行情
新聞
分析
使用者
快訊
財經日曆
學習
數據
- 名稱
- 最新值
- 前值
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
公:--
預: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
無匹配數據
最新觀點
最新觀點
最近更新
港股投資的風險預警
儘管香港法律體系和監管框架相對健全,但港股市場仍存在一些特定的風險和挑戰,如港幣與美元掛鉤,外地投資者可能會面臨匯率波動;中國內地的政策變化和經濟狀況對港股的影響等 。
投資港股費用架構與稅務
港股市場的交易成本包括總投資成本為買賣股票的交易費用、印花稅、結算費用等,對於外地投資者,可能會涉及兌換港幣所產生匯率轉換費用,以及依照所在地的相關法規需繳納的稅款。
港股產業分析:非必需消費產業
港股市場非必需消費產業涵蓋汽車、教育、旅遊、餐飲、服飾等多個領域,在643家上市公司中35%為中國內地公司,佔總市值的65%,因此受中國經濟影響深遠。
港股產業分析:地產建築業
地產建築業在港股指數中的份額近年來已明顯下降,但截至2022年,它依然在市場上佔有約10%的份額。 包含了房地產開發、建築工程、房地產投資和物業管理等各個方面。
中國·香港
越南·胡志明
杜拜
奈及利亞·拉各斯
埃及·開羅
查看所有搜尋結果
暫無數據
NHNN để ngỏ khả năng giảm lãi suất
Trước những kỳ vọng về việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) giảm lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, lãnh đạo cơ quan này cho biết, sẽ tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ cởi mở, nhằm hỗ trợ được nhiều vốn hơn, với mức lãi suất tốt hơn cho doanh nghiệp và người dân.
Sau khi Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) giảm lãi suất 50 điểm cơ bản (0,5%) vào giữa tháng 9-2024, Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (PBoC) đã điều chỉnh lãi suất các khoản vay trung hạn cho các ngân hàng thương mại, từ mức 2,3% xuống mức 2%.
Còn Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã có hai lần điều chỉnh giảm lãi suất từ mức cao kỷ lục trong năm 2024. Giới phân tích cũng dự báo cơ quan này sẽ đẩy nhanh quá trình nới lỏng chính sách tiền tệ với hai lần hạ lãi suất vào tháng 10 và tháng 12-2024.
Tại khu vực ASEAN, Ngân hàng Trung ương Indonesia (BI) thực hiện cắt giảm lãi suất chuẩn lần đầu tiên sau hơn hai năm, nhằm thúc đẩy tăng trưởng. Còn Ngân hàng Trung ương Philippines (BSP) giảm lãi suất với biên độ 0,25%, đưa lãi suất xuống mức 6,25%, bất chấp áp lực lạm phát tăng trở lại…
Lãi suất điều hành khó có thể điều chỉnh giảm trong giai đoạn từ nay tới cuối năm 2024. Ảnh: LÊ VŨ
Với Việt Nam, NHNN đã sớm điều chỉnh giảm 0,2% với lãi suất tín phiếu và lãi suất cầm cố giấy tờ có giá trên thị trường mở (OMO) có kỳ hạn một năm, đưa lãi suất với hai sản phẩm này xuống mức 4,25%/năm từ ngày 5-8. Tới ngày 20-8, lãi suất tín phiếu tiếp tục giảm xuống mức 4,2%/năm. Còn lãi suất cầm cố giấy tờ có giá trên thị trường mở (OMO) giảm xuống mức 4 %/năm vào ngày 16-9.
Nhưng điều thị trường mong đợi hơn là một quyết định điều chỉnh giảm lãi suất điều hành, như trần lãi suất tiền gửi có kỳ hạn dưới 6 tháng, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu - vốn được duy trì lần lượt ở các mức 4,75%, 4,5% và 3% từ ngày 19-6-2023 đến nay.
Thông tin về hoạt động điều hành lãi suất tại cuộc họp báo quí 3-2024 diễn ra chiều 17-10, ông Đào Minh Tú, Phó thống đốc NHNN cho biết, cơ quan này đã giữ nguyên các mức lãi suất điều hành để tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại tiếp cận nguồn vốn từ NHNN với chi phí thấp góp phần hỗ trợ nền kinh tế.
Đồng thời, nhà điều hành vẫn chỉ đạo các ngân hàng tiếp tục tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất cho vay, công khai lãi suất cho vay bình quân, chênh lệch lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân... Nhờ đó, mặt bằng lãi suất tiếp tục xu hướng giảm so với cuối năm 2023.
Về định hướng điều hành lãi suất từ nay đến cuối năm, ông Tú cho biết nhà điều hành dự kiến tiếp tục điều hành chính sách lãi suất, tỷ giá ổn định nhằm đảm bảo thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, cũng như khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế. Nhưng NHNN cũng để ngỏ khả năng xem xét lại mức lãi suất điều hành theo hướng “tiếp tục duy trì như hiện nay hay giảm lãi suất trong điều kiện các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô được đảm bảo như lạm phát, tỷ giá, hỗ trợ tăng trưởng”.
Trước đó, một số tổ chức đánh giá những yếu tố nội tại của nền kinh tế khó cho phép NHNN hạ lãi suất điều hành.
“Năm 2024, có thể Fed chỉ giảm nhẹ lãi suất, hơn nữa, NHNN đã nới lỏng chính sách tiền tệ sớm hơn Fed, nên khả năng từ nay đến cuối năm, chính sách tiền tệ sẽ ổn định. Tuy nhiên, sang năm 2025, Fed được kỳ vọng sẽ giảm lãi suất lên tới 1,5%, khi đó NHNN sẽ có dư địa để hạ 0,5-1% lãi suất điều hành trong năm”, các chuyên gia của Công ty chứng khoán Shinhan nhận định.
Quý 2/2024 rơi vào thời điểm mùa hè nắng nóng tại miền Bắc, đặc biệt có thêm sự kiện Giải vô địch Bóng đá châu Âu (UEFA Euro) 2024 được kỳ vọng là cú hích giúp ngành bia hồi phục trở lại. Thực tế, bức tranh lợi nhuận nhóm doanh nghiệp bia chưa được như kỳ vọng.
Hai doanh nghiệp nổi bật ngành bia là Sabeco và Habeco đón nhận kết quả trái chiều. BCTC hợp nhất quý 2/2024 của Tổng CTCP Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn cho thấy lãi ròng đạt hơn 1,248 tỷ đồng, mức cao nhất trong 7 quý và tăng 8% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng, lãi ròng gần 2,246 tỷ đồng, tăng 6% và thực hiện được 52% kế hoạch năm.
Sabeco có lãi quý 2 cao nhất gần 2 năm
Công ty cho biết tiết giảm được nhiều khoản chi phí quan trọng góp phần làm gia tăng hiệu quả kinh doanh, mặc dù ảnh hưởng từ Nghị định 100 và sự cạnh tranh gay gắt vẫn tác động đến tiêu dùng khiến doanh thu giảm.
Các công ty con của Sabeco là CTCP Bia Sài Gòn - Miền Trung S, CTCP Bia Sài Gòn - Quảng Ngãi B, CTCP Bia Sài Gòn - Sông Lam B đồng thời ghi nhận tăng trưởng lợi nhuận quý 2.
Trong đó, lãi ròng tăng mạnh nhất ở BSL, tăng 60% lên 12 tỷ đồng; tiếp theo là BSQ tăng 19% lên hơn 35 tỷ đồng, SMB tăng 7% lên hơn 60 tỷ đồng.
Ngược lại, CTCP Bia Sài Gòn - Miền Tây giảm 19% lãi ròng còn hơn 22 tỷ đồng. Kém hơn là CTCP Bia Sài Gòn - Phú Thọ B, đơn vị liên kết của Sabeco, lãi chưa đầy 4 tỷ đồng, giảm 39% so với cùng kỳ, do sản lượng giảm khiến doanh thu giảm.
Ở phía Bắc, Tổng CTCP Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội (Habeco, HOSE: BHN) có gần 154 tỷ đồng lãi ròng trong quý 2, thấp hơn 13% so với cùng kỳ, song cải thiện hơn mức lỗ hơn 5 tỷ đồng trong quý 1. Tính chung 6 tháng đầu năm, lãi ròng gần 149 tỷ đồng, giảm 21% và thực hiện được 75% kế hoạch năm.
Các công ty con của Habeco có sự hồi phục trong quý 2, tăng trưởng lợi nhuận “đột biến” nhất là CTCP Bia Hà Nội - Thanh Hóa T mức 214% khi lãi gần 4 tỷ đồng, chủ yếu do cơ cấu lại tổ chức, cải tiến quy trình, tiết kiệm chi phí.
Cùng chiều tăng, CTCP Thương mại Bia Hà Nội H và CTCP Bia Hà Nội - Hải Dương H lần lượt lãi gần 5 tỷ đồng và hơn 12 tỷ đồng, cao hơn 33% và 8% so với cùng kỳ.
Ngành bia có duy nhất CTCP Bia Hà Nội - Quảng Bình B chuyển từ lỗ sang lãi trong quý 2, ghi nhận 1.6 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ lỗ hơn 900 triệu đồng, do doanh thu tăng mạnh và các chi phí đều giảm.
Đổ tiền cho quảng cáo, khuyến mãi
Nhìn chung, các doanh nghiệp bia đều đánh giá Nghị định 100 về kiểm soát nồng độ cồn khi tham gia giao thông sẽ tiếp tục là rào cản lớn kìm hãm sự phục hồi của ngành bia năm nay.
Để giữ vững thị trường, một số doanh nghiệp phải gia tăng chi phí để nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã… Sáu tháng đầu năm, chi phí quảng cáo và khuyến mãi của Sabeco ở mức 1,031 tỷ đồng, trung bình gần 5.7 tỷ đồng/ngày.
Còn Habeco chi hơn 270 tỷ đồng cho quảng cáo, khuyến mãi và hỗ trợ, bình quân mỗi ngày tiêu tốn 1.5 tỷ đồng cho hoạt động này.
Bên cạnh đó, các yếu tố như chi phí sản xuất kinh doanh (bao bì, nguyên vật liệu, chi phí vận chuyển) vẫn ở mức cao, biến động bất thường và dự kiến tiếp tục tăng mạnh, ảnh hưởng đến lợi nhuận của các doanh nghiệp trong ngành.
Thế Mạnh
FILI
Với triển vọng ngày càng mờ mịt về việc Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) nới lỏng tiền tệ trong năm, nhiều ngân hàng trung ương ở châu Á buộc phải đẩy lùi thời điểm giảm lãi suất đồng thời sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để giữ ổn định tỷ giá. Thậm chí, Ngân hàng trung ương Indonesia đã chủ động tăng lãi suất để vực dậy đồng nội tệ.
Trụ sở của Ngân hàng trung ương Indonesia ở Jakarta. Ảnh: Bloomberg
Tình thế tiến thoái lưỡng nan
Cuối năm ngoái, giới đầu tư và chuyên gia kinh tế kỳ vọng Fed sẽ tiến hàng 6-7 đợt giảm suất trong năm 2024. Tuy nhiên, 4 tháng sau, Fed thay đổi quan điểm, phát tín hiệu không vội nới lỏng tiền tệ vì kinh tế Mỹ kiên cường hơn dự kiến và lạm phát cao dai dẳng.
Sau khi Bộ Thương mại Mỹ công bố dữ liệu cho thấy, chỉ số chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE) tăng với tốc độ 3,4% hàng năm trong quí 1, mạnh nhất trong 1 năm thì nhiều người dự đoán, Fed chỉ thực hiện một đợt giảm lãi suất vào cuối năm nay.
Các ngân hàng trung ương trên toàn thế giới, trong đó có châu Á đang theo dõi chặt chẽ Fed để xem xét các quyết định cắt giảm, giữ nguyên thậm chí tăng lãi suất trong những tháng tới.
Ngân hàng trung ương Indonesia (BI) đã khiến giới phân tích ngạc nhiên hôm 24-4 khi tăng lãi suất cơ bản thêm 25 điểm, lên 6,25%, trong nỗ lực củng cố đồng rupiah. Trước đó, chỉ có 6 trong số 35 nhà kinh tế trong cuộc thăm dò Reuters dự đoán BI sẽ tăng lãi suất.
“Quyết định tăng lãi suất bất ngờ của BI chắc chắn sẽ thu hút sự chú ý của các ngân hàng trung ương ở các thị trường mới nổi khác. Ngay cả khi lạm phát đã bình thường hóa trên khắp châu Á, nỗi lo về sức mạnh đồng đô la tiếp tục khiến các ngân hàng trung ương trong khu vực phải ở thế phòng thủ”, Frederic Neumann, nhà kinh tế trưởng châu Á của ngân hàng HSBC nói.
Nhiều ngân hàng trung ương khác ở châu Á đang rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Đối với họ, giảm lãi suất sẽ giúp giảm áp lực lên nền kinh tế, giảm chi phí vay và thúc đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên, việc giảm lãi suất quá sớm, đặc biệt là trong bối cảnh Fed duy trì lãi suất cao trong thời gian dài hơn dự kiến thì dòng vốn sẽ tháo chảy khỏi các nền kinh tế châu Á do nhà đầu tư tìm kiếm lãi suất cao hơn ở những nơi khác. Điều này có thể khiến tiền tệ ở các nước châu Á suy yếu hơn nữa.
Pramod Shenoi, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu phụ trách khu vực châu Á-Thái Bình Dương của CreditSights, lưu ý về việc duy trì lãi suất cao trong thời gian dài hơn sẽ làm chậm hoạt động kinh tế và gâp áp lực ngày càng gia tăng đối với các cá nhân và công ty sử dụng đòn bẩy tài chính. Tuy nhiên, việc cắt giảm trước Fed có nguy cơ gây biến động tỷ giá, điều mà mà hầu hết các ngân hàng trung ương ở châu Á không muốn xảy ra.
Mức độ chậm trễ trong việc cắt giảm lãi suất có thể ảnh hưởng đến các nền kinh tế ở châu theo mức độ khác nhau. Theo báo cáo của Ngân hàng Morgan Stanley, đối với các nước định hướng xuất khẩu hơn, tăng trưởng phần lớn phụ thuộc vào sức mạnh của nhu cầu bên ngoài. Với các nền kinh tế hướng nội hơn, tăng trưởng sẽ dựa vào sức mạnh của nhu cầu trong nước. Sự tăng tốc xuất khẩu của châu Á trong 3 tháng qua có thể giúp khu vực này ứng phó những bất ổn tiềm tàng đối với tăng trưởng trong trường hợp các ngân hàng trung ương trong khu vực duy trì lãi suất ở mức cao.
Hầu hết các đồng tiền ở châu Á đều đang ở mức thấp trong nhiều năm so với đô la Mỹ, làm tăng khả năng các nhà quản lý ở khu vực này phải hành động mạnh mẽ hơn để ổn định tỷ giá. Ảnh: Oxford Economics
Đẩy lùi thời điểm nới lỏng tiền tệ
Jingyi Pan, Phó giám đốc kinh tế phụ trách bộ phận PMI (chỉ số nhà quản trị mua hàng) của S&P Global Market Intelligence, cho rằng với sức mạnh mạnh hiện tại của đồng đô la Mỹ, các nước châu Á sẽ chưa thể giảm lãi suất sớm.
“Các ngân hàng trung ương ở châu Á nhìn chung không muốn thấy đồng nội tệ của họ biến động đáng kể so với các loại tiền tệ khác, đặc biệt là đồng đô la Mỹ và có thể không muốn hành động trước Fed”, bà nói.
Lãi suất cao hơn của Mỹ có xu hướng thúc đẩy đồng đô la khi nhà nhà đầu tư chuyển tiền sang Mỹ này để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn từ trái phiếu và các sản phẩm lãi suất khác.
Vì vậy, các ngân hàng trung ương ở châu Á nhận thấy, cần phải giữ nguyên hoặc tăng lãi suất để tránh dòng vốn chảy ra bên ngoài đồng thời giúp ổn định tỷ giá. Nếu đồng nội tệ suy yếu hơn nữa, các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu như thực phẩm và năng lượng sẽ trở nên đắt đỏ hơn, khiến lạm phát trầm trọng hơn.
Ông Perry Warjiyo, Thống đốc BI giải thích, BI tăng lãi suất cơ bản nhằm ổn định của tỷ giá hối đoái của đồng rupiah, vốn suy giảm gần 5% trong năm nay. Trước đó, 12 trong số 21 nhà kinh tế tham gia cuộc khảo sát của Bloomberg dự báo BI sẽ trì hoãn giảm lãi suất đến quí 4-2024, thậm chí đến đầu năm 2025.
Ngân hàng trung ương Thái Lan (BoT) cũng chịu áp lực vì đồng đô la tăng giá. Sau cuộc họp chính sách hồi đầu tháng 4, BoT vẫn giữ nguyên lãi suất cơ bản ở mức 2,5%, bất chấp lời kêu gọi cắt giảm của Thủ tướng Srettha Thavisin nhằm vực dậy tăng trưởng.
“Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang gặp khó khăn vì lãi suất cao”, ông Thavisin nói trong một cuộc phỏng vấn gần đây với các phóng viên.
Tuy nhiên, việc cắt giảm lãi suất có thể khiến đồng baht suy yếu hơn nữa. Đồng tiền của Thái Lan giảm giá khoảng 8% so với đồng đô la trong năm nay. Theo ngân hàng HSBC, ngay cả khi Fed bắt đầu nới lỏng chính sách, BoT có thể vẫn duy trì lãi suất 2,5% trong thời gian còn lại của năm nếu nhận thấy lạm phát gia tăng và rủi ro tài chính liên quan đến mức nợ hộ gia đình cao.
Để thúc đẩy tăng trưởng, Thủ tướng Srettha Thavisin đã yêu cầu các tổ chức tài chính lớn của Thái Lan hạ lãi suất. Hôm 25-4, bốn ngân hàng lớn của Thái Lan đồng ý tạm thời giảm lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ và các nhóm dễ bị tổn thương khác sau khi các CEO của họ dự cuộc họp do ông Thavisin chủ trì.
Đồng đô la Mỹ mạnh cũng đang gây áp lực lên đồng ringgit của Malaysia và đồng peso của Philippines. Cho đến nay, ngân hàng trung ương của hai nước này vẫn giữ nguyên lãi suất cơ bản,
Ngân hàng trung ương Philippines (BSP) trước đó phát tín hiệu rằng có thể giảm lãi suất vào cuối năm nay hoặc đầu năm sau thay vì vào quí 3. Các nhà kinh tế của ngân hàng HSBC cũng nhận định BSP sẽ trì hoãn giảm lãi suất đến cuối năm nay do lạm phát cao và đồng peso suy yếu.
Tuy nhiên, Ralph Recto, Bộ trưởng Tài chính Philippines, cảnh báo Philippines có thể duy trì mức lãi suất 6,5% lâu hơn dự kiến nếu đồng peso suy yếu vượt qua mức thấp kỷ lục hiện tại, 59 peso đổi 1 đô la.
Theo ông Arsenio Balisacan, người đứng đầu Cơ quan Kinh tế và phát triển quốc gia Philippines, dù BSP trì hoãn giảm lãi suất, GDP của đất nước vẫn có thể tăng trưởng ở mức 6% trong năm nay.
Ưu tiên can thiệp ngoại hối thay vì tăng lãi suất
Các nhà hoạch định chính sách trong khu vực đang sử dụng các nhiều biện pháp khác nhau để ngăn chặn sự trượt dốc của tỷ giá, từ cảnh báo bằng lời nói ở Hàn Quốc đến lời kêu gọi các công ty chuyển đổi thu nhập đô la ở nước ngoài sang đồng nội tệ ở Malaysia và Indonesia. Trong khi đó, Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan và Việt Nam đều đã can thiệp bằng cách bán đô la để bảo vệ đồng nội tệ.
Gần đây, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (SVB) đã can thiệp thị trường ngoại hối bằng cách bán ngoại tệ cho các tổ chức tín dụng trong nỗ lực ổn định tỷ giá.
“SVB sẽ sử dụng các công cụ như can thiệp và tăng lãi suất ngắn hạn bằng cách rút thanh khoản để khiến chi phí công cụ phòng ngừa rủi ro ngoại hối trở nên đắt đỏ hơn”, Michael Wan, nhà phân tích tiền tệ cấp cao của ngân hàng MUFG Bank nói.
Không chỉ Đông Nam Á cảm nhận sức nóng của đồng đô la. Hàn Quốc, nước tăng lãi suất trước Fed, cho đến nay vẫn giữ lãi nguyên lãi suất ở mức 3,5%, cao nhất trong 15 năm ngay cả khi các doanh nghiệp phải vật lộn với chi phí đi vay cao. Ngân hàng trung ương Hàn Quốc (BoK) hôm 24-4 cho biết, GDP của nền kinh tế lớn thứ 4 châu Á tăng trưởng 1,3% trong quí 1, mạnh nhất kể từ quí 4-2021.
Xuất khẩu của Hàn Quốc tăng tháng thứ 6 liên tiếp trong tháng 3, nhờ nhu cầu mạnh mẽ đối với chip. Tuy nhiên, chi tiêu tiêu dùng trong nước suy yếu và lãi suất cao làm dấy lên lo ngại về sự phục hồi kinh tế không đồng đều. Hồi đầu tháng này, BoK cho biết sẽ không vội vàng giảm lãi suất do lạm phát cao.
Đồng won của Hàn Quốc giảm giá 5% so với đô la trong năm nay. Tuần trước, Thống đốc BoK, Rhee Chang-yong tuyên bố BoK sẵn sàng “triển khai các biện pháp ổn định” để hỗ trợ đồng won.
Wee Khoon Chong, nhà chiến lược thị trường châu Á – Thái Bình Dương của ngân hàng BNY Mellon, nhận định trừ khi lạm phát bùng phát trở lại, các ngân hàng trung ương ở châu Á ưu tiên lựa chọn can thiệp thay vì tăng lãi suất, đặc biệt nếu họ có lượng dự trữ ngoại hối dồi dào.
“Không phải ngân hàng trung ương nào cũng sử dụng công cụ lãi suất để hỗ trợ đồng tiền của họ. Điều đó phụ thuộc vào việc liệu nền kinh tế có thể chịu được lãi suất cao hơn hay không”, Fiona Lim, nhà chiến lược tiền tệ cấp cao của ngân hàng Maybank, nói.
Chánh Tài (Theo Bloomberg, WSJ, Reuters)
TBKTSG
Do giá cả thực phẩm tăng mạnh, lạm phát trong tháng 2 ở các nền kinh tế châu Á gồm Philippines, Indonesia, Hàn Quốc, Ấn Độ và Đài Loan đều tăng vượt mức dự báo của các nhà kinh tế. Áp lực giá kéo dài có thể gây rủi ro trái phiếu của khu vực châu Á vì điều này có thể khiến các ngân hàng trung ương trì hoãn kế hoạch giảm lãi suất.
Mức tăng hàng năm 19,3% của giá gạo là nguyên nhân chính đẩy lạm phát của Indonesia tăng 2,8% trong tháng 2, đánh dấu mức cao nhất trong 3 tháng. Ảnh: Straits Times
Lạm phát ở châu Á đồng loạt tăng hơn dự báo
Theo Cục Thống kê quốc gia Philippines, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng hàng năm ở 3,4% trong tháng 2, từ 2,8% trong tháng 1. Lạm phát tăng chủ yếu do chi phí thực phẩm và đồ uống không cồn tăng 4,6% trong tháng trước. Tại Đài Loan, CPI tháng 2 tăng 3,1%, cao nhất trong 19 tháng do xu hướng giá thực phẩm tăng kể từ Tết Nguyên đán. Tỷ lệ này cao hơn nhiều so với mức dự báo tăng 2,6%.
Lạm phát tháng 2 của Indonesia tăng 2,8% so với cùng kỳ năm ngoái và đạt mức cao nhất trong 3 tháng. Lạm phát tăng nhanh hơn dự đoán khi lạm phát thực phẩm tăng 6,4%. Đặc biệt, lạm phát giá giá gạo hàng năm ở nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á vẫn ở mức cao, tăng 19,3%.
Hàn Quốc cũng ghi nhận CPI tăng 3,1% trong tháng trước, cao hơn mức tăng 3% theo dự báo của các nhà kinh tế. Dữ liệu cho thấy, giá nông sản cao hơn, đặc biệt là trái cây tươi là nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát tăng ở nền kinh tế lớn thứ 4 châu Á.
Tại Ấn Độ, lạm phát tháng 2 tăng 5,09%, giảm nhẹ so với 5,1% trong tháng 1 nhưng cao hơn mức dự báo tăng 5,02% của các nhà kinh tế. Riêng lạm phát thực phẩm chiếm gần một nửa rổ CPI, tăng 8,66% trong tháng 2, cao hơn so với 8,3% trong tháng 1.
“Những bất ngờ này phần lớn là do giá thực phẩm gây ra, phản ánh sự kết hợp giữa tác động của hiện tượng thời tiết khô hạn El Nino và Tết Nguyên đán”, Philip McNicholas, nhà chiến lược về nợ chủ quyền ở châu Á của Robeco Group nói.
Xu hướng giá cả ở châu Á tương tự như ở Mỹ, nơi đang chứng kiến tốc độ lạm phát không giảm theo một đường thẳng tuyến tính, khiến lợi suất trái phiếu chính phủ biến động thất thường.
Hôm 12-3, giá trái phiếu chính phủ Mỹ giảm và lợi suất tăng sau khi thị trường đón nhận dữ liệu lạm phát cốt lõi tăng nhanh hơn dự báo. Lạm phát cao dai dẳng, củng cố quan điểm thận trọng của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đối với việc giảm lãi suất.
Theo dữ liệu của Bloomberg, trái phiếu ở khu vực châu Á mới nổi mang lại cho các nhà đầu tư mức lợi nhuận 0,5% trong quí 1. Tỷ lệ này kém xa so với mức lợi nhuận hơn 5% trong ba tháng cuối năm 2023. Hiệu suất tăng giá trái phiếu thấp là do bối cảnh lạm phát kém thuận lợi hơn ở các nền kinh tế trong khu vực và ở Mỹ.
Những dấu hiệu cụ thể hơn về triển vọng xoay trục chính sách của Fed tại cuộc họp tuần tới sẽ mang lại động lực mạnh mẽ cho trái phiếu châu Á mới nổi. Tuy nhiên, áp lực lạm phát dai dẳng trong khu vực sẽ là lực cản lớn cho sự phục hồi.
Thận trọng về triển vọng giảm lãi suất
Nhìn chung, các ngân hàng trung ương ở châu Á đều tỏ ra thận trọng về kế hoạch nới lỏng tiền tệ trong bối cảnh lạm phát không giảm tốc nhanh như dự kiến
Ngân hàng trung ương Indonesia (BI) gần đây bác bỏ kỳ vọng rằng BI sẽ cắt giảm lãi suất chính sách trong thời gian tới. Perry Warjiyo, Thống đốc Thống đốc BI lưu ý, dù còn dư địa để giảm lãi suất chính sách vào năm 2024, nhưng vẫn phải cảnh giác về khả năng lạm phát tăng mạnh trở lại trong nửa đầu năm nay.
Giá gạo đắt đỏ là mối lo ngại lớn nhất đối với BI. Là mặt hàng thiết yếu đối với hầu hết 270 triệu người dân Indonesia, giá gạo tăng hơn 24% kể từ năm ngoái do hiện tượng thời tiết El Nino đã làm giảm lượng mưa trên phần lớn khu vực vào năm 2023.
Trong tháng này, Ngân hàng trung ương Philippines (BSP) cảnh báo rủi ro giá thực phẩm tăng cao cũng với lý do ảnh hưởng của El Nino.
Philippines và Đài Loan ghi nhận đà tăng dai dẳng của chỉ số lạm phát cốt lõi (không bao gồm chi phí thực phẩm và năng lượng). Áp lực giá cả sẽ khiến hai nền kinh tế này gặp khó khăn hơn trong quyết định nới lỏng chính sách tiền tệ sắp tới. Philip McNicholas của Robeco Group nhận định, lạm phát cao cũng sẽ có nguy cơ đẩy lợi suất trái phiếu của họ lên mức cao hơn.
Hôm 14-3, Yang Chin-Long, người đứng đầu Ngân hàng trung ương Đài Loan cho biết, có thể sẽ không giảm lãi suất trước tháng 6 khi cơ quan này đang xem xét nâng dự báo lạm phát trong năm 2024.
Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ (RBI) đã giữ nguyên lãi suất ở mức 6,5% trong sáu tháng liên tiếp. Trong cuộc họp tháng trước, Thống đốc RBI cảnh báo, chặng cuối trong cuộc chiến chống lạm phát là phần khó khăn nhất. Vị này nhấn mạnh, mục tiêu trung hạn của RBI là đưa lạm phát xuống 4%.
Ngân hàng trung ương Hàn Quốc (BoK) giữ nguyên lãi suất cơ bản ở mức cao nhất trong 15 năm là 3,5% tại cuộc họp chính sách mới nhất vào tháng 2. Trong báo cáo chính sách tiền tệ hàng quí phát hành hôm 14-3, BoK cho biết, sẽ thận trọng trước triển vọng thay đổi chính sách trong bối cảnh rủi ro kinh tế dai dẳng. Chẳng hạn tình trạng bất ổn trên thị trường nhà ở cũng như nợ nần của doanh nghiệp trong nước.
Tại cuộc họp báo tháng trước, ông Rhee Chang-yong, Thống đốc BoK đẩy lùi các suy đoán về việc BoK sẽ giảm lãi suất sớm. Ông nói BoK có thể không hạ lãi suất trong nửa đầu năm 2024. Ông nhấn mạnh, chính sách tiền tệ chỉ rõ ràng khi lạm phát giảm tốc như kỳ vọng.
Lê Linh (Theo Bloomberg, Reuters)
TBKTSG
Vị 'đắng' của bia
Bên cạnh 2 doanh nghiệp lớn là Sabeco và Habeco, thống kê của Nhadautu.vn cho thấy hàng loạt doanh nghiệp ngành bia niêm yết cũng ghi nhận kết quả doanh thu/lợi nhuận trong quý IV/2023 và cả năm 2023 giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước.
Thị trường bia năm 2023 tiếp tục gặp nhiều khó khăn với ảnh hưởng từ Nghị định 100, cùng với việc xem xét thuế rượu, đã tác động đáng kể đến doanh số bán bia tại Việt Nam, đặc biệt là trên các kênh thương mại.
Thêm vào đó, ngành bia (cũng như ngành tiêu dùng nói chung) còn chịu ảnh hưởng do nền kinh tế khó khăn, thu nhập giảm, dẫn đến người tiêu dùng có xu hướng tiết kiệm và lựa chọn những sản phẩm rẻ hơn.
Dữ liệu của Nhadautu.vn cho thấy hầu hết các doanh nghiệp bia đều báo doanh thu/lãi rõng quý IV/2023 và cả năm 2023 giảm so với cùng kỳ năm trước.
Tổng CTCP Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco – HoSE: SAB) báo doanh thu thuần quý IV/2023 đạt 8.520 tỷ đồng, giảm 9% so với cùng kỳ năm trước. Khấu trừ các chi phí và thuế, lãi ròng công ty còn 966,5 tỷ đồng, tương đương giảm 10,18%. Đây cũng là quý có lợi nhuận thấp nhát của Sabeco tính từ quý III/2021 (đạt 472 tỷ đồng).
Còn xét cả năm 2023, doanh thu Sabeco giảm 35,2 nghìn tỷ trong năm 2022 xuống 30,7 nghìn tỷ đồng. Năm 2023, Sabeco đặt kế hoạch với doanh thu thuần 40.272 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế dự kiến 5.775 tỷ đồng. Như vậy, Sabeco mới chỉ thực hiện được 76% chỉ tiêu về doanh thu và 74% mục tiêu lợi nhuận.
Trong văn bản giải trình gửi Ủy ban Chứng khoán, ông Tan Teck Chuan Lester - Tổng giám đốc Sabeco - cho biết doanh thu thuần thấp hơn so với năm trước bởi sự cạnh tranh gay gắt, nhu cầu tiêu dùng giảm bởi kinh tế trong nước khó khăn, cùng với việc thực hiện chặt chẽ Nghị định 100.
Tích cực hơn chút so với Sabeco, Tổng CTCP Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội (Habeco – HoSE: BHN) báo lãi ròng quý IV/2023 đạt 63,9 tỷ đồng, tương đương tăng 23,6% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, thực tế lãi ròng tăng là nhờ giảm được chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp.
Lũy kế cả năm, Habeco đạt doanh thu thuần 7.757 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế 355 tỷ đồng, lần lượt giảm 7,7% và 30% so với năm 2022. So với kế hoạch đề ra tại ĐHĐCĐ thường niên năm 2023, Habeco đã lần lượt vượt gần 5,3 mục tiêu doanh thu và gần 60% chỉ tiêu lợi nhuận cả năm.
Lý giải về việc doanh thu và lợi nhuận năm 2023 sụt giảm, Habeco cho biết chủ yếu do sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường bia và xu hướng tiêu dùng của người dân giảm trong bối cảnh kinh tế - xã hội còn nhiều biến động. Ngoài ra, việc tăng cường kiểm soát nồng độ cồn vào những tháng cuối năm 2023 cũng khiến doanh thu công ty bị ảnh hưởng.
Lãi ròng Sabeco có xu hướng giảm dần theo các quý. Ảnh: Hữu Bật.
Không chỉ Sabeco và Habeco, nhóm doanh nghiệp bia vừa và nhỏ cũng gặp nhiều khó khăn. Đồng loạt các đơn vị như CTCP Bia Hà Nội – Hải Dương (HNX: HAD), CTCP Rượu và Nước giải khát Hà Nội (UPCOM: HNR), CTCP Bia Hà Nội – Quảng Bình (UPCOM: BQB) đều đồng loạt báo lỗ trong kỳ BCTC quý IV/2023.
Xét năm 2023, BQB và HNR là 2 công ty duy nhất lỗ cả năm.
Chiều ngược lại, các doanh nghiệp có kết quả lợi nhuận từ lỗ quý IV/2022 sang lãi quý IV/2023 có CTCP Bia Sài Gòn Quảng Ngãi (UPCOM: BSQ), CTCP Bia Sài Gòn Phú Thọ (UPCOM: BSP).
Theo đó, BSP báo doanh thu thuần quý IV/2023 giảm 27,24% còn 95 tỷ đồng. Song, nhờ biên lợi nhuận gộp trong kỳ lên đến gần 7,6%, trong khi quý IV/2022 chỉ là hơn 3%, lãi gộp công ty đạt 7,2 tỷ đồng, cao gấp gần 2 lần. Trừ đi các chi phí và thuế, BSP báo lãi ròng 1,4 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ năm trước lỗ 712 triệu đồng. Xét cả năm 2023, BSP báo lãi 5 tỷ đồng, tăng gấp 7 lần so với năm 2022.
Về phía BSQ, cũng nhờ giảm mạnh giá vốn hàng bán cùng các chi phí, công ty này báo lãi quý IV/2023 đạt 22,4 tỷ đồng trong khi quý IV/2022 lỗ 1,7 tỷ đồng. Tính chung trong năm 2023, lãi ròng công ty giảm 41% so với năm 2022 xuống 100,7 tỷ đồng.
Doanh nghiệp có kết quả lãi ròng quý IV/2023 tăng mạnh nhất, theo khảo sát của Nhadautu.vn, là CTCP Bia Sài Gòn Sông Lam (UPCOM: BSL). Trong quý IV/2023, doanh thu thuần công ty chỉ tăng 5% đạt gần 219 tỷ đồng. Song nhờ việc kiểm soát tốt chi phí và lãi tiền gửi ngân hàng cao, lãi ròng công ty đạt hơn 7,8 tỷ đồng, tăng 3.123% so với quý IV/2022. Dù vậy, lũy kế năm 2023, lợi nhuận công ty đạt 29,6 tỷ đồng, giảm gần 27%.
Ảnh: Hữu Bật.
Các doanh nghiệp bia sẽ tiếp tục gặp khó?
Thị trường bia nói riêng và các loại đồ uống có cồn được dự báo sẽ gặp nhiều khó khăn trong tương lai.
Theo đánh giá từ VIRAC Research, Nghị định 100 sẽ tiếp tục là rào cản lớn kìm hãm sự phục hồi của ngành bia trong năm nay. Cùng với đó, giá nguyên liệu đầu vào sản xuất dự báo tăng mạnh sẽ ảnh hưởng đáng kể đến lợi nhuận các doanh nghiệp bia.
Đồng quan điểm, Chứng khoán Maybank (MSVN) nhìn nhận việc ban hành Nghị định 100 theo hướng chặt chẽ hơn, cùng việc xem xét thuế rượu, đã tác động đáng kể đến doanh số bán bia tại Việt Nam, đặc biệt là trên các kênh thương mại.
Không những thế, ngành bia cũng chịu ảnh hưởng khi người tiêu dùng có xu hướng tiết kiệm và chọn các sản phẩm rẻ hơn do ảnh hưởng từ nền kinh tế. Dù vậy, MSVN đánh giá điều này đã mang lại lợi ích cho Sabeco trong những năm gần đây do giá thấp hơn, giúp hãng tăng thị phần trong bối cảnh tổng lượng tiêu thụ bia ở Việt Nam giảm. Tuy nhiên, trong dài hạn, xu hướng hướng tới các sản phẩm cao cấp sẽ duy trì, dẫn dắt bởi sự mở rộng của tầng lớp trung lưu và thu nhập khả dụng ngày càng tăng ở Việt Nam.
Mặt khác, ngành bia còn chịu ảnh hưởng tiêu cực khi quan điểm hạn chế bia rượu (NoLo- No and Low Alcohol) trong giới trẻ ngày càng gia tăng. Theo tờ NBC News, ngành bia rượu hiện nay không chỉ phải đối mặt với sự suy giảm nhu cầu tiêu dùng mà còn từ các đối thủ mới như những hãng nước giải khát.
Chuyên gia kinh tế trưởng Lester Jones của Liên đoàn bán sỉ bia quốc gia Mỹ (NBWA) cho biết một số tập đoàn nước giải khát lớn nhất thế giới đã cho ra mắt các sản phẩm bia không cồn, qua đó cạnh tranh trực tiếp với ngành bia rượu truyền thống.
Điều này cũng dẫn đến những kỳ vọng phân khúc bia ít cồn và không cồn có nhiều tiềm năng tăng trưởng trong tương lai. Theo MSVN, điều này cũng giúp hóa giải tác động của Nghị định 100 – yếu tố đã hạn chế đáng kể doanh số của các doanh nghiệp ngành bia trong các dịp lễ, Tết.
Doanh nghiệp nào có EPS cao nhất năm 2020?
So với năm 2019, bảng xếp hạng top 10 doanh nghiệp có EPS cao nhất trong năm 2020 đã bước sang trang mới bởi ảnh hưởng không ngờ từ đại dịch toàn cầu – Covid 19, không còn những cái tên một thời như D2D, VHC, MSG, PTB, CTD, MWG, VCS, HDG, AMV.
Doanh nghiệp đứng đầu top 10 doanh nghiệp có EPS cao nhất thị trường
Mặc dù phải chịu tác động kép từ sự cố hỏa hoạn cuối tháng 8/2019 và đại dịch Covid-19 xuất hiện đầu năm 2020, cổ phiếu RAL của CTCP Bóng đèn Phích nước Rạng Đông (HOSE: RAL) trở thành công ty có tỷ suất sinh lời trên mỗi đồng vốn cao nhất năm 2020, đạt gần 29,225 đồng, gấp 2.69 lần con số đạt được năm 2019.
Doanh nghiệp có EPS tăng mạnh và lọt top 10 doanh nghiệp có EPS cao nhất năm 2020
Cổ phiếu THD của CTCP Thaiholdings (HNX: THD) sẽ là cái tên được nhắc đến đầu tiên về khả năng thu nhập lãi trên mỗi cổ phần nhanh nhất khi nâng từ mức chưa đến 1,000 đồng năm 2019 lên mức 16,905 đồng trong năm 2020, gấp hơn 19.2 lần. Theo đó, từ mức EPS “đại trà”, cổ phiếu THD đã được xướng tên trong top 10 doanh nghiệp có EPS cao nhất thị trường trong năm 2020.
Doanh nghiệp có EPS giảm mạnh nhất năm 2020
Tuy có doanh thu thuần gấp 3.74 lần năm 2019, song, lợi nhuận sau thuế của CTCP Chứng khoán SmartInvest (UPCoM: AAS) giảm đến 82% so với năm trước chủ yếu do lỗ từ bán các tài sản tài chính FVTPL tăng từ 40 tỷ đồng lên mức hơn 465 tỷ đồng. Do đó, AAS được xem là doanh nghiệp có EPS giảm mạnh nhất trong năm 2020, từ 616 đồng xuống chỉ còn 109 đồng.
交易股票、貨幣、商品、期貨、債券、基金等金融工具或加密貨幣屬高風險行為,這些風險包括損失您的部分或全部投資金額,所以交易並非適合所有投資者。
做出任何財務決定時,應該進行自己的盡職調查,運用自己的判斷力,並諮詢合格的顧問。本網站的內容並非直接針對您,我們也未考慮您的財務狀況或需求。本網站所含資訊不一定是即時提供的,也不一定是準確的。本站提供的價格可能由造市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他財務決定均應完全由您負責,並且您不得依賴通過網站提供的任何資訊。我們不對網站中的任何資訊提供任何保證,並且對因使用網站中的任何資訊而可能造成的任何交易損失不承擔任何責任。
未經本站書面許可,禁止使用、儲存、複製、展現、修改、傳播或分發本網站所含數據。提供本網站所含數據的供應商及交易所保留其所有知識產權。