行情
新聞
分析
使用者
快訊
財經日曆
學習
數據
- 名稱
- 最新值
- 前值
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
公:--
預: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
無匹配數據
最新觀點
最新觀點
最近更新
港股投資的風險預警
儘管香港法律體系和監管框架相對健全,但港股市場仍存在一些特定的風險和挑戰,如港幣與美元掛鉤,外地投資者可能會面臨匯率波動;中國內地的政策變化和經濟狀況對港股的影響等 。
投資港股費用架構與稅務
港股市場的交易成本包括總投資成本為買賣股票的交易費用、印花稅、結算費用等,對於外地投資者,可能會涉及兌換港幣所產生匯率轉換費用,以及依照所在地的相關法規需繳納的稅款。
港股產業分析:非必需消費產業
港股市場非必需消費產業涵蓋汽車、教育、旅遊、餐飲、服飾等多個領域,在643家上市公司中35%為中國內地公司,佔總市值的65%,因此受中國經濟影響深遠。
港股產業分析:地產建築業
地產建築業在港股指數中的份額近年來已明顯下降,但截至2022年,它依然在市場上佔有約10%的份額。 包含了房地產開發、建築工程、房地產投資和物業管理等各個方面。
中國·香港
越南·胡志明
杜拜
奈及利亞·拉各斯
埃及·開羅
查看所有搜尋結果
暫無數據
Một cổ phiếu ngân hàng thủng đáy 4 năm
Cổ phiếu NVB giảm 2,3% về 8.500 đồng/cp và thủng đáy 4 năm.
Trong phiên hôm nay, cổ phiếu NVB của NHTM cổ phần Quốc dân giảm 2,30% xuống còn 8.500 đồng/cp. Khối lượng giao dịch đạt 98,100 đơn vị.
Với mức giảm này cổ phiếu NVB đã chính thức thủng đáy 4 năm.
Nhiều ngân hàng tăng lãi suất huy động để thúc đẩy cho vay cuối năm
Một số ngân hàng như Ngân hàng TMCP Lộc Phát Việt Nam (LPBank) và Ngân hàng TMCP Bắc Á (Bac A Bank) vừa có thông báo tăng lãi suất huy động. Việc này nhằm tăng tính cạnh tranh và thu hút dòng tiền gửi tiết kiệm trong bối cảnh nhu cầu vay vốn cuối năm tăng cao.
TTXVN đưa tin, ngân hàng LPBank điều chỉnh lãi suất huy động với mức tăng mạnh nhất, dao động từ 0,3-0,6%/năm trên các kỳ hạn, từ 1-60 tháng. Mức điều chỉnh này đáng chú ý bởi đây là lần đầu tiên, ngân hàng này tăng lãi suất huy động sau hơn 3 tháng giữ nguyên mức cũ.
Trong đợt điều chỉnh này, LPBank tăng lãi suất mạnh nhất ở các kỳ hạn 3-5 tháng, ở mức 4,1%/năm, nhằm thu hút những khoản tiền gửi ổn định. Đối với các kỳ hạn dài từ 18-60 tháng, đơn vị niêm yết lãi suất ở mức cao nhất là 5,9%/năm, tạo điều kiện hấp dẫn cho các khách hàng muốn gửi tiết kiệm dài hạn.
Trong khi đó, Bac A Bank tăng lãi suất chủ yếu từ 0,1- 0,15%/năm, tập trung ở các kỳ hạn từ 1-11 tháng. Cụ thể, các kỳ hạn 1-5 tháng tăng lãi suất từ 3,8-4,3%/năm. Ở các kỳ hạn dài hơn, Bac A Bank giữ nguyên mức lãi suất đã niêm yết từ tháng trước, với mức cao nhất là 5,85%/năm cho các kỳ hạn từ 18-36 tháng.
Như vậy, sau một thời gian dài các ngân hàng giảm lãi suất huy động xuống còn dưới 6%/năm, hiện nay lãi suất đã tăng cao rõ rệt, đặc biệt ở nhóm ngân hàng thương mại cổ phần với mức lãi suất mới đầy cạnh tranh.
Tính trong vòng một tháng trở lại, khoảng 12 ngân hàng đã thực hiện điều chỉnh lãi suất huy động, với mức tăng dao động từ 0,1-0,6%/năm. Trong đó, OceanBank và Dong A Bank tiếp tục là nhóm dẫn đầu xu hướng tăng lãi suất với nhiều lần điều chỉnh trong tháng, chủ yếu tập trung vào các kỳ hạn ngắn và trung hạn. Hiện nay, ngân hàng có mức lãi suất huy động cao nhất là NCB và PVComBank với 6,25%/năm cho các kỳ hạn dài.
Ngược lại, nhóm "Big 4" gồm Vietcombank, BIDV, VietinBank và Agribank tiếp tục duy trì mức lãi suất thấp, dao động từ 2,9-4,8%/năm tùy kỳ hạn.
UBCKNN nhận hồ sơ tăng vốn "khủng" của Ngân hàng Quốc dân (NVB)
Theo Phương án cơ cấu lại, Ngân hàng Quốc dân dự kiến sẽ tăng vốn điều lệ lên hơn 29.000 tỷ đồng vào năm 2028.
Nếu được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thông qua và triển khai thành công, vốn điều lệ của Ngân hàng Quốc dân (mã cổ phiếu NVB) sẽ tăng thêm hơn 110%
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) vừa thông báo đã nhận được hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu riêng lẻ của Ngân hàng TMCP Quốc Dân (Ngân hàng Quốc dân, mã cổ phiếu NVB - sàn HNX).
Trước đó, hồi cuối tháng 5/2024, Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) đã thông qua hồ sơ trên của Ngân hàng Quốc dân.
Cụ thể, Ngân hàng Quốc dân dự kiến sẽ phát hành và chào bán 620 triệu cổ phiếu với giá 10.000 đồng/cổ phiếu. Mức giá này hiện đang cao hơn gần 10% so với thị giá của cổ phiếu NVB trên thị trường chứng khoán (kết thúc phiên 17/9).
Việc phát hành sẽ được thực hiện ngay sau khi Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thông qua và toàn bộ số cổ phiếu phát hành đợt này sẽ bị hạn chế chuyển nhượng trong 01 năm sau khi kết thúc đợt phát hành.
Nếu đợt phát hành này diễn ra thành công, Ngân hàng Quốc dân sẽ huy động được tối đa 6.200 tỷ đồng, nhằm nâng vốn điều lệ lên 11.802 tỷ đồng. Với mức vốn điều lệ hiện chỉ có 5.602 tỷ đồng, Ngân hàng Quốc dân đang nằm trong nhóm các nhà băng có vốn điều lệ thấp nhất.
Toàn bộ số tiền thu được từ đợt chào bán cổ phiếu riêng lẻ cho nhà đầu tư dự kiến sẽ được Ngân hàng Quốc dân phân bổ như sau: 200 tỷ đồng sử dụng để cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất, 200 tỷ đồng cho xây dựng nhận diện thương hiệu, 500 tỷ đồng cho công nghệ và chuyển đổi số, 5.300 tỷ đồng còn lại sẽ được sử dụng để bổ sung nguồn vốn hoạt động kinh doanh.
Hồi tháng 6/2024, Ngân hàng Quốc dân cũng đã công bố Nghị quyết Hội đồng quản trị về việc thông qua danh sách dự kiến các nhà đầu tư chuyên nghiệp dự kiến tham gia đợt chào bán cổ phiếu riêng lẻ. Danh sách bao gồm 13 nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp đăng ký tham gia đợt chào bán. Trong đó có 12 nhà đầu tư cá nhân và 1 quỹ đầu tư.
Khối lượng giao dịch và xu hướng giá cổ phiếu NVB của Ngân hàng Quốc dân từ đầu năm 2024 đến nay.
Đến cuối tháng 7/2024, Ngân hàng Nhà nước đã xem xét cho ý kiến và cấp có thẩm quyền đã phê duyệt Phương án cơ cấu lại của Ngân hàng Quốc Dân tầm nhìn tới 2030, đánh dấu một giai đoạn có thể nói mang tính bước ngoặt trong hành trình tái cơ cấu của ngân hàng này.
Theo Phương án cơ cấu lại, Ngân hàng Quốc dân sẽ phân loại lại tài sản và sau khi hoàn thành tăng vốn điều lệ lên hơn 11.800 tỷ đồng, ngân hàng sẽ tiếp tục triển khai bước tiếp theo trong lộ trình tái cơ cấu đã được phê duyệt theo đúng quy định, từng bước đạt đến mục tiêu hoạt động hiệu quả và bền vững.
Cũng theo Phương án cơ cấu lại, Ngân hàng Quốc dân dự kiến sẽ tăng vốn thêm 23.500 tỷ đồng trong vòng 5 năm, nhằm đạt mục tiêu quy mô vốn điều lệ hơn 29.000 tỷ đồng vào năm 2028.
Đồng thời, ngân hàng sẽ hoàn thành việc xử lý các tài sản tồn đọng và hoàn thành Phương án cơ cấu lại vào năm 2029, trở thành một trong những ngân hàng hoạt động lành mạnh, hiệu quả.
Xét về kết quả kinh doanh, kết thúc quý 2/2024, Ngân hàng Quốc dân đã ghi nhận nhiều tín hiệu tích cực khi lợi nhuận trước thuế đạt 49 tỷ đồng, gấp 6 lần cùng kỳ năm 2023; qua đó, chấm dứt chuỗi 3 quý lỗ liên tiếp trước đó. Luỹ kế nửa đầu năm nay, ngân hàng này ghi nhận mức lợi nhuận trước thuế đạt hơn 7 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, tính đến 30/6/2024, tiền gửi khách hàng của Ngân hàng Quốc dân tăng tới hơn 11%, đạt 8.563 tỷ đồng, và cho vay khách hàng tăng trưởng 16%, đạt 64.198 tỷ đồng. Tổng tài sản của ngân hàng này tăng 7,3% so với cuối năm 2023, đạt 103.312 tỷ đồng.
Kết quả tăng trưởng lợi nhuận quý 2 và nửa đầu năm 2024 cho thấy, thu nhập lãi thuần vẫn là động lực chính của ngân hàng. Mảnh đất màu mỡ này cũng được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng trưởng tốt với dư địa tăng trưởng tín dụng còn lại khoảng gần 9% trong nửa cuối năm.
Nếu như quý 1/2024, tăng trưởng tín dụng èo uột, do cầu tín dụng yếu trong bối cảnh kinh tế toàn cầu tiếp tục gặp khó khăn cùng căng thẳng địa chính trị leo thang, làm gia tăng rủi ro và ảnh hưởng của yếu tố mùa vụ thì sang quý 2, tăng trưởng tín dụng đã khởi sắc nhờ sự phục hồi của nền kinh tế dẫn tới nhu cầu vay vốn để mở rộng sản xuất cũng như tiêu dùng tăng lên. Bên cạnh đó, ngành bất động sản đã qua cơn bĩ cực cũng góp phần thúc đẩy nhu cầu tín dụng.
Tính đến hết quý 2/2024, tín dụng đã tăng lên khoảng 6% so với cuối năm 2023, đạt mục tiêu theo chỉ đạo của Chính phủ là phấn đấu tăng từ 5-6%.
Lợi nhuận ngân hàng quý 2 “nảy nở” trên mảnh đất tín dụng màu mỡ
Nhờ tín dụng tăng tốc, thu nhập mảng này của ngân hàng cũng cải thiện. Đồng thời thu nhập phi tín dụng duy trì ổn định, góp phần thúc đẩy lợi nhuận nhà băng leo cao trong quý 2, dù áp lực chi phí hoạt động và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng vẫn đè nặng.
Nguồn: VietstockFinance
Thống kê của VietstockFinance cho thấy, nguồn thu chính từ lãi của 29 ngân hàng đạt 129,584 tỷ đồng, tăng 20% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ trọng đóng góp của thu nhập tín dụng trong tổng thu nhập của các ngân hàng cải thiện từ 76% lên hơn 78%.
Nguồn: VietstockFinance
Trong khi đó, thu nhập từ hoạt động phi tín dụng giảm tỷ lệ đóng góp vào tổng thu nhập - từ 24% xuống còn 22%. Dù vậy, xét về giá trị tuyệt đối, tổng thu nhập từ hoạt động phi tín dụng của các ngân hàng vẫn cải thiện nhẹ so với cùng kỳ, đạt hơn 35,750 tỷ đồng trong quý 2/2024, tăng 5%; chủ yếu nhờ lãi thuần dịch vụ tăng 9%, lên 17,228 tỷ đồng và kinh doanh ngoại hối, vàng tăng 36%, lên 7,384 tỷ đồng.
MB là ngân hàng có mức tăng trưởng thu nhập phi tín dụng cao với 73%. Kết quả này do trong kỳ nhà băng lãi đột biến từ hoạt động kinh doanh chứng khoán, đạt hơn 1.5 ngàn tỷ đồng, gấp 9 lần cùng kỳ.
Nguồn: VietstockFinance
Cả hoạt động tín dụng và phi tín dụng đều có thu nhập cải thiện, giúp tổng lợi nhuận trước thuế toàn ngành ngân hàng tăng 22% trong quý 2/2024, đạt 75,583 tỷ đồng; bất chấp chi phí hoạt động (53,054 tỷ đồng) và chi phí trích lập dự phòng rủi ro tín dụng (36,421 tỷ đồng) lần lượt tăng 7% và 18% so với cùng kỳ. Trong đó, NVB và KLB là 2 ngân hàng có chi phí dự phòng rủi ro tín dụng tăng gấp nhiều lần cùng kỳ, lần lượt ở mức 52 lần và 24.4 lần.
Nguồn: VietstockFinance
Trong quý 2/2024, đa số các nhà băng còn lại đều thu lãi cao hơn cùng kỳ.
Nguồn: VietstockFinance
Ở gam màu sáng hơn, 2 nhà băng có lãi trước thuế thuộc “top dưới”, nhưng NCB và BVB lại có tốc độ tăng trưởng lợi nhuận mạnh nhất hệ thống, lần lượt gấp 6.1 lần và 5.9 lần cùng kỳ năm trước.
Cán đích mục tiêu lợi nhuận cả năm trong quý 3, liệu có khả thi?
Nguồn: VietstockFinance
Nguồn: VietstockFinance
Lũy kế 6 tháng đầu năm, thu nhập lãi thuần của 30 ngân hàng đạt 276,879 tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước. Đồng thời, tổng thu nhập ngoài lãi của ngành ngân hàng cũng cải thiện 5%, lên 73,085 tỷ đồng.
Nguồn: VietstockFinance
Nguồn: VietstockFinance
Về phần chi phí, 30 ngân hàng ghi nhận tổng chi phí hoạt động 114,572 tỷ đồng và chi phí dự phòng rủi ro tín dụng 73,115 tỷ đồng, lần lượt tăng 5% và 6% so với cùng kỳ năm trước.
Nguồn: VietstockFinance
Có thể thấy, sự gia tăng nguồn thu từ lãi và ngoài lãi đã hợp lực nâng lợi nhuận trước thuế của nhóm ngân hàng lên mốc mới, ghi nhận con số 161,309 tỷ đồng, tăng 14% so với cùng kỳ.
Nguồn: VietstockFinance
Các ngân hàng có mức tăng trưởng lợi nhuận cao trong nửa đầu năm phải kể đến: BVBank (gấp 3.8 lần), LPBank (gấp 2.4 lần), VPBank (tăng 65%), HDBank (tăng 49%) và Techcombank (tăng 39%). Kết quả này đến từ nhiều yếu tố như tăng trưởng tín dụng được đẩy mạnh, tốc độ tăng trưởng chi phí thấp hơn tăng thu nhập lãi thuần. Đồng thời, ngân hàng cũng lạc quan hơn trong việc trích lập dự phòng và có nguồn thu ngoài lãi cao đột biến.
Nguồn: VietstockFinance
Không quá bất ngờ khi BVB là ngân hàng có tỷ lệ thực hiện mục tiêu lợi nhuận cao đột biến so với mặt bằng chung nhờ dẫn đầu tốc độ tăng trưởng lợi nhuận trong quý đầu tiên và giữ ngôi á quân trong quý 2.
Theo đó, với tham vọng lợi nhuận trước thuế tăng đến 178% so với mức nền thấp của năm 2023, BVB đạt được 76% kế hoạch, dù chỉ mới đi qua nửa chặng đường năm. Việc BVB có thể cán đích mục tiêu lợi nhuận năm sớm nhất chỉ trong quý 3 có khả năng xảy ra nếu nhà băng này tiếp tục duy trì đà tăng trưởng lợi nhuận tính bằng lần như 2 quý đầu năm.
Cuộc đua lợi nhuận ngân hàng chưa có nhiều “gay cấn”
Nguồn: VietstockFinance
Tương tự bảng xếp hạng top 10 lợi nhuận ngân hàng trong quý đầu năm 2024, thứ hạng lợi nhuận của các nhà băng sau quý 2 vẫn không biến động.
Trong đó, dù lợi nhuận ông lớn ngân hàng quốc doanh Vietcombank chỉ nhích 2% ở nửa đầu năm, nhưng vẫn bỏ xa các ngân hàng khác với mức lãi 20,835 tỷ đồng, tiếp tục đứng nhất bảng.
Tiếp nối đà tăng lãi quý 1, Techcombank có thêm quý thứ 2 trong năm tăng lãi, giúp giữ vững ngôi á quân lợi nhuận, đạt 15,628 tỷ đồng.
Có tốc độ tăng lợi nhuận chậm hơn Techcombank, BIDV theo liền sau với thành tích 15,549 tỷ đồng.
Lợi nhuận ngân hàng 2024 dâng theo đà tăng nhu cầu vốn
Theo Agriseco Research, thu nhập lãi thuần của ngành ngân hàng cả năm 2024 sẽ tăng trưởng tốt khi tín dụng được đẩy mạnh với dư địa tăng trưởng còn lại là khoảng 9% trong nửa cuối năm 2024. Các yếu tố giúp tăng trưởng tín dụng đến từ mặt bằng lãi suất thấp sẽ hỗ trợ tiến độ giải ngân cho vay các doanh nghiệp sản xuất; Các chỉ số vĩ mô có dấu hiệu khởi sắc, thể hiện qua số liệu PMI, kim ngạch xuất nhập khẩu, thị trường bất động sản ấm lên… cũng như các chính sách, biện pháp hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng tín dụng của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước.
KBSV Research cũng chỉ ra những dấu hiệu khởi sắc trong các tháng cuối quý 2 với tín dụng tăng trưởng tốt hơn và các chỉ số vĩ mô có sự cải thiện theo chiều hướng tích cực. KBSV dự báo tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế sẽ hoàn thành kế hoạch 15% khi tiếp tục triển khai chủ trương duy trì mặt bằng lãi suất cho vay thấp để hỗ trợ kinh tế hồi phục.
“Động lực tăng trưởng tín dụng trong nửa cuối năm còn được đóng góp nhiều hơn từ phân khúc khách hàng cá nhân và thị trường bất động sản tiếp tục đà hồi phục sau những nỗ lực tháo gỡ vấn đề pháp lý của Chính phủ”, KBSV nêu.
Tương tự, BETA Research kỳ vọng tăng trưởng tín dụng tiếp tục cải thiện trong nửa cuối năm 2024 với động lực từ nhu cầu tín dụng cá nhân hồi phục ở nhu cầu tiêu dùng và mua nhà. Bên cạnh đó là nhu cầu mở rộng sản xuất của doanh nghiệp sản xuất được duy trì khi xuất khẩu có nhiều cải thiện và nhu cầu nhập hàng từ các nước lớn; thị trường bất động sản dần hồi phục và sôi động hơn vào nửa cuối năm 2024.
Khang Di
FILI
NVB, BAB, SGB, VBB ghi nhận tỷ lệ nợ có vấn đề hình thành mới cao
Theo VIS Rating, rủi ro tài sản và khả năng sinh lời của ngành ngân hàng nhìn chung vẫn ổn định, các ngân hàng nhỏ phải đối mặt với nhiều vấn đề về nợ xấu và thanh khoản.
Báo cáo của VIS Rating 6 tháng đầu năm 2024 cho biết, tỷ lệ nợ có vấn đề của ngành ngân hàng vẫn giữ ổn định so với quý trước ở mức 2,2%, các ngân hàng nhỏ suy giảm chất lượng tài sản nhiều nhất. Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân (ROAA) của các ngân hàng tăng nhẹ lên 1,6% trong 6 tháng đầu năm 2024 từ mức 1,5% trong năm 2023, nhờ tăng trưởng tín dụng doanh nghiệp mạnh mẽ hơn và biên lãi ròng (NIM) cao hơn.
Một số ngân hàng nhỏ sẽ dễ bị tổn thương hơn trước rủi ro thanh khoản do tăng nguồn vốn thị trường ngắn hạn trong bối cảnh tăng trưởng tiền gửi thấp. VIS Rating kỳ vọng chất lượng tài sản và lợi nhuận của các ngân hàng sẽ giữ ổn định trong nửa sau của năm 2024 nhờ việc cải thiện điều kiện kinh doanh.
Các ngân hàng nhỏ suy giảm chất lượng tài sản rõ rệt nhất. NVB, BAB, SGB, VBB ghi nhận tỷ lệ nợ có vấn đề (NPL) hình thành mới cao hơn so với các ngân hàng khác, chủ yếu từ phân khúc bán lẻ và SME. Trong số các ngân hàng quốc doanh (SOB), tỷ lệ nợ có vấn đề của CTG và BID tăng lên do lĩnh vực liên quan đến xây dựng và bất động sản.
Một số ngân hàng lớn đã giảm nợ có vấn đề bằng cách sử dụng dự phòng để xử lý trái phiếu VAMC như VPB hoặc giảm nợ có vấn đề từ khách hàng lớn như MBB. Tỷ lệ NPL hình thành mới của TPB duy trì ở mức thấp nhờ vào việc thắt chặt điều kiện cho vay đối với các khoản vay tiêu dùng mới. Chúng tôi kỳ vọng môi trường lãi suất thấp và các biện pháp chính sách nhằm hỗ trợ hoạt động kinh doanh ở nhiều lĩnh vực khác nhau sẽ giúp tăng khả năng trả nợ và giúp giảm các khoản nợ quá hạn.
Các ngân hàng tư nhân lớn hưởng lợi nhiều nhất từ việc tăng trưởng tín dụng cao hơn và NIM cải thiện. TCB, HDB, VPB, LPB ghi nhận mức tăng trưởng cho vay cao hơn mức 7,7% của trung bình ngành trong 6 tháng năm 2024, dẫn dắt bởi cho vay khách hàng doanh nghiệp (KHDN) trong các lĩnh vực liên quan đến bất động sản, thương mại và sản xuất.
NIM của các ngân hàng này đã tăng từ 30-60 điểm cơ bản, dẫn đến ROAA cao hơn mức trung bình ngành, đạt trung bình 2,2%. Thu phí đã tăng ở một số ngân hàng, bao gồm TCB, LPB và TPB. Ngược lại, lợi nhuận của các ngân hàng tập trung vào bán lẻ như VIB, OCB giảm do tăng trưởng cho vay mua nhà kém khả quan, thu nhập từ đầu tư thấp hơn và chi phí dự phòng cao hơn.
Các chuyên gia của VIS Rating kỳ vọng, ROAA của ngành sẽ tiếp tục được hưởng lợi từ nhu cầu vay vốn mạnh mẽ của các doanh nghiệp, sự cải thiện cho vay mua nhà khi nguồn cung nhà ở mới ra thị trường hồi phục, cũng như NIM ổn định bởi lãi suất thấp.
Quy mô vốn của hầu hết các ngân hàng suy giảm trong 6 tháng năm 2024. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu chung hữu hình (TCE) toàn ngành giảm 0,3 điểm cơ bản so với quý trước, do một số ngân hàng lớn như VPB, MBB, ACB, TCB trả cổ tức tiền mặt cho cổ đông.
“Chúng tôi kỳ vọng quy mô vốn của các ngân hàng sẽ tiếp tục ở mức thấp trong nửa năm sau của 2024 do kế hoạch huy động vốn cổ phần mới hạn chế. Ngoài ra, tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLCR) của ngành giảm xuống 82% từ mức 89% trong 3 tháng đầu năm 2024, với SOB như CTG, BID ghi nhận sự sụt giảm đáng kể nhất do tỷ lệ nợ có vấn đề cao hơn. Ngược lại, LLCR của một số ngân hàng tư nhân tăng lên nhờ cải thiện chất lượng tài sản như MBB, TPB và tăng trích lập dự phòng như OCB”, báo cáo của VIS Rating cho biết.
Tỷ lệ cho vay trên tiền gửi (LDR) toàn ngành tăng, các ngân hàng nhỏ có mức tăng trưởng tiền gửi thấp và phải bù đắp bằng tăng nguồn vốn thị trường ngắn hạn. Tỷ lệ tiền gửi CASA của ngành giữ ổn định ở mức 20% tổng dư nợ cho vay. MBB duy trì tỷ lệ này cao nhất nhờ vào việc tiếp tục tăng trưởng tiền gửi cá nhân trên mức trung bình của ngành.
LDR của toàn ngành tăng lên 106% trong 6 tháng năm 2024 từ mức 104% trong 3 tháng đầu năm 2024. Trong số các ngân hàng nhỏ, ABB và BVB gặp khó khăn trong việc tăng trưởng tiền gửi do cạnh tranh huy động ngày càng gay gắt và phải tăng sử dụng nguồn vay liên ngân hàng ngắn hạn để hỗ trợ tăng trưởng cho vay. Trong khi đó, tài sản thanh khoản chiếm 21% tổng tài sản ngành, không thay đổi so với quý trước.
“Tài sản thanh khoản của các ngân hàng nhỏ đã giảm 6% trong 6 tháng năm 2024, trái ngược với mức tăng 5% của ngành. Vì vậy, chúng tôi cho rằng các ngân hàng nhỏ này sẽ dễ bị tổn thương hơn trước rủi ro thanh khoản”, VIS Rating lưu ý.
HOSE và HNX bổ sung thêm gần 10 mã chứng khoán bị cắt margin
Tính đến ngày 16/8, danh sách không đủ điều kiện giao dịch ký quỹ trên HOSE gồm 84 cổ phiếu và trên HNX gồm 76 cổ phiếu...
Mới đây, Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) vừa bổ sung thêm 5 mã cổ phiếu vào danh sách chứng khoán không đủ điều kiện giao dịch ký quỹ (cắt margin).
Cụ thể, các cổ phiếu VLA của Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Công nghệ Văn Lang, cổ phiếu VIT của Công ty Cổ phần Viglacera Tiên Sơn, cổ phiếu KSD của Công ty Cổ phần Đầu tư DNA, cổ phiếu VTV của Công ty Cổ phần Năng lượng và Môi trường VICEM bị cắt margin do lợi nhuận sau thuế 6 tháng đầu năm 2024 và lợi nhuận sau thuế chưa phân phối tại ngày 30/6/2024 trong báo cáo tài chính bán niên được soát xét là số âm.
Trong khi đó, cổ phiếu L40 của Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng 40 bị cắt margin do nhận được kết luận của cơ quan thuế về việc vi phạm pháp luật thuế.
Như vậy, danh sách cắt margin của HNX tính đến ngày 16/8 bao gồm 76 cổ phiếu. Trong đó, vẫn xuất hiện nhiều cái tên quen thuộc như: AAV của Công ty Cổ phần AAV Group, BCC của Công ty Cổ phần Xi măng Bỉm Sơn, C69 của Công ty Cổ phần Xây dựng 1369, HTP của Công ty Cổ phần CTCP In sách giáo khoa Hòa Phát, NVB của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc Dân (NCB)...
Tương tự, Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HOSE) mới đây cũng bổ sung thêm 4 mã cổ phiếu gồm: cổ phiếu D2D của Công ty Cổ phần Phát triển Công nghiệp Đô thị số 2, cổ phiếu GEE của Công ty Cổ phần Điện lực Gelex, cổ phiếu SMA của Công ty Cổ phần Thiết bị Phụ Tùng Sài Gòn, cổ phiếu SPM của Công ty Cổ phần SPM và 1 quỹ ETF FUEABVND vào danh sách không đủ điều kiện giao dịch ký quỹ.
Theo đó, cổ phiếu GEE và quỹ FUEABVND bị cắt margin do thời gian niêm yết dưới 6 tháng. Còn các cổ phiếu SMA, SPM, D2D bị cắt margin do lợi nhuận sau thuế trên báo cáo tài chính soát xét bán niên 2024 là số âm.
Trước đó không lâu, HOSE cũng bổ sung cổ phiếu NT2 của Công ty Cổ phần Điện lực Dầu khí Nhơn Trạch 2 vào danh sách chứng khoán bị cắt margin với cùng lý do trên. Tại báo cáo soát xét bán niên vừa công bố, NT2 đạt doanh thu 2.448 tỷ đồng, giảm hơn 1.900 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước, và lỗ sau thuế 36 tỷ đồng.
Ngược lại, vào cuối tháng 7 vừa qua, HOSE đã đưa cổ phiếu TCI của Chứng khoán Thành Công và QNP của Cảng Quy Nhơn ra khỏi danh sách, do các đơn vị đã khắc phục tình trạng chứng khoán không đủ điều kiện giao dịch ký quỹ.
Như vậy, với việc thêm mới 5 cổ phiếu, danh sách không đủ điều kiện giao dịch ký quỹ trên HOSE tính đến ngày 16/8 hiện gồm 84 cổ phiếu, bao gồm 79 cổ phiếu và 5 chứng chỉ quỹ.
Các nguyên nhân bị cắt margin gồm chứng khoán thuộc diện cảnh báo/kiểm soát/hạn chế giao dịch; lợi nhuận sau thuế là số âm, báo cáo kiểm toán có ý kiến của đơn vị kiểm toán; thời gian niêm yết dưới 6 tháng…
Điển hình là CRE của Bất động sản Thế Kỷ do thuộc diện cảnh báo; DXS của Đất Xanh Services, FCN của Fecon, FRT của FPT Retail do lợi nhuận sau thuế công ty mẹ trên báo cáo tài chính hợp nhất kiểm toán năm 2023 là số âm.
HAG của Hoàng Anh Gia Lai do thuộc diện cảnh báo; HBC của Xây dựng Hoà Bình do thuộc diện kiểm soát; HVN của Vietnam Airlines do thuộc diện kiểm soát và hạn chế giao dịch; ITA của Tân Tạo do thuộc diện cảnh báo...
Về diễn biến thị trường chứng khoán, sau khi đạt đỉnh thanh khoản cũng như khả năng thu hút dòng tiền rẻ trong quý 2/2024, giá trị giao dịch đã giảm nhanh trong tháng 7 dưới áp lực bán ròng của khối ngoại, của cổ đông nội bộ, và áp lực phát hành. Số dư tiền mặt của nhà đầu tư giảm trong khi lượng margin tăng lên mức kỷ lục.
Đã có nhiều cảnh báo khi tỷ lệ margin cao và xu hướng thị trường không thuận lợi. Một lượng margin lớn có thể là khoản vay của chủ doanh nghiệp và cổ đông tài trợ cho hoạt động khác cho thấy khả năng tiếp cận tín dụng khó khăn.
Lượng margin này sẽ tạo ra những hiệu ứng không thật sự tốt cho thị trường nếu thực trạng dòng tiền của doanh nghiệp và các cá nhân này tiếp tục khó khăn, việc giải chấp lớn sẽ ảnh hưởng tiêu cực hơn lên thị trường chung so với giải chấp margin của nhà đầu tư nhỏ lẻ.
Lợi nhuận ngân hàng 6 tháng: Ai tiến, ai lùi?
Các ngân hàng có mức tăng trưởng lợi nhuận mạnh nhất gồm LPBank, VPBank, Techcombank, HDBank... Ngược lại, một số ngân hàng có kết quả tăng trưởng âm như NVB, VIB, OCB, ABBank, PGBank, SaigonBank.
Chứng khoán Agriseco (Agriseco Research) vừa có báo cáo cập nhật triển vọng ngành Ngân hàng với chủ đề Áp lực trích lập dự phòng làm giảm tốc độ tăng trưởng lợi nhuận.
Lợi nhuận 6 tháng đầu năm trái chiều nhau
Số liệu thống kê 27 ngân hàng thương mại niêm yết, tổng lợi nhuận sau thuế 6 tháng đầu năm đạt 118 nghìn tỷ đồng, tăng trưởng 16% so cùng kỳ. Trong đó quý 2 lợi nhuận sau thuế tăng 22% so cùng kỳ, cao hơn mức tăng quý 1 là 10%.
Nhóm ngân hàng tiếp tục đóng góp chính vào lợi nhuận toàn thị trường với tỷ trọng 45%.
Các ngân hàng có mức tăng trưởng lợi nhuận mạnh nhất gồm: LPBank, VPBank, Techcombank, HDBank...
Kết quả này đến từ các yếu tố như (1) Tăng trưởng tín dụng được đẩy mạnh; (2) Tốc độ tăng trưởng chi phí thấp hơn tăng thu nhập lãi thuần và các ngân hàng bớt thận trọng trong việc trích lập dự phòng; (3) Các khoản thu nhập ngoài lãi cao đột biến.
Ở chiều ngược lại, một số ngân hàng có kết quả tăng trưởng âm như NVB, VIB, OCB, ABBank, PGBank, SaigonBank chủ yếu do tín dụng tăng thấp và trích lập dự phòng cao.
Agriseco Research cho rằng, áp lực trích lập dự phòng dự kiến sẽ chưa tăng mạnh trong năm 2024 nhờ việc gia hạn Thông tư 02/2023/TT-NHNN cho phép tái cơ cấu các khoản vay và nền kinh tế được dự báo khởi sắc hơn trong cuối năm nay.
Dù vậy, xét trên tổng thể, ngân hàng vẫn phải đối mặt với áp lực nợ xấu gia tăng trong năm 2024, tuy nhiên tốc độ tăng sẽ chậm lại so với năm 2023 trong bối cảnh nền kinh tế phục hồi mạnh mẽ trong quý cuối năm với các yếu tố hỗ trợ sau: (1) Các chỉ số vĩ mô kỳ vọng có nhiều khởi sắc hơn vào các tháng cuối năm, (2) Chính sách hỗ trợ của ngân hàng thông qua chương trình lãi suất ưu đãi (3) Tháo gỡ những vấn đề pháp lý để các doanh nghiệp tiếp tục triển khai mở rộng hoạt động kinh doanh - sản xuất.
Agriseco Research kỳ vọng thu nhập lãi thuần của toàn hệ thống cả năm 2024 sẽ tăng trưởng tốt khi tín dụng được đẩy mạnh với dư địa tăng trưởng còn lại là khoảng gần 9% trong nửa cuối năm.
Các yếu tố hỗ trợ tăng trưởng tín dụng như: (1) Mặt bằng lãi suất thấp sẽ hỗ trợ tiến độ giải ngân cho vay các doanh nghiệp sản xuất; (2) Các chỉ số vĩ mô có dấu hiệu khởi sắc thể hiện qua số liệu PMI, kim ngạch xuất nhập khẩu, thị trường bất động sản ấm lên,... và (3) Các chính sách, biện pháp hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng tín dụng của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước.
Biên lãi thuần có thể giảm nhưng sẽ phân hóa theo nhiều nhóm ngân hàng. Xét trong toàn ngành, mặc dù lãi suất huy động đang chịu nhiều áp lực tăng hơn so với mặt bằng lãi suất cho vay tạo áp lực lên biên lãi thuần NIM. Tuy nhiên các ngân hàng có tỷ lệ CASA tốt có thể tiếp tục duy trì mặt bằng NIM ở mức cao. Ngoài ra, các chỉ báo kinh tế vĩ mô tín dụng có thể phục hồi trở lại ở phân khúc bán lẻ và duy trì tăng trưởng cao cho lĩnh vực kinh doanh bất động sản; đây là các phân khúc/lĩnh vực có NIM cao hơn mặt bằng chung.
Đối với thu nhập ngoài lãi, so với các năm trước, hiện nay mảng này của các ngân hàng không thuận lợi bằng do mảng bancassurance, trái phiếu doanh nghiệp giảm mạnh và xu hướng miễn giảm phí để thu hút nguồn tiền gửi không kỳ hạn. Tuy nhiên Agriseco Research vẫn kỳ vọng vào con số tăng trưởng ổn định trong các quý cuối năm 2024 do mức nền thấp của cùng kỳ năm 2023 và sự khởi sắc của thị trường chứng khoán. Nhiều ngân hàng cũng có thể tiếp tục được ghi nhận các khoản phí trả trước phân bổ từ các thương vụ ký kết độc quyền với các công ty bảo hiểm (như VIB, LPBank, MSB, Techcombank, BIDV...).
Lợi thế dài hạn cho các ngân hàng có hệ sinh thái Ngân hàng – Chứng khoán và đầu tư mạnh vào công nghệ. Trong nhiều thập kỷ qua, dòng vốn đầu tư toàn cầu đang dịch chuyển từ kênh tiền gửi sang các các kênh đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu.
Agriseco Research nhận thấy các ngân hàng lớn tại Việt Nam đang đẩy mạnh xây dựng hệ sinh thái Ngân hàng – Chứng khoán để đón đầu dòng vốn dịch chuyển. Việc sở hữu hệ sinh thái giúp các ngân hàng tăng thu dịch vụ, tăng nguồn tiền gửi không kỳ hạn; đồng thời góp phần đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ tài chính nhằm tăng tính cạnh tranh trên thị trường, tạo thuận lợi để giữ chân và thu hút thêm khách hàng.
Kỳ vọng nhiều ngân hàng sẽ hoàn thành kế hoạch kinh doanh cả năm
Kế hoạch kinh doanh tăng trưởng bình quân trên 39% và không có ngân hàng nào đặt kế hoạch lợi nhuận giảm trong năm 2024. Trong đó mức tăng trưởng cao dẫn đầu thuộc về các ngân hàng BVB (+179%), VPB (+114%), EIB (+90%); chủ yếu đến từ mức nền thấp của năm 2023. Các ngân hàng Big 4 hiện chưa công bố kế hoạch kinh doanh và đang chờ phê duyệt của Ngân hàng Nhà nước.
Đối với các ngân hàng đã công bố báo cáo bán niên, tổng lợi nhuận theo ghi nhận đạt 148 nghìn tỷ đồng, tương ứng mức hoàn thành 53% kế hoạch cả năm. Kết hợp với các mức tăng trưởng cao trong quý 1/2024 của nhiều Ngân hàng chưa công bố thông tin và triển vọng kinh doanh các quý tới, Agriseco Research cho rằng sẽ có phần lớn ngân hàng hoàn thành mục tiêu Đại hội cổ đông phê duyệt.
Agriseco Research đánh giá lợi nhuận ngành ngân hàng trong 2024 sẽ tiếp tục duy trì đà tăng trưởng tuy nhiên tốc độ tăng trưởng sẽ chậm lại so với giai đoạn 2020 – 2023 trước áp lực NIM thu hẹp và tăng trích lập dự phòng.
Bên cạnh một số Ngân hàng tăng trưởng mạnh từ nền thấp năm 2022, động lực tăng trưởng đến từ đẩy mạnh tín dụng nửa cuối năm trong khi thu nhập ngoài lãi duy trì ổn định.
Đồng thời một số yếu tố có thể hỗ trợ cho nhóm ngân hàng thời gian tới gồm: (1) NHNN có thể sẽ điều chuyển chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đã phân bổ từ đầu năm từ NHTM không có khả năng tăng trưởng hết chỉ tiêu đã giao sang NHTM cần thiết tăng thêm, tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM tăng trưởng tín dụng tích cực; (2) Các kế hoạch tăng vốn dự kiến được đẩy mạnh triển khai thời gian tới; (3) Các khoản thu nhập từ thu hồi, xử lý nợ xấu giúp hoàn nhập dự phòng tại một số ngân hàng trong bối cảnh nền kinh tế đang phục hồi rõ nét.
交易股票、貨幣、商品、期貨、債券、基金等金融工具或加密貨幣屬高風險行為,這些風險包括損失您的部分或全部投資金額,所以交易並非適合所有投資者。
做出任何財務決定時,應該進行自己的盡職調查,運用自己的判斷力,並諮詢合格的顧問。本網站的內容並非直接針對您,我們也未考慮您的財務狀況或需求。本網站所含資訊不一定是即時提供的,也不一定是準確的。本站提供的價格可能由造市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他財務決定均應完全由您負責,並且您不得依賴通過網站提供的任何資訊。我們不對網站中的任何資訊提供任何保證,並且對因使用網站中的任何資訊而可能造成的任何交易損失不承擔任何責任。
未經本站書面許可,禁止使用、儲存、複製、展現、修改、傳播或分發本網站所含數據。提供本網站所含數據的供應商及交易所保留其所有知識產權。