường; trong khi thị trường bất động sản trong nước chưa thực sự khởi sắc, nguồn cung xi măng vượt xa so với nhu cầu; giá nguyên, nhiên liệu đầu vào vẫn ở mức cao. Tiêu thụ trong nước và xuất khẩu sụt giảm, tồn kho tăng cao, một số nhà máy phải giảm năng suất hoặc dừng lò đã khiến nhiều Doanh nghiệp mảng này lao đao, chìm trong thua lỗ.
Doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp xi măng từ quý 1/2022 - quý 2/2024Nguồn: VietstockFinance
Số doanh nghiệp báo lãi đã nhiều hơn
Theo thống kê, trong 17 doanh nghiệp xi măng đã công bố BCTC quý 2/2024, có 4 doanh nghiệp tăng lãi, 3 giảm, 2 lỗ chuyển lãi. Còn lại 8 doanh nghiệp đều thua lỗ với 2 doanh nghiệp lãi chuyển lỗ và 6 tiếp tục thua lỗ.
Tuy vẫn còn nhiều doanh nghiệp lỗ, nhưng số lượng doanh nghiệp báo lãi đã nhiều hơn quý đầu năm (chỉ duy nhất một doanh nghiệp báo lãi).
Dẫn đầu mức tăng trưởng là CTCP VICEM Thương mại Xi măng T với lãi ròng gần 2 tỷ đồng, tăng 30% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, lũy kế 6 tháng, lãi ròng TMX lại giảm 43%, còn hơn 1 tỷ đồng.
Xi măng Sài Sơn S cũng lãi hơn 2 tỷ đồng trong quý 2, tăng 24%, nhờ nhà máy hoạt động ổn định, chi phí nguyên vật liệu đầu vào và chi phí lãi vay giảm do SCJ đã trả vốn trung hạn. Tuy nhiên, giống TMX, lãi ròng 6 tháng SCJ chỉ hơn 2 tỷ đồng, giảm 9%.
Bất chấp nhu cầu xi măng giảm, lãi ròng quý 2 của Xi măng La Hiên VVMI C vẫn tăng 10%, đạt hơn 12 tỷ đồng, nhưng lũy kế 6 tháng, giảm 41% còn 12 tỷ đồng.
Trong bối cảnh các doanh nghiệp cùng ngành ít nhiều có vài quý thua lỗ thời gian qua, riêng CLH đã ngược dòng với duy nhất một lần báo lỗ vào quý 3/2017 (hơn 2 tỷ đồng). CLH cho biết, thị trường bất động sản quý 2/2024 trầm lắng, nhu cầu xi măng suy giảm, mặt khác mưa nhiều nên sản lượng tiêu thụ giảm, đặc biệt giá bán sản phẩm cũng giảm. Tuy nhiên, Công ty đã đưa ra các giải pháp như tăng năng suất thiết bị, tiết kiệm chi phí trong sản suất. Bên cạnh đó, việc sửa chữa các thiết bị chính chủ yếu tập trung trong quý 3/2024, Công ty cũng tiết giảm chi phí tài chính nên giúp lợi nhuận tăng.
Ngoài các doanh nghiệp có lợi nhuận tăng trưởng, còn có thêm 2 cái tên lỗ chuyển lãi là Xi măng Bỉm Sơn B gần 26 tỷ đồng (cùng kỳ lỗ hơn 5 tỷ đồng) và Xi măng Yên Bình V gần 9 tỷ đồng (cùng kỳ lỗ gần 3 tỷ đồng).
KQKD của doanh nghiệp xi măng trong quý 2/2024 (Đvt: Tỷ đồng)Nguồn: VietstockFinance
Nhưng phần lớn vẫn đang bế tắc
Việc tiếp tục lỗ hơn 36 tỷ đồng trong quý 2/2024, Xi măng VICEM Bút Sơn B nối dài chuỗi thua lỗ lên quý thứ 7 liên tiếp (từ quý 4/2022).
Không khá hơn, Xi măng VICEM Hải Vân H cũng 5 quý liên tiếp (từ quý 2/2023) với khoản lỗ ròng gần 10 tỷ đồng. HVX cho biết, sản lượng tiêu thụ xi măng quý 2 giảm gần 48 ngàn tấn (trong đó, clinker là 27.8 ngàn tấn), tương ứng giảm 31% so với cùng kỳ là nguyên nhân chính khiến lợi nhuận giảm.
Quý 2/2024 đánh dấu quý thứ 13 Xi măng Phú Thọ P thua lỗ (từ quý 1/2021), gần 9 tỷ đồng. Lũy kế 6 tháng lỗ 18 tỷ đồng. PTE cho biết, 2024 tiếp tục là một năm khó khăn đối với ngành xi măng, nhu cầu xi măng trên thị trường liên tục sụt giảm cùng với đó là sự cạnh tranh gây gắt đã khiến lợi nhuận giảm.
2 doanh nghiệp khác mới gia nhập nhóm là CTCP Khoáng sản FECON F lỗ ròng hơn 11 tỷ đồng và Xi măng Quán Triều VVMI C lỗ hơn 2 tỷ đồng; trong khi cùng kỳ năm trước lãi lần lượt hơn 5 tỷ đồng và hơn 8 tỷ đồng.
Ông trùm xi măng Hà Tiên có kết quả khả quan hơn khi lãi ròng gần 46 tỷ đồng, giảm 22%. Lãi ròng 6 tháng hơn 21 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ gần 27 tỷ đồng.
Tương tự, Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh Q cũng có lãi quý 2 hơn 27 tỷ đồng, giảm 23%. Nửa đầu năm, QNC lãi gần 33 tỷ đồng, giảm 41%.
KQKD của doanh nghiệp xi măng trong nửa đầu năm 2024 (Đvt: Tỷ đồng)Nguồn: VietstockFinance
Kết quả quý 2 và 6 tháng đầu năm 2024 đã nói lên phần nào các khó khăn, vướng mắc vẫn còn, tiếp tục bám lấy ngành xi măng. Điều này cũng không bất ngờ khi đã được các doanh nghiệp xi măng nhận định và dự báo trước với nhiều kế hoạch 2024 tiếp tục thua lỗ.
Điển hình như Xi măng Bỉm Sơn đưa kế hoạch 2024 lỗ sau thuế gần 159 tỷ đồng, Xi măng VICEM Hoàng Mai H có kế hoạch lỗ gần 104 tỷ đồng, BTS kế hoạch lỗ 111 tỷ đồng.
HT1 và SCJ có vẻ lạc quan hơn khi đặt mục tiêu lãi sau thuế lần lượt hơn 23 tỷ đồng, tăng 31% và hơn 11 tỷ đồng, tăng 42% so với năm 2023. QNC đặt lãi sau thuế đi lùi 57%, đạt 34 tỷ đồng.
Nguồn: VietstockFinance
Về sản lượng, phần lớn doanh nghiệp đều đặt kế hoạch sản xuất tăng trưởng. Trong đó, HT1 dự kiến sản xuất clinker gần 4.1 triệu tấn và xi măng 5.66 triệu tấn, lần lượt tăng 8% và 5% so với năm trước. Hay BCC đặt kế hoạch sản xuất clinker hơn 2.3 triệu tấn, tăng 35% và xi măng (bao gồm gia công) gần 3 triệu tấn, tăng 6%.
Nguồn: VietstockFinance
Chưa đủ để bắt đầu chu kỳ tăng trưởng mới
Theo Bộ Xây dựng, sản xuất clinker và xi măng sụt giảm lớn từ năm 2023 đến nay. Theo đó, tổng sản lượng sản xuất năm qua chỉ đạt 92.9 triệu tấn, tương ứng 75% tổng công suất thiết kế. Tổng sản lượng tiêu thụ 2023 đạt 87.8 triệu tấn, giảm 12% so với năm 2022.
Năm 2023, tiêu thụ xi măng trong nước chỉ đạt 56,6 triệu tấn, giảm hơn 16% năm 2022, đây là mức sụt giảm lớn nhất từ trước đến nay trong lĩnh vực xi măng.
6 tháng đầu năm 2024, tổng sản lượng tiêu thụ clinker và xi măng đạt khoảng 44 triệu tấn, tương đương cùng kỳ. Lượng clinker xuất khẩu cũng chỉ đạt khoảng 5.4 triệu tấn, gần bằng cùng kỳ năm 2023.
Sở dĩ, sản lượng xuất khẩu tiếp tục giảm là do thị trường bất động sản Trung Quốc chưa có dấu hiệu phục hồi, xi măng cũng bị dư thừa và dự báo sẽ cạnh tranh với xi măng Việt Nam vào các thị trường xuất khẩu như Philippines, Trung Mỹ, Nam Phi… Bên cạnh đó, chi phí cước vận tải biển tăng cao, cộng với các quy định về hàng rào kỹ thuật tại phần lớn thị trường xuất khẩu.
Ngoài ra, tình hình tài chính của ngành gặp khó do các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, đặc biệt các doanh nghiệp xi măng đầu tư vốn lớn. Giai đoạn đầu khi mới vận hành nhà máy, các doanh nghiệp phải trả nợ vốn vay, cộng với lãi vay cao, dẫn đến áp lực trả nợ cả gốc và lãi rất lớn. Tiêu thụ chậm, nhiều doanh nghiệp đã phải dừng một số dây chuyền sản xuất, khiến nhóm ngành xi măng sản xuất không hiệu quả, thua lỗ; chưa kể đến tình hình kinh tế thế giới đang khó lường, chiến tranh Trung Đông khắc nghiệt hơn.
Các thông tin trên cho thấy tương lai ngành xi măng vẫn đang bất định, là dấu chấm hỏi đang kiếm lời giải. Dù có nhiều doanh nghiệp có lãi hơn, nhưng như vậy là chưa đủ, chưa thể kết luận được là chu kỳ tăng trưởng mới cho triển vọng ngành xi măng thời gian tới.
Thanh Tú
FILI
Doanh nghiệp xi măng có lãi trở lại nhưng chưa đủ để khởi đầu chu kỳ tăng trưởng mới
Sau 3 quý liên tục thua lỗ, ngành xi măng đã trở lại “mặt đất” khi có lãi trong quý 2/2024. Liệu đây có phải khởi đầu chu kỳ tăng trưởng trở lại của ngành xi măng?
Theo số liệu thống kê từ VietstockFinance của 17 doanh nghiệp xi măng trên sàn chứng khoán đã công bố BCTC từ quý 1/2022 - 2/2024. Ngành xi măng có lãi trở lại sau 3 quý liên tục thua lỗ, đạt hơn 33 tỷ đồng, giảm 9% so với cùng kỳ; trong khi doanh thu đạt 5,935 tỷ đồng, tăng 4%.
Thời gian qua, do ảnh hưởng tình hình thế giới, chiến tranh Trung Đông ngày càng căng thẳng khó lường; trong khi thị trường bất động sản trong nước chưa thực sự khởi sắc, nguồn cung xi măng vượt xa so với nhu cầu; giá nguyên, nhiên liệu đầu vào vẫn ở mức cao. Tiêu thụ trong nước và xuất khẩu sụt giảm, tồn kho tăng cao, một số nhà máy phải giảm năng suất hoặc dừng lò đã khiến nhiều Doanh nghiệp mảng này lao đao, chìm trong thua lỗ.
Doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp xi măng từ quý 1/2022 - quý 2/2024
Nguồn: VietstockFinance
Số doanh nghiệp báo lãi đã nhiều hơn
Theo thống kê, trong 17 doanh nghiệp xi măng đã công bố BCTC quý 2/2024, có 4 doanh nghiệp tăng lãi, 3 giảm, 2 lỗ chuyển lãi. Còn lại 8 doanh nghiệp đều thua lỗ với 2 doanh nghiệp lãi chuyển lỗ và 6 tiếp tục thua lỗ.
Tuy vẫn còn nhiều doanh nghiệp lỗ, nhưng số lượng doanh nghiệp báo lãi đã nhiều hơn quý đầu năm (chỉ duy nhất một doanh nghiệp báo lãi).
Dẫn đầu mức tăng trưởng là CTCP VICEM Thương mại Xi măng (HNX: TMX) với lãi ròng gần 2 tỷ đồng, tăng 30% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, lũy kế 6 tháng, lãi ròng TMX lại giảm 43%, còn hơn 1 tỷ đồng.
Xi măng Sài Sơn (UPCoM: SCJ) cũng lãi hơn 2 tỷ đồng trong quý 2, tăng 24%, nhờ nhà máy hoạt động ổn định, chi phí nguyên vật liệu đầu vào và chi phí lãi vay giảm do SCJ đã trả vốn trung hạn. Tuy nhiên, giống TMX, lãi ròng 6 tháng SCJ chỉ hơn 2 tỷ đồng, giảm 9%.
Bất chấp nhu cầu xi măng giảm, lãi ròng quý 2 của Xi măng La Hiên VVMI (HNX: CLH) vẫn tăng 10%, đạt hơn 12 tỷ đồng, nhưng lũy kế 6 tháng, giảm 41% còn 12 tỷ đồng.
Trong bối cảnh các doanh nghiệp cùng ngành ít nhiều có vài quý thua lỗ thời gian qua, riêng CLH đã ngược dòng với duy nhất một lần báo lỗ vào quý 3/2017 (hơn 2 tỷ đồng). CLH cho biết, thị trường bất động sản quý 2/2024 trầm lắng, nhu cầu xi măng suy giảm, mặt khác mưa nhiều nên sản lượng tiêu thụ giảm, đặc biệt giá bán sản phẩm cũng giảm. Tuy nhiên, Công ty đã đưa ra các giải pháp như tăng năng suất thiết bị, tiết kiệm chi phí trong sản suất. Bên cạnh đó, việc sửa chữa các thiết bị chính chủ yếu tập trung trong quý 3/2024, Công ty cũng tiết giảm chi phí tài chính nên giúp lợi nhuận tăng.
Ngoài các doanh nghiệp có lợi nhuận tăng trưởng, còn có thêm 2 cái tên lỗ chuyển lãi là Xi măng Bỉm Sơn (HNX: BCC) gần 26 tỷ đồng (cùng kỳ lỗ hơn 5 tỷ đồng) và Xi măng Yên Bình (UPCoM: VCX) gần 9 tỷ đồng (cùng kỳ lỗ gần 3 tỷ đồng).
KQKD của doanh nghiệp xi măng trong quý 2/2024 (Đvt: Tỷ đồng)
Nguồn: VietstockFinance
Nhưng phần lớn vẫn đang bế tắc
Việc tiếp tục lỗ hơn 36 tỷ đồng trong quý 2/2024, Xi măng VICEM Bút Sơn (HNX: BTS) nối dài chuỗi thua lỗ lên quý thứ 7 liên tiếp (từ quý 4/2022).
Không khá hơn, Xi măng VICEM Hải Vân (HOSE: HVX) cũng 5 quý liên tiếp (từ quý 2/2023) với khoản lỗ ròng gần 10 tỷ đồng. HVX cho biết, sản lượng tiêu thụ xi măng quý 2 giảm gần 48 ngàn tấn (trong đó, clinker là 27.8 ngàn tấn), tương ứng giảm 31% so với cùng kỳ là nguyên nhân chính khiến lợi nhuận giảm.
Quý 2/2024 đánh dấu quý thứ 13 Xi măng Phú Thọ (UPCoM: PTE) thua lỗ (từ quý 1/2021), gần 9 tỷ đồng. Lũy kế 6 tháng lỗ 18 tỷ đồng. PTE cho biết, 2024 tiếp tục là một năm khó khăn đối với ngành xi măng, nhu cầu xi măng trên thị trường liên tục sụt giảm cùng với đó là sự cạnh tranh gây gắt đã khiến lợi nhuận giảm.
2 doanh nghiệp khác mới gia nhập nhóm là CTCP Khoáng sản FECON (HOSE: FCM) lỗ ròng hơn 11 tỷ đồng và Xi măng Quán Triều VVMI (UPCoM: CQT) lỗ hơn 2 tỷ đồng; trong khi cùng kỳ năm trước lãi lần lượt hơn 5 tỷ đồng và hơn 8 tỷ đồng.
Ông trùm xi măng Hà Tiên có kết quả khả quan hơn khi lãi ròng gần 46 tỷ đồng, giảm 22%. Lãi ròng 6 tháng hơn 21 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ gần 27 tỷ đồng.
Tương tự, Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh (UPCoM: QNC) cũng có lãi quý 2 hơn 27 tỷ đồng, giảm 23%. Nửa đầu năm, QNC lãi gần 33 tỷ đồng, giảm 41%.
KQKD của doanh nghiệp xi măng trong nửa đầu năm 2024 (Đvt: Tỷ đồng)
Nguồn: VietstockFinance
Kết quả quý 2 và 6 tháng đầu năm 2024 đã nói lên phần nào các khó khăn, vướng mắc vẫn còn, tiếp tục bám lấy ngành xi măng. Điều này cũng không bất ngờ khi đã được các doanh nghiệp xi măng nhận định và dự báo trước với nhiều kế hoạch 2024 tiếp tục thua lỗ.
Điển hình như Xi măng Bỉm Sơn đưa kế hoạch 2024 lỗ sau thuế gần 159 tỷ đồng, Xi măng VICEM Hoàng Mai (HNX: HOM) có kế hoạch lỗ gần 104 tỷ đồng, BTS kế hoạch lỗ 111 tỷ đồng.
HT1 và SCJ có vẻ lạc quan hơn khi đặt mục tiêu lãi sau thuế lần lượt hơn 23 tỷ đồng, tăng 31% và hơn 11 tỷ đồng, tăng 42% so với năm 2023. QNC đặt lãi sau thuế đi lùi 57%, đạt 34 tỷ đồng.
Nguồn: VietstockFinance
Về sản lượng, phần lớn doanh nghiệp đều đặt kế hoạch sản xuất tăng trưởng. Trong đó, HT1 dự kiến sản xuất clinker gần 4.1 triệu tấn và xi măng 5.66 triệu tấn, lần lượt tăng 8% và 5% so với năm trước. Hay BCC đặt kế hoạch sản xuất clinker hơn 2.3 triệu tấn, tăng 35% và xi măng (bao gồm gia công) gần 3 triệu tấn, tăng 6%.
Nguồn: VietstockFinance
Chưa đủ để bắt đầu chu kỳ tăng trưởng mới
Theo Bộ Xây dựng, sản xuất clinker và xi măng sụt giảm lớn từ năm 2023 đến nay. Theo đó, tổng sản lượng sản xuất năm qua chỉ đạt 92.9 triệu tấn, tương ứng 75% tổng công suất thiết kế. Tổng sản lượng tiêu thụ 2023 đạt 87.8 triệu tấn, giảm 12% so với năm 2022.
Năm 2023, tiêu thụ xi măng trong nước chỉ đạt 56,6 triệu tấn, giảm hơn 16% năm 2022, đây là mức sụt giảm lớn nhất từ trước đến nay trong lĩnh vực xi măng.
6 tháng đầu năm 2024, tổng sản lượng tiêu thụ clinker và xi măng đạt khoảng 44 triệu tấn, tương đương cùng kỳ. Lượng clinker xuất khẩu cũng chỉ đạt khoảng 5.4 triệu tấn, gần bằng cùng kỳ năm 2023.
Sở dĩ, sản lượng xuất khẩu tiếp tục giảm là do thị trường bất động sản Trung Quốc chưa có dấu hiệu phục hồi, xi măng cũng bị dư thừa và dự báo sẽ cạnh tranh với xi măng Việt Nam vào các thị trường xuất khẩu như Philippines, Trung Mỹ, Nam Phi… Bên cạnh đó, chi phí cước vận tải biển tăng cao, cộng với các quy định về hàng rào kỹ thuật tại phần lớn thị trường xuất khẩu.
Ngoài ra, tình hình tài chính của ngành gặp khó do các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, đặc biệt các doanh nghiệp xi măng đầu tư vốn lớn. Giai đoạn đầu khi mới vận hành nhà máy, các doanh nghiệp phải trả nợ vốn vay, cộng với lãi vay cao, dẫn đến áp lực trả nợ cả gốc và lãi rất lớn. Tiêu thụ chậm, nhiều doanh nghiệp đã phải dừng một số dây chuyền sản xuất, khiến nhóm ngành xi măng sản xuất không hiệu quả, thua lỗ; chưa kể đến tình hình kinh tế thế giới đang khó lường, chiến tranh Trung Đông khắc nghiệt hơn.
Các thông tin trên cho thấy tương lai ngành xi măng vẫn đang bất định, là dấu chấm hỏi đang kiếm lời giải. Dù có nhiều doanh nghiệp có lãi hơn, nhưng như vậy là chưa đủ, chưa thể kết luận được là chu kỳ tăng trưởng mới cho triển vọng ngành xi măng thời gian tới.
CTCP Tư Vấn Và Dịch Vụ Viettel sắp chi cổ tức năm 2023 hơn 14 tỷ đồng, sau năm 2023 lãi kỷ lục. Trên thị trường chứng khoán, giá cổ phiếu này cũng đang duy trì đà tăng mạnh mẽ.
Sắp chi hơn 14 tỷ đồng cổ tức, Viettel hưởng lợi lớn
Cụ thể, VTK dự kiến trả cổ tức năm 2023 bằng tiền theo tỷ lệ 15% (1 cp được nhận 1,500 đồng), ngày giao dịch không hưởng quyền là 20/06, dự kiến thánh toán ngày 05/07.
Với mức chi 1,500 đồng/cp cùng số lượng gần 9.4 triệu cp đang lưu hành, dự kiến VTK cần chi số tiền hơn 14 tỷ đồng. Xét theo cơ cấu sở hữu tính đến ngày 31/12/2023, Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel) đang nắm giữ 63.84% vốn, sẽ hưởng lợi lớn với khoản thu gần 9 tỷ đồng từ cổ tức VTK, trong trường hợp tỷ lệ không có gì thay đổi.
Tỷ lệ cổ tức 15% tương ứng kế hoạch đã được ĐHĐCĐ thường niên 2024 thông qua trước đó. Đại hội cũng thông qua trích lập quỹ khen thưởng phúc lợi người lao động gần 7 tỷ đồng, quỹ thưởng người quản lý gần 500 triệu đồng.
Ngoài ra, đại hội cũng thông qua trích lập quỹ đầu tư phát triển hơn 4.5 tỷ đồng, việc này được lãnh đạo VTK chia sẻ nhằm phục vụ cho đầu tư thiết bị chuyên dụng mở rộng và phát triển ngành nghề đo kiểm (đo sóng tối ưu chất lượng mạng viễn thông) trong thời gian tới tại thị trường trong và ngoài nước (Mozambique, Peru, Campuchia…). VTK cũng tập trung đẩy mạnh công tác chuyển đổi số, đầu tư hiệu quả phần mềm trong lĩnh vực quản lý giám sát, thiết kế thi công… góp phần nâng cao năng suất, chất lượng lao động.
Tạo kỷ lục kinh doanh, giá cổ phiếu lập đỉnh mới
Về tình hình kinh doanh, VTK vừa có năm 2023 thành công với tổng doanh thu gần 286 tỷ đồng và lãi sau thuế gần 26 tỷ đồng, lần lượt vượt 2% và 5% kế hoạch đề ra. Năm 2023 cũng đánh dấu doanh thu và lãi cao nhất lịch sử, kể từ thời điểm chính thức được chuyển đổi từ Công ty TNHH Nhà nước MTV Tư vấn thiết kế Viettel.
VTK ghi nhận kết quả kinh doanh kỷ lục trong năm 2023
Năm 2024, VTK kỳ vọng tiếp tục tăng trưởng với tổng doanh thu 352 ngàn tỷ đồng và lãi sau thuế gần 30 tỷ đồng, lần lượt tăng 23% và 14% so với thực hiện 2023.
Cơ cấu doanh thu có sự thay đổi đáng kể khi VTK tập trung phát triển lĩnh vực mới là đo lường, ICT, giải pháp kiên cố hạ tầng viễn thông… doanh thu dự kiến 210 tỷ đồng, tăng 83% so với thực hiện 2023, chiếm 56% tỷ trọng. VTK cho biết mảng mới này sẽ là trụ cột phát triển trong năm 2024 và sẽ phát triển mạnh mẽ đem lại nguồn thu lớn trong những năm tiếp theo.
Còn lại, dự kiến doanh thu kiểm soát chất lượng 100 tỷ đồng, giảm 16%, chiếm 27% tỷ trọng; doanh thu bên ngoài mục tiêu 75 tỷ đồng, tăng 116%, chiếm 20% tỷ trọng; doanh thu tư vấn thiết kế 60 tỷ đồng, tăng 20%, chiếm 16% tỷ trọng.
Mức tăng trưởng 20% của mảng tư vấn thiết kế được lãnh đạo VTK chia sẻ nhờ doanh thu truyền thống trong nước tăng do nhu cầu triển khai hạ tầng 4G, 5G theo cam kết của các nhà mạng sau khi đấu giá tần số thành công. Doanh thu bên ngoài tăng 16% cũng được đánh giá là thách thức trong bối cảnh các nhà mạng hạn chế đầu tư mới.
Riêng với mảng duy nhất có kế hoạch giảm là kiểm soát chất lượng, lãnh đạo VTK cho biết năm 2023, doanh thu từ hoạt động kiểm định trạm BTS tăng đột biến so với năm 2022, nhưng năm 2024 sẽ ở mức ổn định nên có xu hướng giảm so với năm 2023.
VTK cũng có kế hoạch bổ sung 5 ngành nghề mới, bao gồm 3 ngành là xây dựng công trình viễn thông, thông tin liên lạc; lắp đặt hệ thống điện; hoạt động thiết kế chuyên dụng để tận dụng nguồn lực sẵn có thúc đẩy hoạt động kinh doanh Công ty. Bổ sung 2 ngành là bán buôn kim loại, quặng kim loại (bán buôn sắt, thép, bán buôn kim loại khác); bán buôn máy vi tính, thiết bị ngoại vi và phần mềm để phục vụ cho thi công giải pháp và ICT.
Trên thị trường chứng khoán, giá cổ phiếu VTK duy trì đà tăng trưởng kể từ thời điểm giao dịch đầu tiên vào tháng 12/2018 trên sàn UPCoM. Kết phiên gần nhất 14/06/2024, VTK có giá 88,900 đồng/cp, tăng hơn 454%, với thanh khoản trung bình hơn 40 ngàn cp/ngày trong 1 năm qua.
Diễn biến cổ phiếu VTK trong 1 năm qua
Huy Khải
FILI
Tổng lợi nhuận doanh nghiệp bất động sản nhà ở trên sàn chứng khoán tiếp tục đi lùi trong năm 2023 nhưng vẫn có 17/64 doanh nghiệp hoàn thành được kế hoạch kinh doanh đề ra.
Theo báo cáo của Viện nghiên cứu và đánh giá thị trường bất động sản Việt Nam, tổng nguồn cung nhà ở trên thị trường năm 2023 đạt 55.3 ngàn sản phẩm, tăng 14% so với năm 2022, nhưng chỉ bằng 32% so với năm 2018, thời điểm trước khi có đại dịch COVID-19.
Rất hiếm các dự án nhà ở thương mại mới được phê duyệt trong năm qua, chưa kể hàng ngàn dự án bị đắp chiếu do vướng mắc pháp lý, thiếu vốn là nguyên nhân dẫn tới sự thiếu hụt nguồn cung trên thị trường.
Trong khi đó, lượng nhà ở giao dịch thành công trong năm 2023 khoảng 18.6 ngàn sản phẩm. Kết quả này tương đương năm 2022 với 18.9 ngàn sản phẩm, tuy nhiên chỉ bằng 17% so với năm 2018, thời điểm trước đại dịch.
Phân khúc căn hộ trung cấp dẫn đầu về số lượng giao dịch, chiếm 43%; theo sau là phân khúc cao cấp chiếm 27%, giao dịch có sự cải thiện dần theo thời gian và ổn định vào thời điểm cuối năm.
Trong bối cảnh lượng giao dịch của toàn thị trường đi ngang, doanh thu thuần của 64 doanh nghiệp bất động sản nhà ở trên sàn chứng khoán (HOSE, HNX và UPCoM) trong năm 2023 lại tăng gần 33% so với năm 2022, đạt gần 322 ngàn tỷ đồng. Tuy nhiên, tổng lãi ròng lại đi lùi gần 11%, chỉ ghi nhận gần 44 ngàn tỷ đồng.
31 doanh nghiệp có lãi giảm
Thống kê từ VietstockFinance có đến 31/64 doanh nghiệp bất động sản nhà ở có lãi ròng đi lùi trong năm 2023. Dẫn đầu mức giảm là CTCP Đầu tư và Xây dựng HUD1 (HOSE: HU1) khi lợi nhuận rơi đến 95% so với năm trước, còn chưa đến 200 triệu đồng. HU1 cho biết nguyên nhân kết quả suy giảm là do khó khăn của thị trường bất động sản nói chung và hoạt động xây lắp nói riêng vẫn còn tiếp diễn, dẫn đến nguồn việc làm của Công ty sụt giảm và không có hiệu quả.
Top 20 doanh nghiệp BĐS nhà ở giảm lãi ròng trong năm 2023. Đvt: Tỷ đồngNguồn: VietstockFinance
Mặt khác, cả những ông lớn trong ngành như Novaland cũng phải “ngậm ngùi” nhìn lợi nhuận giảm đến 63%, về 805 tỷ đồng trong bối cảnh doanh thu thuần chỉ ghi nhận gần 4.8 ngàn tỷ đồng, giảm 57%.
Công ty cho biết, doanh thu chủ yếu đến từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản nhờ bàn giao tại các dự án như NovaWorld Phan Thiet, NovaWorld Ho Tram, Aqua City, Palm City, Lakeview City, Saigon Royal và các dự án bất động sản trung tâm khác.
Doanh thu tài chính trở thành điểm sáng của NVL khi có hơn 5.7 ngàn tỷ đồng, tăng 15%, nhờ lãi mua bán chứng khoán kinh doanh.
Không chỉ giảm, nhiều doanh nghiệp còn ghi nhận năm 2023 là năm lãi thấp nhất quanh một thập niên trở lại đây. Điển hình là CTCP Vạn Phát Hưng và CTCP Quốc Cường Gia Lai , mức lãi ròng năm 2023 lần lượt là mức thấp nhất trong 9 và 11 năm qua của hai công ty này, với 4 tỷ đồng (giảm 77%) và 12 tỷ đồng (giảm 46%).
VPH nhận định 2023 là năm đầy khó khăn, Công ty đang cố gắng hoàn tất các thủ tục pháp lý để có thể triển khai dự án. Trên thực tế, doanh thu thuần cả năm 2023 chỉ đạt hơn 73 tỷ đồng, giảm 55% so với năm trước. Trong đó, hơn 21 tỷ đồng đến từ thương vụ chuyển nhượng một phần thửa đất tại xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè, TPHCM.
9 doanh nghiệp lỗ
Dù giảm nhưng các doanh nghiệp kể trên vẫn có thành quả sau năm 2023, nhiều doanh nghiệp khác trong ngành lại kém may mắn hơn khi phải thua lỗ. Ba doanh nghiệp lỗ vượt mức trăm tỷ gồm: CTCP Kinh doanh và Phát triển Bình Dương , CTCP Đầu tư và Phát triển Du lịch Vinaconex và CTCP Đầu tư Phát triển Nhà và Đô Thị VINAHUD .
9 doanh nghiệp BĐS nhà ở lỗ trong năm 2023. Đvt: Tỷ đồngNguồn: VietstockFinance
TDC dù có doanh thu tài chính đột biến nhờ lãi tiền gửi ngân hàng nhưng với tổng chi phí neo cao, tăng 10%, trong khi doanh thu giảm đáng kể 30%, doanh nghiệp này lỗ gần 366 tỷ đồng, trong khi năm trước lãi 30 tỷ đồng.
VCR sau khi vừa lãi trong năm 2022 đã lỗ trở lại trong năm 2023 với mức lỗ kỷ lục 287 tỷ đồng. Chủ đầu tư dự án Cát Bà Amatina ở Hải Phòng trước đó đã có chuỗi 5 năm lỗ liên tiếp từ 2017-2021.
Đáng buồn hơn cho VCR là với việc công ty mẹ - Tổng CTCP Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam (Vinaconex, HOSE: VCG) chấm dứt hợp đồng hợp tác đầu tư một phân khu trong dự án Cát Bà Amatina, VCR sẽ phải hoàn trả lại Vinaconex 2,200 tỷ đồng.
19 doanh nghiệp bất động sản đạt được tăng trưởng
Trái ngược với bức tranh bi quan ở trên, vẫn còn 19/64 doanh nghiệp lãi tăng trong năm 2023. Đáng chú ý nhất là CTCP Đầu tư và Phát triển Bất động sản An Gia với mức lãi ròng 175 tỷ đồng, gấp hơn 9 lần so với năm trước. Công ty cho biết kết quả đột biến này có được là nhờ bàn giao khu phức hợp Westgate tại Bình Chánh, TPHCM.
19 doanh nghiệp BĐS nhà ở có lãi ròng tăng trong năm 2023. Đvt: Tỷ đồngNguồn: VietstockFinance
Dù chỉ mới lên sàn vào năm 2021, CTCP Phát triển Sunshine Homes đã lãi kỷ lục trong năm 2023 với mức lãi vượt ngưỡng ngàn tỷ (1,169 tỷ đồng), gấp gần 4 lần năm 2022. Động lực để SSH đạt mức lãi này đến từ doanh thu thuần đột biến 2,901 tỷ đồng, gấp hơn 3 lần.
SSH không công bố khoản doanh thu trên đến từ dự án nào, nhưng nếu xét cơ cấu hàng tồn kho của Công ty, ba dự án chủ lực của SSH là Sunshine City Nam Thăng Long, Sunshine Capital Tây Thăng Long và Sunshine Garden (Hà Nội) đã đóng góp phần lớn vào sự thành công của SSH trong năm 2023.
Đến với “gã khổng lồ” Vinhomes , dù chỉ xếp cuối về mức tăng trưởng trong các doanh nghiệp bất động sản nhưng con số lãi ròng năm 2023 của VHM dẫn đầu cả sàn chứng khoán với hơn 33.1 ngàn tỷ đồng, tăng 15%.
Tương tự như SSH, lợi nhuận VHM đạt được chủ yếu đến từ hoạt động kinh doanh bất động sản khi tổng doanh thu thuần hợp nhất quy đổi (bao gồm doanh thu từ các hoạt động của Vinhomes, các hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) và chuyển nhượng bất động sản được ghi nhận vào doanh thu tài chính) đạt 121.4 ngàn tỷ đồng, tăng 49% so với năm 2022, phần lớn nhờ bàn giao đúng tiến độ 9,800 căn bất động sản thấp tầng tại hai dự án Vinhomes Ocean Park 2 và 3.
Top 10 doanh nghiệp BĐS nhà ở có lãi ròng lớn nhất năm 2023. Đvt: Tỷ đồngNguồn: VietstockFinance
Bất chấp lợi nhuận tăng giảm đan xen, có 17/64 doanh nghiệp bất động sản nhà ở đã hoàn thành được kế hoạch đề ra cho năm 2023.
17 doanh nghiệp BĐS nhà ở hoàn thành kế hoạch lợi nhuận năm 2023. Đvt: Tỷ đồngNguồn: VietstockFinance
Bước sang năm 2024, GS.TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo - Phó Giám đốc Đại học Kinh tế TPHCM tại Diễn đàn kinh tế vĩ mô năm 2024 đánh giá, thị trường bất động sản vẫn là “hàn thử biểu” rất quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam. Các chính sách và những quyết định vừa qua đã giúp thị trường bất động sản giải quyết nợ xấu, gỡ “trái bom” trái phiếu doanh nghiệp, qua đó khiến dòng tiền dần quay trở lại.
Hà Lễ
FILI
Dù đã có nhiều chính sách tháo gỡ vướng mắc cho thị trường bất động sản nhưng vẫn chưa tác động nhiều đến các doanh nghiệp ngành xi măng. Kết quả kinh doanh với gam màu tối trong quý 4/2023 cho thấy, nhiều doanh nghiệp xi măng vẫn loay hoay tìm lối thoát.
Đua nhau lập kỷ lục về đáy
Thống kê từ VietstockFinance, trong 17 doanh nghiệp xi măng trên sàn chứng khoán đã công bố BCTC quý 4/2023, chỉ có 3 doanh nghiệp lãi tăng và 1 doanh nghiệp lỗ chuyển lãi. Còn lại 13 doanh nghiệp (chiếm 76%) có kết quả kinh doanh không mấy khả quan, gồm: 3 giảm lãi, 5 lãi chuyển lỗ và 5 tiếp tục thua lỗ.
Tổng doanh thu của ngành trong quý 4 giảm 22% so với cùng kỳ, còn 5,484 tỷ đồng. Toàn bộ 17 doanh nghiệp đều giảm. Kết quả lợi nhuận ròng âm 124 tỷ đồng, cùng kỳ lãi 100 tỷ đồng.
Nguồn: VietstockFinance
2023 có lẽ là năm đáng buồn nhất của Xi măng Bỉm Sơn khi lỗ kỷ lục gần 194 tỷ đồng, cùng kỳ lãi 69 tỷ đồng. Tính riêng quý 4, BCC lỗ gần 86 tỷ đồng (chiếm 44% tổng thua lỗ năm 2023).
Lãi ròng BCC từ năm 2006 - 2023
Khó khăn tiếp tục bủa vây Xi măng VICEM Bút Sơn khi lỗ hơn 32 tỷ đồng trong quý 4/2023. Đây là quý thứ 5 liên tiếp doanh nghiệp này kinh doanh thua lỗ, tính từ quý 4/2022.
BTS cho biết, sản lượng tiêu thụ trong quý 4/2023 giảm gần 69 ngàn tấn so với cùng kỳ, khiến lợi nhuận Công ty giảm.
Với việc cả 4 quý không có lợi nhuận, lũy kế cả năm 2023, BTS lỗ hơn 96 tỷ đồng, cùng kỳ lãi gần 54 tỷ đồng. Đây cũng là kết quả kinh doanh tệ nhất của BTS từ năm 2014.
Lãi ròng BTS từ 2014 - 2023
Sau quý 2 và 3 đều thua lỗ, Xi măng VICEM Hải Vân tiếp tục lỗ trong quý 4/2023 với gần 30 tỷ đồng, cùng kỳ lãi gần 250 triệu đồng. Đây là quý HVX kinh doanh tệ nhất kể từ khi niêm yết trên sàn HOSE vào năm 2010.
Xi măng VICEM Hải Vân cho biết, do nhu cầu thị trường xây dựng về xi măng trên địa bàn miền Trung và Tây Nguyên thấp trong quý 4/2023, khiến tổng doanh thu chỉ đạt 56% so với cùng kỳ.
Lũy kế cả năm 2023, Xi măng VICEM Hải Vân đạt doanh thu 512 tỷ đồng, giảm 32%; lỗ hơn 64 tỷ đồng, cùng kỳ lãi gần 2 tỷ đồng. Với kết quả này, thêm một kỷ lục không đáng có nữa được thiết lập khi 2023 là năm HVX lỗ nặng nhất kể từ năm 2010.
Lãi ròng HVX từ 2010 - 2023
Không khá hơn các doanh nghiệp trong ngành, Xi măng VICEM Hoàng Mai cũng lỗ hơn 5 tỷ đồng, cùng kỳ lãi hơn 6 tỷ đồng. Đây cũng là quý thứ 2 liên tiếp HOM lỗ (quý 3/2023 lỗ hơn 26 tỷ đồng).
HOM cho biết, giá bán xi măng nội địa và xuất khẩu trong kỳ lần lượt giảm 72 ngàn đồng/tấn và 113 ngàn đồng/tấn so với cùng kỳ. Đồng thời, giá thu về clinker cũng giảm 135 ngàn đồng/tấn. Bên cạnh đó, giá điện năm 2023 tăng 2 lần (tăng 3% vào ngày 4/5 và 4.5% vào ngày 9/11) cũng làm thu hẹp lợi nhuận của HOM.
Khép lại năm 2023, HOM đạt doanh thu hơn 1,738 tỷ đồng, giảm 16% và lỗ hơn 31 tỷ đồng (cùng kỳ lãi trên 21 tỷ đồng). Kết quả này cũng tệ nhất và là lần đầu tiên HOM lỗ từ khi niêm yết trên HNX năm 2009.
Lãi ròng HOM từ 2009 - 2023
Rực sáng giữa vườn hoa đỏ
Mặc dù doanh thu thuần quý 4/2023 đạt gần 205 tỷ đồng, giảm 6% so với cùng kỳ, nhưng nhờ giá vốn và cắt giảm hầu hết chi phí nên Xi măng Quán Triều VVMI lãi quý 4 gần 18 tỷ đồng, gấp 2.6 lần cùng kỳ. Với kết quả này, CQT là doanh nghiệp có lợi nhuận tăng mạnh nhất ngành trong quý 4.
Tuy vậy, khép lại năm 2023, CQT chỉ đạt doanh thu 618 tỷ đồng và lãi ròng gần 28 tỷ đồng, lần lượt giảm 14% và 42%.
Xếp ngay sau là Xi măng Yên Bình với mức lãi hơn 12 tỷ đồng, tăng 12% so với cùng kỳ, nhờ phát sinh gần 16 tỷ đồng từ khoản thu nhập khác (phạt do vi phạm hợp đồng).
Quý 4, dù doanh thu giảm 11%, lợi nhuận ròng của Xi măng La Hiên VVMI vẫn tăng 11%, đạt hơn 17 tỷ đồng, nhờ giá vốn hàng bán giảm. Lũy kế cả năm, doanh thu của CLH hơn 659 tỷ đồng và lãi sau thuế hơn 47 tỷ đồng, lần lượt giảm 19% và 16% so với năm trước.
KQKD quý 4/2023 của các doanh nghiệp xi măngĐvt: Tỷ đồng
Nguồn: VietstockFinanceDoanh nghiệp đạt doanh thu ngàn tỷ trong năm 2023
Thống kê từ VietstockFinance, tổng doanh thu của 17 doanh nghiệp xi măng trong năm 2023 đạt 21,190 tỷ đồng, giảm 19% so với cùng kỳ năm 2022; kết quả cuối cùng đáng thất vọng với khoản lỗ 353 tỷ đồng, trong khi năm trước đó lãi 506 tỷ đồng.
Chỉ có 6/17 doanh nghiệp xi măng đạt doanh thu trên 1 ngàn tỷ đồng trong năm 2023, gồm: Xi Măng Vicem Hà Tiên (HOSE: HT1), BCC, BTS, HOM, Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh (UPCoM: QNC) và Xi măng Sài Sơn với tổng doanh thu đạt 17,040 tỷ đồng, chiếm 80%.
Nguồn: VietstockFinance
Doanh thu trên ngàn tỷ là vậy, nhưng năm 2023 khó khăn vừa qua khiến 6 doanh nghiệp này lỗ tới 221 tỷ đồng (chiếm 63% tổng thua lỗ ngành). Đáng nói, BCC lỗ nặng nhất với gần 194 tỷ đồng, chiếm hơn phân nửa tổng thua lỗ toàn ngành.
Nguồn: VietstockFinance
Ông lớn HT1 cũng không tránh khỏi quý ảm đạm khi doanh thu cả năm 2023 đạt 7,049 tỷ đồng, giảm 21%; lãi ròng vỏn vẹn 17 tỷ đồng, giảm mạnh 93%.
So với kế hoạch đề ra, HT1 mới hoàn thành được 78% chỉ tiêu doanh thu và 6% lãi sau thuế. 2023 cũng là năm ông lớn xi măng này có kết quả tệ nhất từ 2014.
KQKD năm 2023 của các doanh nghiệp xi măngĐvt: Tỷ đồng
Nguồn: VietstockFinanceLối đi nào cho ngành xi măng năm 2024?
Ông Lê Nam Khánh - Tổng Giám đốc VICEM nhận định, năm 2023 là năm khó khăn chưa từng có, ảnh hưởng bởi tình hình thế giới, thị trường bất động sản chưa có dấu hiệu phục hồi, nguồn cung xi măng vượt xa so với cầu; giá nguyên, nhiên liệu đầu vào cho sản xuất xi măng vẫn ở mức cao.
Cùng với đó, tiêu thụ xi măng trong nước và xuất khẩu sụt giảm, tồn kho tăng cao, một số nhà máy phải giảm năng suất hoặc dừng lò để hạn chế đổ clinker ra bãi, làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Xu hướng dịch chuyển nhu cầu từ xi măng bao sang xi măng rời tăng, giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của VICEM do giá trị thương hiệu gắn với xi măng bao.
Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, năm 2023, ngành xi măng đã xuất khẩu hơn 31.3 triệu tấn clinker và xi măng, tương đương hơn 1.32 tỷ USD, giảm hơn 1% về lượng, giảm hơn 4% về trị giá so với năm 2022.
Trong báo cáo triển vọng ngành xi măng năm 2024, SSI Research dự báo quý 1/2024, mức tiêu thụ xi măng trong nước sẽ ở mức thấp (chạm đáy) kể từ quý 3/2021, do vừa nghỉ tết Nguyên đán và nhu cầu vẫn ở mức yếu. Tuy nhiên, từ quý 2/2024, sản lượng xi măng bán ra được kỳ vọng sẽ cải thiện so với cùng kỳ, nhờ hoạt động xây dựng có dấu hiệu phục hồi.
Ngoài ra, các dự án đầu tư công lớn như sân bay Long Thành và các dự án đường cao tốc ở miền Trung và Nam có thể bù đắp nhu cầu yếu trong năm 2024.
Tăng trưởng ở thị trường xuất khẩu có phần hạn chế do Trung Quốc giảm nhập khẩu xi măng của Việt Nam. Năm 2023, xuất khẩu xi măng và clinker gần như đi ngang (giảm 1% so với cùng kỳ) do Trung Quốc giảm nhập khẩu 90% vì nhu cầu trên thị trường bất động sản yếu.
Ngược lại, Bangladesh là thị trường tăng trưởng khi xuất khẩu xi măng và clinker sang nước này tăng 40%, nhờ tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng.
Theo SSI Research, quý 4/2023, giá than trung bình ở châu Âu giảm hơn một nửa so với cùng kỳ, xuống 120 USD/tấn; giá than ở Úc giảm 65%, xuống 136 USD/tấn; giá than ở Trung Quốc giảm 35%, xuống 123 USD/tấn.
Trong nửa đầu năm 2024, SSI Research cho rằng, giá than sẽ duy trì ổn định như hiện tại khi mùa đông ở Bắc bán cầu đến gần (và các biện pháp trừng phạt đối với Nga vẫn có hiệu lực), giúp cân bằng với áp lực giảm từ giá dầu khí. Do đó, giá than đầu vào trung bình cho các doanh nghiệp sản xuất xi măng sẽ giảm trong năm 2024, do mức nền giá cao được thiết lập vào nửa đầu năm 2023. Vì vậy, biên lợi nhuận gộp của các doanh nghiệp sản xuất xi măng được kỳ vọng sẽ chạm đáy trong quý 1/2024, sau đó cải thiện ở các quý tiếp theo.
Thanh Tú
FILI
交易股票、貨幣、商品、期貨、債券、基金等金融工具或加密貨幣屬高風險行為,這些風險包括損失您的部分或全部投資金額,所以交易並非適合所有投資者。
做出任何財務決定時,應該進行自己的盡職調查,運用自己的判斷力,並諮詢合格的顧問。本網站的內容並非直接針對您,我們也未考慮您的財務狀況或需求。本網站所含資訊不一定是即時提供的,也不一定是準確的。本站提供的價格可能由造市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他財務決定均應完全由您負責,並且您不得依賴通過網站提供的任何資訊。我們不對網站中的任何資訊提供任何保證,並且對因使用網站中的任何資訊而可能造成的任何交易損失不承擔任何責任。
未經本站書面許可,禁止使用、儲存、複製、展現、修改、傳播或分發本網站所含數據。提供本網站所含數據的供應商及交易所保留其所有知識產權。