行情
新聞
分析
使用者
快訊
財經日曆
學習
數據
- 名稱
- 最新值
- 前值
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
公:--
預: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
無匹配數據
最新觀點
最新觀點
最近更新
港股投資的風險預警
儘管香港法律體系和監管框架相對健全,但港股市場仍存在一些特定的風險和挑戰,如港幣與美元掛鉤,外地投資者可能會面臨匯率波動;中國內地的政策變化和經濟狀況對港股的影響等 。
投資港股費用架構與稅務
港股市場的交易成本包括總投資成本為買賣股票的交易費用、印花稅、結算費用等,對於外地投資者,可能會涉及兌換港幣所產生匯率轉換費用,以及依照所在地的相關法規需繳納的稅款。
港股產業分析:非必需消費產業
港股市場非必需消費產業涵蓋汽車、教育、旅遊、餐飲、服飾等多個領域,在643家上市公司中35%為中國內地公司,佔總市值的65%,因此受中國經濟影響深遠。
港股產業分析:地產建築業
地產建築業在港股指數中的份額近年來已明顯下降,但截至2022年,它依然在市場上佔有約10%的份額。 包含了房地產開發、建築工程、房地產投資和物業管理等各個方面。
中國·香港
越南·胡志明
杜拜
奈及利亞·拉各斯
埃及·開羅
查看所有搜尋結果
暫無數據
Sau 3 quý liên tục thua lỗ, ngành xi măng đã trở lại “mặt đất” khi có lãi trong quý 2/2024. Liệu đây có phải khởi đầu chu kỳ tăng trưởng trở lại của ngành xi măng?
Theo số liệu thống kê từ VietstockFinance của 17 doanh nghiệp xi măng trên sàn chứng khoán đã công bố BCTC từ quý 1/2022 - 2/2024. Ngành xi măng có lãi trở lại sau 3 quý liên tục thua lỗ, đạt hơn 33 tỷ đồng, giảm 9% so với cùng kỳ; trong khi doanh thu đạt 5,935 tỷ đồng, tăng 4%.
Thời gian qua, do ảnh hưởng tình hình thế giới, chiến tranh Trung Đông ngày càng căng thẳng khó lường; trong khi thị trường bất động sản trong nước chưa thực sự khởi sắc, nguồn cung xi măng vượt xa so với nhu cầu; giá nguyên, nhiên liệu đầu vào vẫn ở mức cao. Tiêu thụ trong nước và xuất khẩu sụt giảm, tồn kho tăng cao, một số nhà máy phải giảm năng suất hoặc dừng lò đã khiến nhiều Doanh nghiệp mảng này lao đao, chìm trong thua lỗ.
Doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp xi măng từ quý 1/2022 - quý 2/2024Nguồn: VietstockFinance
Số doanh nghiệp báo lãi đã nhiều hơn
Theo thống kê, trong 17 doanh nghiệp xi măng đã công bố BCTC quý 2/2024, có 4 doanh nghiệp tăng lãi, 3 giảm, 2 lỗ chuyển lãi. Còn lại 8 doanh nghiệp đều thua lỗ với 2 doanh nghiệp lãi chuyển lỗ và 6 tiếp tục thua lỗ.
Tuy vẫn còn nhiều doanh nghiệp lỗ, nhưng số lượng doanh nghiệp báo lãi đã nhiều hơn quý đầu năm (chỉ duy nhất một doanh nghiệp báo lãi).
Dẫn đầu mức tăng trưởng là CTCP VICEM Thương mại Xi măng T với lãi ròng gần 2 tỷ đồng, tăng 30% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, lũy kế 6 tháng, lãi ròng TMX lại giảm 43%, còn hơn 1 tỷ đồng.
Xi măng Sài Sơn S cũng lãi hơn 2 tỷ đồng trong quý 2, tăng 24%, nhờ nhà máy hoạt động ổn định, chi phí nguyên vật liệu đầu vào và chi phí lãi vay giảm do SCJ đã trả vốn trung hạn. Tuy nhiên, giống TMX, lãi ròng 6 tháng SCJ chỉ hơn 2 tỷ đồng, giảm 9%.
Bất chấp nhu cầu xi măng giảm, lãi ròng quý 2 của Xi măng La Hiên VVMI C vẫn tăng 10%, đạt hơn 12 tỷ đồng, nhưng lũy kế 6 tháng, giảm 41% còn 12 tỷ đồng.
Trong bối cảnh các doanh nghiệp cùng ngành ít nhiều có vài quý thua lỗ thời gian qua, riêng CLH đã ngược dòng với duy nhất một lần báo lỗ vào quý 3/2017 (hơn 2 tỷ đồng). CLH cho biết, thị trường bất động sản quý 2/2024 trầm lắng, nhu cầu xi măng suy giảm, mặt khác mưa nhiều nên sản lượng tiêu thụ giảm, đặc biệt giá bán sản phẩm cũng giảm. Tuy nhiên, Công ty đã đưa ra các giải pháp như tăng năng suất thiết bị, tiết kiệm chi phí trong sản suất. Bên cạnh đó, việc sửa chữa các thiết bị chính chủ yếu tập trung trong quý 3/2024, Công ty cũng tiết giảm chi phí tài chính nên giúp lợi nhuận tăng.
Ngoài các doanh nghiệp có lợi nhuận tăng trưởng, còn có thêm 2 cái tên lỗ chuyển lãi là Xi măng Bỉm Sơn B gần 26 tỷ đồng (cùng kỳ lỗ hơn 5 tỷ đồng) và Xi măng Yên Bình V gần 9 tỷ đồng (cùng kỳ lỗ gần 3 tỷ đồng).
KQKD của doanh nghiệp xi măng trong quý 2/2024 (Đvt: Tỷ đồng)Nguồn: VietstockFinance
Nhưng phần lớn vẫn đang bế tắc
Việc tiếp tục lỗ hơn 36 tỷ đồng trong quý 2/2024, Xi măng VICEM Bút Sơn B nối dài chuỗi thua lỗ lên quý thứ 7 liên tiếp (từ quý 4/2022).
Không khá hơn, Xi măng VICEM Hải Vân H cũng 5 quý liên tiếp (từ quý 2/2023) với khoản lỗ ròng gần 10 tỷ đồng. HVX cho biết, sản lượng tiêu thụ xi măng quý 2 giảm gần 48 ngàn tấn (trong đó, clinker là 27.8 ngàn tấn), tương ứng giảm 31% so với cùng kỳ là nguyên nhân chính khiến lợi nhuận giảm.
Quý 2/2024 đánh dấu quý thứ 13 Xi măng Phú Thọ P thua lỗ (từ quý 1/2021), gần 9 tỷ đồng. Lũy kế 6 tháng lỗ 18 tỷ đồng. PTE cho biết, 2024 tiếp tục là một năm khó khăn đối với ngành xi măng, nhu cầu xi măng trên thị trường liên tục sụt giảm cùng với đó là sự cạnh tranh gây gắt đã khiến lợi nhuận giảm.
2 doanh nghiệp khác mới gia nhập nhóm là CTCP Khoáng sản FECON F lỗ ròng hơn 11 tỷ đồng và Xi măng Quán Triều VVMI C lỗ hơn 2 tỷ đồng; trong khi cùng kỳ năm trước lãi lần lượt hơn 5 tỷ đồng và hơn 8 tỷ đồng.
Ông trùm xi măng Hà Tiên có kết quả khả quan hơn khi lãi ròng gần 46 tỷ đồng, giảm 22%. Lãi ròng 6 tháng hơn 21 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ gần 27 tỷ đồng.
Tương tự, Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh Q cũng có lãi quý 2 hơn 27 tỷ đồng, giảm 23%. Nửa đầu năm, QNC lãi gần 33 tỷ đồng, giảm 41%.
KQKD của doanh nghiệp xi măng trong nửa đầu năm 2024 (Đvt: Tỷ đồng)Nguồn: VietstockFinance
Kết quả quý 2 và 6 tháng đầu năm 2024 đã nói lên phần nào các khó khăn, vướng mắc vẫn còn, tiếp tục bám lấy ngành xi măng. Điều này cũng không bất ngờ khi đã được các doanh nghiệp xi măng nhận định và dự báo trước với nhiều kế hoạch 2024 tiếp tục thua lỗ.
Điển hình như Xi măng Bỉm Sơn đưa kế hoạch 2024 lỗ sau thuế gần 159 tỷ đồng, Xi măng VICEM Hoàng Mai H có kế hoạch lỗ gần 104 tỷ đồng, BTS kế hoạch lỗ 111 tỷ đồng.
HT1 và SCJ có vẻ lạc quan hơn khi đặt mục tiêu lãi sau thuế lần lượt hơn 23 tỷ đồng, tăng 31% và hơn 11 tỷ đồng, tăng 42% so với năm 2023. QNC đặt lãi sau thuế đi lùi 57%, đạt 34 tỷ đồng.
Nguồn: VietstockFinance
Về sản lượng, phần lớn doanh nghiệp đều đặt kế hoạch sản xuất tăng trưởng. Trong đó, HT1 dự kiến sản xuất clinker gần 4.1 triệu tấn và xi măng 5.66 triệu tấn, lần lượt tăng 8% và 5% so với năm trước. Hay BCC đặt kế hoạch sản xuất clinker hơn 2.3 triệu tấn, tăng 35% và xi măng (bao gồm gia công) gần 3 triệu tấn, tăng 6%.
Nguồn: VietstockFinance
Chưa đủ để bắt đầu chu kỳ tăng trưởng mới
Theo Bộ Xây dựng, sản xuất clinker và xi măng sụt giảm lớn từ năm 2023 đến nay. Theo đó, tổng sản lượng sản xuất năm qua chỉ đạt 92.9 triệu tấn, tương ứng 75% tổng công suất thiết kế. Tổng sản lượng tiêu thụ 2023 đạt 87.8 triệu tấn, giảm 12% so với năm 2022.
Năm 2023, tiêu thụ xi măng trong nước chỉ đạt 56,6 triệu tấn, giảm hơn 16% năm 2022, đây là mức sụt giảm lớn nhất từ trước đến nay trong lĩnh vực xi măng.
6 tháng đầu năm 2024, tổng sản lượng tiêu thụ clinker và xi măng đạt khoảng 44 triệu tấn, tương đương cùng kỳ. Lượng clinker xuất khẩu cũng chỉ đạt khoảng 5.4 triệu tấn, gần bằng cùng kỳ năm 2023.
Sở dĩ, sản lượng xuất khẩu tiếp tục giảm là do thị trường bất động sản Trung Quốc chưa có dấu hiệu phục hồi, xi măng cũng bị dư thừa và dự báo sẽ cạnh tranh với xi măng Việt Nam vào các thị trường xuất khẩu như Philippines, Trung Mỹ, Nam Phi… Bên cạnh đó, chi phí cước vận tải biển tăng cao, cộng với các quy định về hàng rào kỹ thuật tại phần lớn thị trường xuất khẩu.
Ngoài ra, tình hình tài chính của ngành gặp khó do các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, đặc biệt các doanh nghiệp xi măng đầu tư vốn lớn. Giai đoạn đầu khi mới vận hành nhà máy, các doanh nghiệp phải trả nợ vốn vay, cộng với lãi vay cao, dẫn đến áp lực trả nợ cả gốc và lãi rất lớn. Tiêu thụ chậm, nhiều doanh nghiệp đã phải dừng một số dây chuyền sản xuất, khiến nhóm ngành xi măng sản xuất không hiệu quả, thua lỗ; chưa kể đến tình hình kinh tế thế giới đang khó lường, chiến tranh Trung Đông khắc nghiệt hơn.
Các thông tin trên cho thấy tương lai ngành xi măng vẫn đang bất định, là dấu chấm hỏi đang kiếm lời giải. Dù có nhiều doanh nghiệp có lãi hơn, nhưng như vậy là chưa đủ, chưa thể kết luận được là chu kỳ tăng trưởng mới cho triển vọng ngành xi măng thời gian tới.
Thanh Tú
FILI
Doanh nghiệp xi măng có lãi trở lại nhưng chưa đủ để khởi đầu chu kỳ tăng trưởng mới
Sau 3 quý liên tục thua lỗ, ngành xi măng đã trở lại “mặt đất” khi có lãi trong quý 2/2024. Liệu đây có phải khởi đầu chu kỳ tăng trưởng trở lại của ngành xi măng?
Theo số liệu thống kê từ VietstockFinance của 17 doanh nghiệp xi măng trên sàn chứng khoán đã công bố BCTC từ quý 1/2022 - 2/2024. Ngành xi măng có lãi trở lại sau 3 quý liên tục thua lỗ, đạt hơn 33 tỷ đồng, giảm 9% so với cùng kỳ; trong khi doanh thu đạt 5,935 tỷ đồng, tăng 4%.
Thời gian qua, do ảnh hưởng tình hình thế giới, chiến tranh Trung Đông ngày càng căng thẳng khó lường; trong khi thị trường bất động sản trong nước chưa thực sự khởi sắc, nguồn cung xi măng vượt xa so với nhu cầu; giá nguyên, nhiên liệu đầu vào vẫn ở mức cao. Tiêu thụ trong nước và xuất khẩu sụt giảm, tồn kho tăng cao, một số nhà máy phải giảm năng suất hoặc dừng lò đã khiến nhiều Doanh nghiệp mảng này lao đao, chìm trong thua lỗ.
Doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp xi măng từ quý 1/2022 - quý 2/2024
Nguồn: VietstockFinance
Số doanh nghiệp báo lãi đã nhiều hơn
Theo thống kê, trong 17 doanh nghiệp xi măng đã công bố BCTC quý 2/2024, có 4 doanh nghiệp tăng lãi, 3 giảm, 2 lỗ chuyển lãi. Còn lại 8 doanh nghiệp đều thua lỗ với 2 doanh nghiệp lãi chuyển lỗ và 6 tiếp tục thua lỗ.
Tuy vẫn còn nhiều doanh nghiệp lỗ, nhưng số lượng doanh nghiệp báo lãi đã nhiều hơn quý đầu năm (chỉ duy nhất một doanh nghiệp báo lãi).
Dẫn đầu mức tăng trưởng là CTCP VICEM Thương mại Xi măng (HNX: TMX) với lãi ròng gần 2 tỷ đồng, tăng 30% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, lũy kế 6 tháng, lãi ròng TMX lại giảm 43%, còn hơn 1 tỷ đồng.
Xi măng Sài Sơn (UPCoM: SCJ) cũng lãi hơn 2 tỷ đồng trong quý 2, tăng 24%, nhờ nhà máy hoạt động ổn định, chi phí nguyên vật liệu đầu vào và chi phí lãi vay giảm do SCJ đã trả vốn trung hạn. Tuy nhiên, giống TMX, lãi ròng 6 tháng SCJ chỉ hơn 2 tỷ đồng, giảm 9%.
Bất chấp nhu cầu xi măng giảm, lãi ròng quý 2 của Xi măng La Hiên VVMI (HNX: CLH) vẫn tăng 10%, đạt hơn 12 tỷ đồng, nhưng lũy kế 6 tháng, giảm 41% còn 12 tỷ đồng.
Trong bối cảnh các doanh nghiệp cùng ngành ít nhiều có vài quý thua lỗ thời gian qua, riêng CLH đã ngược dòng với duy nhất một lần báo lỗ vào quý 3/2017 (hơn 2 tỷ đồng). CLH cho biết, thị trường bất động sản quý 2/2024 trầm lắng, nhu cầu xi măng suy giảm, mặt khác mưa nhiều nên sản lượng tiêu thụ giảm, đặc biệt giá bán sản phẩm cũng giảm. Tuy nhiên, Công ty đã đưa ra các giải pháp như tăng năng suất thiết bị, tiết kiệm chi phí trong sản suất. Bên cạnh đó, việc sửa chữa các thiết bị chính chủ yếu tập trung trong quý 3/2024, Công ty cũng tiết giảm chi phí tài chính nên giúp lợi nhuận tăng.
Ngoài các doanh nghiệp có lợi nhuận tăng trưởng, còn có thêm 2 cái tên lỗ chuyển lãi là Xi măng Bỉm Sơn (HNX: BCC) gần 26 tỷ đồng (cùng kỳ lỗ hơn 5 tỷ đồng) và Xi măng Yên Bình (UPCoM: VCX) gần 9 tỷ đồng (cùng kỳ lỗ gần 3 tỷ đồng).
KQKD của doanh nghiệp xi măng trong quý 2/2024 (Đvt: Tỷ đồng)
Nguồn: VietstockFinance
Nhưng phần lớn vẫn đang bế tắc
Việc tiếp tục lỗ hơn 36 tỷ đồng trong quý 2/2024, Xi măng VICEM Bút Sơn (HNX: BTS) nối dài chuỗi thua lỗ lên quý thứ 7 liên tiếp (từ quý 4/2022).
Không khá hơn, Xi măng VICEM Hải Vân (HOSE: HVX) cũng 5 quý liên tiếp (từ quý 2/2023) với khoản lỗ ròng gần 10 tỷ đồng. HVX cho biết, sản lượng tiêu thụ xi măng quý 2 giảm gần 48 ngàn tấn (trong đó, clinker là 27.8 ngàn tấn), tương ứng giảm 31% so với cùng kỳ là nguyên nhân chính khiến lợi nhuận giảm.
Quý 2/2024 đánh dấu quý thứ 13 Xi măng Phú Thọ (UPCoM: PTE) thua lỗ (từ quý 1/2021), gần 9 tỷ đồng. Lũy kế 6 tháng lỗ 18 tỷ đồng. PTE cho biết, 2024 tiếp tục là một năm khó khăn đối với ngành xi măng, nhu cầu xi măng trên thị trường liên tục sụt giảm cùng với đó là sự cạnh tranh gây gắt đã khiến lợi nhuận giảm.
2 doanh nghiệp khác mới gia nhập nhóm là CTCP Khoáng sản FECON (HOSE: FCM) lỗ ròng hơn 11 tỷ đồng và Xi măng Quán Triều VVMI (UPCoM: CQT) lỗ hơn 2 tỷ đồng; trong khi cùng kỳ năm trước lãi lần lượt hơn 5 tỷ đồng và hơn 8 tỷ đồng.
Ông trùm xi măng Hà Tiên có kết quả khả quan hơn khi lãi ròng gần 46 tỷ đồng, giảm 22%. Lãi ròng 6 tháng hơn 21 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ gần 27 tỷ đồng.
Tương tự, Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh (UPCoM: QNC) cũng có lãi quý 2 hơn 27 tỷ đồng, giảm 23%. Nửa đầu năm, QNC lãi gần 33 tỷ đồng, giảm 41%.
KQKD của doanh nghiệp xi măng trong nửa đầu năm 2024 (Đvt: Tỷ đồng)
Nguồn: VietstockFinance
Kết quả quý 2 và 6 tháng đầu năm 2024 đã nói lên phần nào các khó khăn, vướng mắc vẫn còn, tiếp tục bám lấy ngành xi măng. Điều này cũng không bất ngờ khi đã được các doanh nghiệp xi măng nhận định và dự báo trước với nhiều kế hoạch 2024 tiếp tục thua lỗ.
Điển hình như Xi măng Bỉm Sơn đưa kế hoạch 2024 lỗ sau thuế gần 159 tỷ đồng, Xi măng VICEM Hoàng Mai (HNX: HOM) có kế hoạch lỗ gần 104 tỷ đồng, BTS kế hoạch lỗ 111 tỷ đồng.
HT1 và SCJ có vẻ lạc quan hơn khi đặt mục tiêu lãi sau thuế lần lượt hơn 23 tỷ đồng, tăng 31% và hơn 11 tỷ đồng, tăng 42% so với năm 2023. QNC đặt lãi sau thuế đi lùi 57%, đạt 34 tỷ đồng.
Nguồn: VietstockFinance
Về sản lượng, phần lớn doanh nghiệp đều đặt kế hoạch sản xuất tăng trưởng. Trong đó, HT1 dự kiến sản xuất clinker gần 4.1 triệu tấn và xi măng 5.66 triệu tấn, lần lượt tăng 8% và 5% so với năm trước. Hay BCC đặt kế hoạch sản xuất clinker hơn 2.3 triệu tấn, tăng 35% và xi măng (bao gồm gia công) gần 3 triệu tấn, tăng 6%.
Nguồn: VietstockFinance
Chưa đủ để bắt đầu chu kỳ tăng trưởng mới
Theo Bộ Xây dựng, sản xuất clinker và xi măng sụt giảm lớn từ năm 2023 đến nay. Theo đó, tổng sản lượng sản xuất năm qua chỉ đạt 92.9 triệu tấn, tương ứng 75% tổng công suất thiết kế. Tổng sản lượng tiêu thụ 2023 đạt 87.8 triệu tấn, giảm 12% so với năm 2022.
Năm 2023, tiêu thụ xi măng trong nước chỉ đạt 56,6 triệu tấn, giảm hơn 16% năm 2022, đây là mức sụt giảm lớn nhất từ trước đến nay trong lĩnh vực xi măng.
6 tháng đầu năm 2024, tổng sản lượng tiêu thụ clinker và xi măng đạt khoảng 44 triệu tấn, tương đương cùng kỳ. Lượng clinker xuất khẩu cũng chỉ đạt khoảng 5.4 triệu tấn, gần bằng cùng kỳ năm 2023.
Sở dĩ, sản lượng xuất khẩu tiếp tục giảm là do thị trường bất động sản Trung Quốc chưa có dấu hiệu phục hồi, xi măng cũng bị dư thừa và dự báo sẽ cạnh tranh với xi măng Việt Nam vào các thị trường xuất khẩu như Philippines, Trung Mỹ, Nam Phi… Bên cạnh đó, chi phí cước vận tải biển tăng cao, cộng với các quy định về hàng rào kỹ thuật tại phần lớn thị trường xuất khẩu.
Ngoài ra, tình hình tài chính của ngành gặp khó do các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, đặc biệt các doanh nghiệp xi măng đầu tư vốn lớn. Giai đoạn đầu khi mới vận hành nhà máy, các doanh nghiệp phải trả nợ vốn vay, cộng với lãi vay cao, dẫn đến áp lực trả nợ cả gốc và lãi rất lớn. Tiêu thụ chậm, nhiều doanh nghiệp đã phải dừng một số dây chuyền sản xuất, khiến nhóm ngành xi măng sản xuất không hiệu quả, thua lỗ; chưa kể đến tình hình kinh tế thế giới đang khó lường, chiến tranh Trung Đông khắc nghiệt hơn.
Các thông tin trên cho thấy tương lai ngành xi măng vẫn đang bất định, là dấu chấm hỏi đang kiếm lời giải. Dù có nhiều doanh nghiệp có lãi hơn, nhưng như vậy là chưa đủ, chưa thể kết luận được là chu kỳ tăng trưởng mới cho triển vọng ngành xi măng thời gian tới.
Kiên nhẫn với cổ phiếu xi măng
Do gặp thách thức lớn nhất từ nhu cầu thị trường trong nước thấp cùng sự cạnh tranh giữa doanh nghiệp trong ngành diễn ra ngày càng gay gắt, gam màu xám vẫn tiếp tục đeo bám các doanh nghiệp xi măng. Tuy nhiên, nếu tình hình ngành chuyển biến tích cực thì đây là nhóm cổ phiếu mà nhà đầu tư nên theo dõi.
Theo thống kê tại 18 doanh nghiệp xi măng trên sàn chứng khoán, trong nửa đầu năm, các công ty lỗ trước thuế gần 110 tỷ đồng, gấp 3,4 lần cùng kỳ năm trước.
Gam màu xám vẫn tiếp tục đeo bám
Riêng quý II/2024, lợi nhuận của các doanh nghiệp đạt 79,5 tỷ đồng, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm trước, nhưng vẫn thua xa thời điểm kinh doanh thuận lợi như thời điểm quý II/2021 (508 tỷ đồng). Trong số đó, 5/18 doanh nghiệp vẫn báo lỗ; 8/18 doanh nghiệp có lãi nhưng tăng trưởng âm; 5 doanh nghiệp tăng trưởng lợi nhuận nhưng phần lớn tăng từ mức nền cơ sở thấp (khá sát gần mức hòa vốn) hoặc thua lỗ của cùng kỳ.
Gam màu xám vẫn tiếp tục đeo bám các doanh nghiệp xi măng.
Điển hình, CTCP Xi măng Vicem Bút Sơn (BTS) duy trì chuỗi thua lỗ từ quý IV/2022 đến nay, qua đó nâng khoản lỗ lũy kế lên 182 tỷ đồng, tương đương 14% vốn điều lệ. Doanh thu giảm cùng chi phí giá vốn tăng đã khiến biên lợi nhuận chỉ hơn 1,1%, đồng nghĩa cứ mỗi 100 đồng doanh thu chỉ mang về 1,1 đồng lợi nhuận gộp.
Tương tự, CTCP Xi măng Vicem Hải Vân (HVX) cũng đã có quý thua lỗ thứ 5 liên tiếp. CTCP Xi măng Sông Đà Yaly (SDY) và CTCP Xi măng Phú Thọ (PTE) ghi nhận khoản lỗ lũy kế vượt vốn điều lệ.
Trong khi đó, CTCP Vicem Hà Tiên (HT1) - doanh nghiệp có quy mô doanh thu lớn nhất (7.000 - 8.000 tỷ đồng/năm) đã báo lãi trở lại trong quý II/2024 sau quý đầu năm thua lỗ, nhưng vẫn giảm hơn 18% so với cùng kỳ. Nguyên nhân giúp “ông lớn” này có lãi quý vừa qua không phải do sự hồi phục về doanh thu, mà bởi chi phí lãi vay được tiết giảm mạnh. Vicem Hà Tiên đã giảm vay nợ và được áp dụng mức lãi suất cho vay thấp hơn cùng kỳ.
Theo bà Phí Hương Nga, Vụ trưởng Vụ Thống kê Công nghiệp và Xây dựng (Tổng cục Thống kê), bóc tách trong nhóm ngành công nghiệp, xi măng là một điển hình trong nhóm các ngành chưa hồi phục.
“Ngành xi măng gặp thách thức lớn nhất từ nhu cầu thị trường trong nước thấp. Ngoài ra, sự cạnh tranh giữa doanh nghiệp trong ngành diễn ra ngày càng gay gắt”, bà Nga chỉ rõ.
Trước đó, năm 2023, tổng sản lượng tiêu thụ xi măng bao gồm cả xuất khẩu và tiêu dùng trong nước đạt 87,8 triệu tấn, bằng 88% so với năm 2022. Tiêu thụ giảm, tồn kho tăng cao khiến một số nhà máy, dây chuyền phải giảm công suất hoặc dừng sản xuất. Bức tranh tài chính của ngành vẫn mang màu xám trong nửa đầu năm 2024, nhưng có nhiều hơn sự phân hóa.
Khó khăn còn kéo dài
Theo Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Văn Sinh, từ năm 2023 đến nay, sản xuất clinker và xi măng sụt giảm nghiêm trọng. Các dây chuyền hoạt động toàn ngành chỉ đạt 75% công suất thiết kế, riêng năm 2023 có 42 dây chuyền phải ngừng sản xuất từ 1 - 6 tháng, trong đó một số dây chuyền phải dừng cả năm.
“Hiện, vẫn còn không ít nhà máy dừng sản xuất hoặc sản xuất cầm chừng do thiếu đầu ra. Ngành xi măng đang chờ đợi vào sự phục hồi của thị trường trong các tháng còn lại của năm để đẩy mạnh tiêu thụ, giúp cải thiện doanh thu và hiệu quả kinh doanh”, Thứ trưởng cho hay.
Thực tế, phần lớn doanh nghiệp xi măng nhận định khả năng hoàn thành kế hoạch năm nay là rất khó khăn, khi mà Hiệp hội Xi măng Việt Nam (VNCA) dự báo ngành xi măng sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn trong năm 2024. Xuất khẩu xi măng và clinker sẽ gặp trở ngại do thị trường bất động sản Trung Quốc chưa phục hồi và nguồn cung xi măng Trung Quốc dư thừa, dẫn đến cạnh tranh gay gắt với xi măng Việt Nam tại các thị trường xuất khẩu như Philippines, Trung Mỹ, và Nam Phi.
Thị trường nội địa cũng ảm đạm với mức tiêu thụ khoảng 60 triệu tấn/năm, trong khi khả năng sản xuất thực tế có thể đạt tới 130 triệu tấn. Nếu không thể xuất khẩu, nguy cơ doanh nghiệp phá sản sẽ gia tăng. Ngược lại, khi kinh tế phục hồi và nhu cầu tăng, có thể xảy ra tình trạng thiếu xi măng như giai đoạn trước năm 2010.
Tuy nhiên, trong đầu tư chứng khoán, có một dạng cổ phiếu sẽ tăng rất mạnh, thậm chí vượt trội hơn hẳn so với thị trường, đó là dạng cổ phiếu hồi sinh từ vực thẳm. Ngành xi măng trong các năm gần đây đang gặp khó khăn, nhiều doanh nghiệp thua lỗ nặng nề, nhưng nếu tình hình ngành tích cực thì đây là nhóm cổ phiếu mà nhà đầu tư nên theo dõi.
Thực tế, đối với thị trường trong nước, do bất động sản đóng băng dẫn tới nhu cầu nguyên vật liệu xây dựng giảm, từ đó khiến cho ngành xi măng càng sản xuất càng lỗ. Tuy nhiên, gần đây, Chính phủ đang đẩy mạnh tháo gỡ khó khăn về pháp lý và tín dụng cho ngành bất động sản, từ đó hỗ trợ gián tiếp cho ngành vật liệu xây dựng và các ngành liên quan. Ngoài ra, kỳ vọng Chính phủ đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công và sử dụng xi măng nhiều hơn thay thế cho các nguyên liệu cũ trong các công trình trọng điểm. Cuối cùng là đề xuất đưa thuế xuất khẩu clinker xi măng về 5% thay vì 10% để giúp các doanh nghiệp vượt qua khó khăn.
Các doanh nghiệp xi măng hầu hết là doanh nghiệp có vốn nhà nước. Chính vì thế, nhà đầu tư có quyền kỳ vọng vào chính sách đẩy mạnh tháo gỡ khó khăn cho ngành xi măng để tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Nếu hồi sinh được thì cổ phiếu ngành xi măng sẽ rất hấp dẫn vì đang có định giá khá rẻ.
Hơn nữa, trong những giai đoạn kinh doanh tốt, các doanh nghiệp xi măng như Vicem Hà Tiên, Xi măng Bỉm Sơn (BCC), Vicem Bút Sơn, Xi măng Hoàng Mai (HOM)… đều chia cổ tức đều đặn, đây cũng là điều hấp dẫn nhà đầu tư. Đặc biệt, trong khi các doanh nghiệp đang gặp khó khăn thì lịch sử chia cổ tức rất quan trọng, vì nhà đầu tư phải yên tâm về nội tại của doanh nghiệp trước khi kỳ vọng vào tương lai của doanh nghiệp đó.
“Khi ngành xi măng phục hồi, hưởng lợi nhất là Vicem Hà Tiên, vì đây là doanh nghiệp đầu ngành được niêm yết trên sàn chứng khoán, cũng là doanh nghiệp có kết quả kinh doanh ổn định nhất. Còn các doanh nghiệp quy mô nhỏ hơn như Xi măng Bỉm Sơn, Vicem Bút Sơn… kỳ vọng sẽ sớm thoát lỗ”, theo Chứng khoán VPS.
Bức tranh xám màu của nhóm doanh nghiệp xi măng
Công ty cổ phần Xi măng Vicem Hải Vân (HVX) cũng đã có quý thua lỗ thứ 5 liên tiếp. Công ty cổ phần Xi măng Sông Đà Yaly và Công ty cổ phần Xi măng Phú Thọ ghi nhận khoản lỗ lũy kế vượt vốn điều lệ.
Bất chấp sự hồi phục mạnh mẽ của lĩnh vực sản xuất công nghiệp, xi măng nằm trong số ít ngành ngược dòng “đi lùi”. Cầu yếu cùng áp lực cạnh tranh trong và ngoài nước, lợi nhuận phân hóa nhiều hơn là mảng xám lớn trong bức tranh nửa đầu năm của các doanh nghiệp xi măng.
Thị trường khó thêm khó
Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, trong 6 tháng đầu năm 2024, chỉ có 44.600 tấn clinker và xi măng được xuất sang Trung Quốc, mang về dòng ngoại tệ chưa đến 1,6 triệu USD, trong khi nửa đầu năm 2023 là 24 triệu USD. Sự sụt giảm mạnh mẽ này đã được ghi nhận từ trước đó.
Cụ thể, năm 2023, Trung Quốc - từng là thị trường xuất khẩu trọng điểm của ngành xi măng đã giảm nhập khẩu tới 90%, do nhu cầu yếu trên thị trường bất động sản. Không chỉ vậy, quốc gia này cũng đẩy mạnh xuất khẩu xi măng sang các thị trường mua nhiều xi măng của Việt Nam, khiến sự cạnh tranh về giá tại thị trường xuất khẩu trở nên khốc liệt hơn.
Thống kê tình hình xuất khẩu nửa đầu năm cho thấy, cả nước xuất được 15,7 triệu tấn clinker và xi măng, thu về 603 triệu USD, giảm 0,2% về lượng và 11,8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2023. Trước khi gặp khó từ những biến động của thị trường Trung Quốc, viễn cảnh cạnh tranh của ngành xi măng đã sớm được dự báo từ nhiều năm trước.
Gần 10 năm trước, ngành xi măng Việt Nam đã chứng kiến sự tăng trưởng mạnh về công suất thiết kế khi hàng loạt nhà máy mới đi vào hoạt động. “Dù nhu cầu trong nước tăng mạnh và Việt Nam nỗ lực xuất khẩu, thị trường xi măng Việt Nam sẽ tiếp tục chứng kiến sự dư cung trong vòng 10 năm tới”, chuyên gia từ hãng phân tích dữ liệu lớn nhận định trong một cuộc hội thảo hồi năm 2016.
Tình trạng dư cung cùng biến số mới xuất phát từ tình hình ảm đạm của thị trường bất động sản Trung Quốc khiến thị trường khó càng thêm khó. Thị trường trong nước được kỳ vọng hưởng lợi nhờ đẩy mạnh giải ngân đầu tư công, nhưng tình hình tiêu thụ cũng chưa ghi nhận tín hiệu đi lên rõ nét.
Theo ông Nguyễn Quang Cung, Chủ tịch Hiệp hội Xi măng Việt Nam (VNCA), tăng trưởng tiêu thụ xi măng trong nước 12 năm gần đây chỉ đạt bình quân 2,3%/năm. Riêng năm 2022 và 2023, sản lượng tiêu thụ nội địa thậm chí tăng trưởng âm. Thị trường bất động sản chưa có dấu hiệu phục hồi, các công trình dự án chậm triển khai, giải ngân đầu tư công tại nhiều địa phương còn chậm, phân khúc xây dựng dân sinh cũng trầm lắng… tác động tiêu cực đến việc tiêu thụ xi măng.
Kẻ hồi phục, người vẫn dai dẳng thua lỗ
Trong 6 tháng đầu năm, Chỉ số Sản xuất công nghiệp (IIP) ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng 7,7%. Nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ghi nhận chỉ số sản xuất tăng kèm chỉ số tiêu thụ tăng cao hơn, giúp chỉ số tồn kho giảm. Tuy vậy, theo bà Phí Hương Nga, Vụ trưởng Vụ Thống kê Công nghiệp và Xây dựng (Tổng cục Thống kê), bóc tách trong nhóm ngành công nghiệp, xi măng là một điển hình trong nhóm các ngành chưa hồi phục.
“Ngành xi măng gặp thách thức lớn nhất từ nhu cầu thị trường trong nước thấp. Ngoài ra, sự cạnh tranh giữa doanh nghiệp trong ngành diễn ra ngày càng gay gắt”, bà Nga chỉ ra nguyên nhân chính ảnh hưởng đến kết quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của nhóm doanh nghiệp này trong nửa đầu năm.
Trước đó, năm 2023, tổng sản lượng tiêu thụ bao gồm cả xuất khẩu và tiêu dùng trong nước đạt 87,8 triệu tấn, bằng 88% so với năm 2022. Tiêu thụ giảm, tồn kho tăng cao khiến một số nhà máy, dây chuyền phải giảm năng suất hoặc dừng sản xuất. Bức tranh tài chính của ngành vẫn mang màu xám trong nửa đầu năm 2024, nhưng có nhiều hơn sự phân hóa.
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBITDA) của Công ty TNHH Siam City Cement (Vietnam) quý II/2024 tăng 67% so với cùng kỳ và gấp 2,1 lần quý đầu năm. Đây là đơn vị thuộc Tập đoàn Siam City Cement (SCCC, Thái Lan) - ông lớn đã gom về nhiều doanh nghiệp xi măng Việt Nam thông qua loạt thương vụ mua bán, sáp nhập (M&A). Nhu cầu tăng đáng kể nhờ giải ngân đầu tư công vào các dự án hạ tầng quy mô lớn cùng chiến lược thâm nhập thị trường được thực hiện tốt là hai yếu tố được lãnh đạo doanh nghiệp này chỉ ra.
Một doanh nghiệp Thái Lan khác là SCG không nêu con số lợi nhuận cụ thể từng thị trường, nhưng cũng cho biết, nhu cầu xi măng phục hồi tại Việt Nam, Indonesia và Campuchia đã giúp kéo lại sự suy giảm ở chính thị trường Thái Lan (-9%). Trong đó, thị trường Việt Nam tăng 2%, sau khi giảm 7-9% ở 4 quý liền trước.
Trái với sự hồi phục có phần hiếm hoi trên, Tổng công ty Xi măng Việt Nam (Vicem) lỗ khoảng 863 tỷ đồng, gần gấp đôi so với mức thua lỗ 441 tỷ đồng cùng kỳ năm 2023. Đây cũng là đơn vị dẫn đầu về thua lỗ trong số các doanh nghiệp thuộc Bộ Xây dựng. Lãnh đạo Vicem thừa nhận, chưa lúc nào trong hơn 120 năm thành lập và hoạt động lại gặp tình cảnh khó khăn như hiện tại.
Công ty cổ phần Vicem Hà Tiên (mã HT1, sàn HoSE) - doanh nghiệp có quy mô doanh thu lớn nhất (7.000 - 8.000 tỷ đồng/năm) đã báo lãi trở lại trong quý II/2024 sau quý đầu năm thua lỗ, nhưng vẫn giảm hơn 18% so với cùng kỳ. Nguyên nhân giúp “ông lớn” này có lãi quý vừa qua không phải do sự hồi phục về doanh thu, mà bởi chi phí lãi vay được tiết giảm mạnh. Vicem Hà Tiên đã giảm vay nợ và được áp dụng mức lãi suất cho vay thấp hơn cùng kỳ.
Công ty cổ phần Xi măng Vicem Bút Sơn (BTS) duy trì chuỗi thua lỗ từ quý IV/2022 đến nay, qua đó nâng khoản lỗ lũy kế lên 182 tỷ đồng, tương đương 14% quy mô vốn điều lệ. Doanh thu giảm cùng chi phí giá vốn tăng đã khiến biên lợi nhuận chỉ hơn 1,1%, đồng nghĩa cứ mỗi 100 đồng doanh thu chỉ mang về 1,1 đồng lợi nhuận gộp.
Trong khi đó, Công ty cổ phần Xi măng Vicem Hải Vân (HVX) cũng đã có quý thua lỗ thứ 5 liên tiếp. Công ty cổ phần Xi măng Sông Đà Yaly và Công ty cổ phần Xi măng Phú Thọ ghi nhận khoản lỗ lũy kế vượt vốn điều lệ.
Cuộc sàng lọc thêm gay gắt
Trước tình hình thị trường ảm đạm kéo dài, mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu đẩy mạnh cung cấp xi măng cho các dự án đầu tư công, nhà ở xã hội, Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và các công trình quan trọng, nhằm tháo gỡ khó khăn cho lĩnh vực công nghiệp quan trọng này.
Ngoài yếu tố đầu ra, giá nhiên liệu, năng lượng tăng cao, đặc biệt là giá than đã đẩy chi phí sản xuất xi măng tăng, thuế xuất khẩu clinker tăng từ 5 lên 10% từ đầu năm trước, sức ép môi trường với các nhà máy cũng được nêu ra. Thủ tướng chỉ đạo, Bộ Tài chính xem xét kiến nghị của VNCA trong quá trình tiếp thu, hoàn thiện Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 26/2023/NĐ-CP ngày 31/5/2023.
Tuy nhiên, kể cả khi “ngấm” hơn sự hỗ trợ của chính sách và sự đi lên của thị trường, không phải doanh nghiệp nào cũng có thể đứng vững tại cuộc chơi trong tương lai. Ông Nguyễn Quang Cung từng nhấn mạnh, doanh nghiệp xi măng đứng trước nguy cơ phá sản hoặc bán một phần nhà máy cho nước ngoài.
Năng lực tài chính một số doanh nghiệp nội vốn đã không mấy vững, lại càng “nguy” hơn trong bối cảnh khó khăn. Đặc biệt, với các cơ sở sản xuất xi măng công suất thiết kế dưới 1 triệu tấn/năm, hiệu quả sẽ rất khó đạt được khi tính đến chi phí điện, bảo trì và các chi phí cố định khác. Công ty cổ phần Xi măng Phú Thọ có quy mô vài vạn tấn/năm liên tục kinh doanh dưới giá vốn các năm qua, tích dần khoản lỗ lũy kế lên tới 463 tỷ đồng, gấp 3,7 lần vốn điều lệ.
Trường hợp phải phá sản hay trở thành đối tượng bị M&A không phải không có khả năng, nhất là với một ngành từng chứng khiến không ít hoạt động sáp nhập. Đánh giá về thị trường nửa cuối năm 2024, lãnh đạo SCG cho rằng, mảng xi măng của tập đoàn này sẽ tăng khả năng cạnh tranh tại khu vực miền Nam Việt Nam nhờ khả năng tiếp cận tốt hơn các cơ sở nghiền clinker và hưởng lợi nhờ sự phục hồi kinh tế liên tục ở Việt Nam và Indonesia.
Không riêng SCG, với các doanh nghiệp xi măng có vốn đầu tư nước ngoài đặt nhiều kỳ vọng vào thị truờng Việt Nam, đây cũng là cơ hội để mở rộng công suất, tiếp cận thị trường địa phương, qua đó tạo thêm gay gắt cho cuộc sàng lọc.
ĐHĐCĐ bất thường năm 2024 của CTCP Xi Măng Vicem Hà Tiên (HOSE: HT1) diễn ra sáng 02/08 đã thông qua miễn nhiệm chức vụ Thành viên HĐQT nhiệm kỳ 2023-2028 đối với ông Lưu Đình Cường.
HT1 tổ chức ĐHĐCĐ bất thường năm 2024 vào sáng ngày 02/08/2024. Ảnh: Thanh Tú
Đại hội thông qua việc miễn nhiệm ông Lưu Đình Cường thôi chức Thành viên HĐQT HT1. Thay vào đó ông Nguyễn Quốc Thắng được bổ sung vào vị trí này cho nhiệm kỳ 2023-2028.
Ngoài ra, ông Lưu Đình Cường cũng không còn đảm nhận chức Tổng Giám đốc do được Bộ Xây dựng bổ nhiệm làm Thành viên HĐTV Tổng Công ty Xi măng Việt Nam theo quyết định ngày 11/06/2024 của Bộ Xây dựng.
Ông Thắng giữ chức Tổng Giám đốc kiêm người đại diện pháp luật HT1 có hiệu lực từ ngày 30/07. Trước khi vào vị trí mới, ông Thắng giữ chức Phó Tổng Giám đốc Công ty.
Ông Thắng (cầm bông) được bầu làm Thành viên HĐQT HT1 nhiệm kỳ 2023-2028. Ảnh: Thanh Tú
Ông Thắng có trình độ chuyên môn là Kỹ sư cơ khí, Thạc sĩ Quản trị kinh doanh. Tân Tổng Giám đốc HT1 bắt đầu tham gia vào Công ty với vị trí nhân viên kỹ thuật từ năm 2002 và lên Phó Tổng Giám đốc vào cuối năm 2023 trước khi làm Tổng Giám đốc như hiện nay. Ngoài vị trí mới, ông Thắng hiện còn đang là Giám đốc tại Nhà máy xi măng Bình Phước, Ủy viên Ban thường vụ Đảng ủy.
Còn cựu Tổng Giám đốc HT1 Lưu Đình Cường giữ chức Thành viên HĐQT kiêm Tổng Giám đốc từ tháng 04/2018. Như vậy, ông Cường đã rời vị trí trên sau hơn 6 năm đảm nhận.
Về hoạt động kinh doanh, Xi Măng Hà Tiên đạt doanh thu thuần quý 2 gần 1,909 tỷ đồng, lãi ròng gần 46 tỷ đồng, lần lượt giảm 5% và 22% so với cùng kỳ năm trước.
Lãi sau thuế HT1 từ quý 1/2020 - quý 2/2024
Dù lãi giảm, nhưng kết quả này của HT1 được xem là khả quan trong bối cảnh ngành xi măng đang ở thời điểm khó khăn nhất khi nguồn cung xi măng trong nước vượt xa so với nhu cầu, chưa kể việc giá vật liệu tăng cao hay phải cạnh tranh với các xi măng giá rẻ từ Trung Quốc và là điểm sáng khi nhiều doanh nghiệp trong ngành vẫn đang tiếp tục thua lỗ.
Điển hình như Xi măng VICEM Bút Sơn B nối dài chuỗi thua lỗ lên quý thứ 7 liên tiếp trong quý 2 (lỗ ròng hơn 36 tỷ đồng). Hay không ghi nhận doanh thu từ bán clinker, Xi măng VICEM Hải Vân H vẫn tiếp tục thua lỗ quý thứ 5 liên tiếp trong quý 2 (lỗ gần 10 tỷ đồng).
Lũy kế 6 tháng đầu năm, HT1 mang về doanh thu hơn 3,403 tỷ đồng, giảm 8%; tuy nhiên, lãi ròng đạt hơn 21 tỷ đồng (cùng kỳ lỗ gần 27 tỷ đồng).
Năm 2024, HT1 lên kế hoạch sản xuất kinh doanh với tổng doanh thu 7,032 tỷ đồng, giảm nhẹ 0.3% so với năm 2023; lãi sau thuế hơn 23 tỷ đồng, tăng 29%. Trong đó, sản xuất, tiêu thụ và gia công xi măng đạt hơn 5.6 triệu tấn, tăng 5.4% so với 2023.
Như vậy, Doanh nghiệp đã thực hiện được 49% chỉ tiêu doanh thu, và gần hoàn thành mục tiêu lãi sau thuế khi đạt tới 92% sau 6 tháng.
Hầu hết lãnh đạo doanh nghiệp ngành xi măng nhận định sản lượng xuất khẩu xi măng của Việt Nam năm 2024 khó có khả năng tăng trưởng so với năm 2023, do cạnh tranh nguồn xuất từ Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và một số nước khác trong khu vực. Do đó, nhiều doanh nghiệp đặt kế hoạch bi quan.
Trong đó, Xi măng Bỉm Sơn B đưa kế hoạch 2024 với mức lỗ sau thuế gần 159 tỷ đồng; Xi măng VICEM Hoàng Mai H đặt kế hoạch lỗ gần 104 tỷ đồng; BTS có kế hoạch lỗ 111 tỷ đồng. Xi măng Hà Tiên là một trong số ít doanh nghiệp đặt kế hoạch lợi nhuận tăng trưởng trong năm 2024.
Ông Hà Quang Hiện - Chủ tịch HĐQT CTCP Logistics Vicem H đánh giá ngành xi măng trong hơn 120 năm qua chưa bao giờ khó khăn về công tác tiêu thụ như hiện nay. Hầu hết đơn vị xi măng đang rất khó khăn và đa phần kinh doanh thua lỗ. Ông Lưu Đình Cường – cựu Tổng Giám đốc HT1 cho rằng không thể đoán được khi nào ngành xi măng sẽ phục hồi, vì còn phụ thuộc rất lớn vào tình hình vĩ mô, kinh tế thế giới. Qua đó, cho thấy phía trước ngành xi măng đang còn rất mù mờ, bất định.
Thanh Tú
FILI
BTS: Thua lỗ triền miên, cổ phiếu về nơi nào?
Ngành xi măng vẫn trong tình trạng dư cung, trong khi nhu cầu tiêu thụ yếu, khiến doanh nghiệp này thua lỗ 36,5 tỷ đồng trong quý II, nâng mức lỗ lũy kế lên 182 tỷ đồng sau 7 quý thua lỗ liên tiếp.
Theo báo cáo tài chính quý II/2024 mới công bố, Công ty Cổ phần Xi măng Bút Sơn (HNX: BTS) ghi nhận doanh thu thuần đi ngang so với cùng kỳ năm 2023, đạt gần 692 tỷ đồng.
Sau khi khấu trừ giá vốn, lợi nhuận gộp của doanh nghiệp trong kỳ này chỉ đạt hơn 8 tỷ đồng, giảm 79% so với cùng kỳ năm trước.
Trong kỳ này, doanh thu từ hoạt động tài chính của doanh nghiệp cũng không ghi nhận. Mặc dù chỉ phí lãi vay giảm 25% xuống còn hơn 17 tỷ đồng; chi phí quản lý doanh nghiệp cũng được tiết giảm 16% so với cùng kỳ, xuống còn 22,6 tỷ đồng.
Đồng thời, lợi nhuận khác tăng 43% so với cùng kỳ, lên gần 15 tỷ đồng, nhưng không thể cứu vãn được doanh nghiệp ngành xi măng này khỏi một quý kinh doanh bế tắc, với mức lỗ sau thuế 36,5 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ hơn 17 tỷ đồng. Đây cũng là quý kinh doanh thua lỗ thứ 7 liên tiếp của doanh nghiệp này. Tính đến cuối quý II/2024, tổng tài sản của BTS đạt gần 3.407 tỷ đồng, giảm 3% so với đầu năm.
Còn về thị trường, cổ phiếu BTS đang giao dịch quanh mức giá 5.400 đồng/cổ phiếu và vẫn nằm trong diện cổ phiếu bị cảnh báo từ ngày 21/3/2024. Theo Hiệp hội Xi măng Việt Nam, triển vọng của ngành xi măng vẫn còn khá trì trệ do tình trạng dư cung vẫn tiếp diễn.
Với việc tiếp tục lỗ ròng hơn 36 tỷ đồng trong quý 2/2024, CTCP Xi măng VICEM Bút Sơn B nối dài chuỗi thua lỗ lên quý thứ 7 liên tiếp.
Mặc dù doanh thu thuần ghi đi ngang so với cùng kỳ năm trước, đạt gần 692 tỷ đồng, nhưng giá vốn tăng cao là nguyên nhân chính bào mòn gần hết lợi nhuận của Công ty. Sau khấu trừ, lãi gộp chỉ còn hơn 8 tỷ đồng, giảm 79%. Biên lãi gộp cũng giảm từ 6% xuống còn 1%.
Nguồn: VietstockFinance
Điểm nổi bật trong kỳ là Doanh nghiệp đã cắt giảm tổng chi phí từ 68 tỷ đồng cùng kỳ xuống còn 59 tỷ đồng (giảm 12%) nhưng như vậy không đủ kéo BTS thoát khỏi kỳ thua lỗ.
Cuối cùng, BTS lỗ ròng hơn 36 tỷ đồng (cùng kỳ lỗ 17 tỷ đồng), là quý thứ 7 liên tiếp thua lỗ của doanh nghệp xi măng này từ quý 4/2022.
KQKD BTS từ quý 1/2022 - quý 1/2024
Với việc cả 2 quý không có lãi, lũy kế 6 tháng, BTS lỗ ròng 92 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ 32 tỷ đồng.
Cơ cấu doanh thu của BTS 6 tháng đầu nămNguồn" BTS
Kết quả thua lỗ trên có lẽ không bất ngờ với BTS khi Công ty dự báo thị trường xi măng khó tăng so với năm 2023 nên đặt kế hoạch kinh doanh 2024 tăng lỗ hơn so với năm trước (năm 2023 lỗ hơn 96 tỷ đồng) với mức lỗ ròng dự kiến gần 111 tỷ đồng.
Kinh doanh thua lỗ triền miên khiến tổng tài sản BTS tính đến ngày 30/06/2024 giảm 3% so với đầu năm, còn gần 3,407 tỷ đồng. Đáng chú ý, các khoản phải thu ngắn hạn tăng lên hơn 250 tỷ đồng, gấp 2.4 lần đầu năm, do phát sinh khoản thu ngắn hạn của CTCP Thương mại Thành Nam gần 27 tỷ đồng, Công ty TNHH Việt Đức hơn 15 tỷ đồng, Công ty TNHH Đức Thảo, hơn 14 tỷ đồng,…
Trong khi đó, hàng tồn kho giảm 25%, còn gần 491 tỷ đồng. Chi phí xây dựng cơ bản dở dang hơn 164 tỷ đồng, giảm 66%, tập trung lớn tại dự án mỏ sét Ba Sao gần 80 tỷ đồng.
BTS còn gần 2,231 tỷ đồng nợ phải trả, không biến động so với đầu năm. Trong đó, nợ vay tài chính chiếm phân nửa, gồm vay ngắn hạn hơn 919 tỷ đồng và vay dài hạn hơn 188 tỷ đồng. Công ty đang lỗ lũy kế 182 tỷ đồng.
Thanh Tú
FILI
交易股票、貨幣、商品、期貨、債券、基金等金融工具或加密貨幣屬高風險行為,這些風險包括損失您的部分或全部投資金額,所以交易並非適合所有投資者。
做出任何財務決定時,應該進行自己的盡職調查,運用自己的判斷力,並諮詢合格的顧問。本網站的內容並非直接針對您,我們也未考慮您的財務狀況或需求。本網站所含資訊不一定是即時提供的,也不一定是準確的。本站提供的價格可能由造市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他財務決定均應完全由您負責,並且您不得依賴通過網站提供的任何資訊。我們不對網站中的任何資訊提供任何保證,並且對因使用網站中的任何資訊而可能造成的任何交易損失不承擔任何責任。
未經本站書面許可,禁止使用、儲存、複製、展現、修改、傳播或分發本網站所含數據。提供本網站所含數據的供應商及交易所保留其所有知識產權。