行情
新聞
分析
使用者
快訊
財經日曆
學習
數據
- 名稱
- 最新值
- 前值
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
無匹配數據
最新觀點
最新觀點
最近更新
港股投資的風險預警
儘管香港法律體系和監管框架相對健全,但港股市場仍存在一些特定的風險和挑戰,如港幣與美元掛鉤,外地投資者可能會面臨匯率波動;中國內地的政策變化和經濟狀況對港股的影響等 。
投資港股費用架構與稅務
港股市場的交易成本包括總投資成本為買賣股票的交易費用、印花稅、結算費用等,對於外地投資者,可能會涉及兌換港幣所產生匯率轉換費用,以及依照所在地的相關法規需繳納的稅款。
港股產業分析:非必需消費產業
港股市場非必需消費產業涵蓋汽車、教育、旅遊、餐飲、服飾等多個領域,在643家上市公司中35%為中國內地公司,佔總市值的65%,因此受中國經濟影響深遠。
港股產業分析:地產建築業
地產建築業在港股指數中的份額近年來已明顯下降,但截至2022年,它依然在市場上佔有約10%的份額。 包含了房地產開發、建築工程、房地產投資和物業管理等各個方面。
中國·香港
越南·胡志明
杜拜
奈及利亞·拉各斯
埃及·開羅
查看所有搜尋結果
暫無數據
Nếu bạn đang tìm kiếm một cổ phiếu tiềm năng
CTCP Cơ Điện Lạnh (REE) là cái tên không thể bỏ qua. Với chiến lược kinh doanh bài bản và các chỉ số tài chính ấn tượng, REE đang trở thành “ngôi sao” trong mắt các nhà đầu tư dài hạn.
Tình hình tài chính nổi bật:
REE kết thúc quý 3/2024 với những con số ấn tượng:
Doanh thu thuần: 3.700 tỷ đồng, tiếp tục khẳng định vị thế ổn định.
Lợi nhuận sau thuế: 97,9 tỷ đồng, tăng trưởng 20% so với cùng kỳ năm trước.
Các con số này cho thấy khả năng quản lý tài chính hiệu quả và tiềm năng tăng trưởng vượt bậc trong bối cảnh kinh tế đang có nhiều biến động.
Lĩnh Vực Kinh Doanh Chủ Lực
Bất động sản văn phòng: Các dự án như Etown 6 duy trì tỷ lệ lấp đầy cao, mang lại nguồn thu ổn định.
Năng lượng tái tạo: REE đang đẩy mạnh đầu tư vào điện gió, điện mặt trời, đón đầu xu hướng phát triển bền vững.
Triển Vọng Tương Lai
REE đặt mục tiêu mở rộng lĩnh vực năng lượng và bất động sản, với kế hoạch tăng công suất năng lượng tái tạo lên 2.000 MW vào năm 2025. Đồng thời, các dự án bất động sản tiếp tục phát triển, tạo nền tảng vững chắc cho tăng trưởng dài hạn.
Rủi Ro Cần Lưu Ý
Chi phí tài chính tăng: Biến động lãi suất có thể ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư.
Khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực năng lượng: Đòi hỏi REE duy trì chiến lược phát triển linh hoạt để tối ưu hóa chi phí.
Khuyến Nghị Đầu Tư
Với nền tảng tài chính ổn định và chiến lược phát triển rõ ràng, REE là một trong những cổ phiếu đáng cân nhắc cho năm 2025. Nhà đầu tư có thể xem xét tích lũy cổ phiếu này để tận dụng lợi thế từ các mảng kinh doanh tiềm năng.
KẾT LUẬN : NĐT có thể giam gia cổ phiếu REE - vùng giá (62-64) nắm giữ cho trend chung - dài hạn năm 2025-2026
NĐT nên tham gia mua chia làm 3 giai đoạn đi tiền khi cổ phiếu có tín hiệu giữ nền tích cực quan trọng phải back test thành công vùng 64
Cutloss khi cổ phiếu giảm 5% từ biên giá mua
Hãy chia sẻ suy nghĩ của bạn về REE và liệu đây có phải là cổ phiếu phù hợp với danh mục đầu tư của bạn không!
Cập nhật vĩ mô - Ảnh hưởng từ việc EVN tăng giá điện bình quân (BSC)
1. Cơ chế điều chỉnh giá điện bình quân:Ngày 26/3/2024, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 05/2024/QĐ-TTg: Quy định về cơ chế điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân thay thế cho Quyết định 24/2017/QĐ-TTg. Một số thay đổi đáng chú ý trong quyết định mới được trình bày ở Bảng 1.
Năm 2025, BSC dự báo EVN có thể tăng giá bán lẻ điện bình quân 4 – 8% trên cơ sở (1) giá bán lẻ điện bình quân hiện hành vẫn thấp hơn giá thành sản xuất điện năm 2023 (2,088.90 đ/kWh); (2) Trong năm 2024, áp lực tỷ giá thậm chí còn lớn hơn nhiều so với năm 2023, gây áp lực cho chi phí đầu vào của EVN. USD/VND đã trải qua một đợt tăng dốc từ cuối năm 2023 đến giữa tháng 7/2024 (mức đỉnh: 25,7470, +4.95% YTD). Hiện tại, tuy tỷ giá đã hạ nhiệt nhưng vẫn đang ở mức cao; (3) Nguồn cung điện giá rẻ vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng.
2. Ảnh hưởng của giá điện:
2.1. Ảnh hưởng của Giá điện đến CPI
- Tác động vòng một: Với quyền số giá điện sinh hoạt trong rổ CPI là 3.31%, giá điện tăng +4.8% làm CPI tăng +0.16%.
- Tác động vòng hai: Giá điện tăng tác động trực tiếp đến chi phí sản xuất cũng như sinh hoạt trong toàn nền kinh tế, do đó sẽ kéo theo mặt bằng giá cả hàng hóa chung tăng lên, làm tăng tốc độ lạm phát. Tuy nhiên, tác động vòng hai sẽ có độ trễ. - Mức tăng này sẽ không ảnh hưởng quá lớn đến lạm phát năm 2024 do giá điện được điều chỉnh lần gần nhất khi sắp hết năm (ngày 11/10/2024). BSC điều chỉnh dự báo lạm phát trung bình năm 2024 ở mức 3.86 – 4.5% YoY và nghiêng về kịch bản tích cực hơn.
2.2. Ảnh hưởng của giá điện đến các ngành:
Ngành điện: Tài chính khó khăn của EVN ảnh hưởng đến các doanh nghiệp
Mặc dù tăng giá điện 2 lần trong năm 2023, EVN vẫn lỗ trước thuế 25,56 nghìn tỷ đồng.
Tài chính khó khăn của EVN có thể gây sức ép tài chính lên các doanh nghiệp, tuy nhiên tổng quan ngành điện những tháng cuối năm vẫn triển vọng.
Các yếu tố "thắp sáng" ngành điện
Môi trường kinh tế thuận lợi với tăng trưởng GDP kỳ vọng tích cực là bệ phóng cho nhu cầu tiêu thụ của ngành điện. Năm 2024, Kinh tế được dự báo tăng trưởng mạnh hơn, tương quan chỉ số sản xuất công nghiệp IIP và tăng trưởng lượng tiêu thụ điện tương ứng, là cơ hội cho các ngành điện, theo báo cáo về ngành của Chứng khoán VPBank (VPBankS).
El Nino kéo dài từ năm 2023 đã làm suy giảm sâu sản lượng thủy điện trong năm 2023 và kéo sang quý II/2024, nhưng có kỳ vọng tăng sản lượng khi La Nina quay trở lại.
Bên cạnh đó, giá dầu khí trên thị trường quốc tế dự báo biến động trong khoảng 80-90 usd/thùng trong năm 2024. Căng thẳng địa chính trị có thể đẩy giá dầu tăng cao lên trên 95 usd/thùng, nhưng cơ bản là ổn định như trong năm 2023. Giá khí tại Mỹ được dự báo tăng khoảng 5% trong năm 2024 lên mức 2,66 usd/mmbtu. Ngoài ra, giá than trong năm 2023 cũng giảm mạnh khoảng 52%-54% đồi với từng loại than (xuất xứ và nhiệt trị).
Năm 2023 cũng được dự báo tiêu thụ than đạt mức đỉnh với 8,54 tỷ tấn, tăng 1.4%. Từ 2024 tiêu thụ than sẽ giảm dần, đặc biệt ở các nước phát triển, do năng lượng tái tạo tiếp tục được đầu tư lớn. Điều này có thể gây áp lực lên giá than. Năng lượng đầu vào thấp là điều kiện để áp lực lên giá điện giảm.
Bên cạnh đó, VPBankS ghi nhận sự dịch chuyển trong hệ thống khi được bố sung từ các dự án năng lượng tái tạo (NLTT) chuyển tiếp và LNG. Đến cuối T6.2024 có 29 dự án với tổng công suất 1.578MW/4.735MW công suất điện NLTT hoàn thành COD. Tăng thêm 8 dự án với công suất 376 MW. Có thể thấy tốc độ thực hiện COD còn khá chậm, vẫn còn 4 dự án (137 MW) chưa gửi hồ sơ đàm phán giá điện. Theo kế hoạch, Nhà máy điện khí LNG Nhơn Trạch 3 (NT3) sẽ đi vào vận hành thử từ 15.9.2024 và vận hành thương mại từ cuối 2024. Và đáng chú ý là từ tháng 8, thời tiết sẽ xoay chiều tình hình sản xuất của ngành khi El Nino khả năng kết thúc trong nửa đầu năm 2024
Theo báo cáo tháng 8/2024, hình thái La Nina sẽ hoạt động mạnh từ tháng 8 đến tháng 12/2024, với tỷ lệ 66%-74%, khả năng kéo dài đến tháng 4/2025 với tỷ lệ 44%. Lượng mưa trong tháng 6-8/2024 được đánh giá là có mức cao từ 15-30% so với trung bình nhiều năm.
Điều này hỗ trợ các nhà máy thủy điện có thể hoạt động tích cực hơn so với 2023. Dự báo sản lượng thủy điện năm 2024 có thể đạt 84,1 tỷ kwh, tăng 4% so với năm 2023. Sang tháng 7, sản lượng thủy điện đã tăng lên 12,3 tỷ kwh, vượt điện Than lên vị trí số 1, chiếm đến 44,3% tổng sản lượng nguồn, VPBankS cho biết. Có thể nói, hình thái La Nina đang "thắp sáng" cho ngành điện về nâng sản xuất sản xuất trong mùa mưa. Các doanh nghiệp thủy điện có cơ hội tốt hơn vào giai đoạn này để tăng cung ứng điện.
Thách thức của ngành
Với kinh tế kỳ vọng kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ hơn (6%-6.5%), VPBank S dự báo nhu cầu điện sẽ tiếp tục tăng lên 10%-11%. Song bên cạnh đó, các thách thức những tháng cuối năm cũng được đặt ra, trong đó, nổi cộm là vấn đề Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) khó khăn tài chính do thua lỗ kéo dài. Ghi nhận đến tháng 6/2024, lỗ lũy kế của EVN là gần 52.016 tỷ đồng.
Thống kê giá trị các khoản phải thu và vòng quay các khoản phải thu của nhóm ngành điện.
Mặc dù tăng giá điện 2 lần trong năm 2023, EVN vẫn lỗ trước thuế 25,56 nghìn tỷ đồng. Trong nửa đầu năm 2024, lỗ trước thuế đã giảm manh so với cùng kỳ 2023 khi lỗ 8,09 nghìn tỷ so với mức lỗ 27,74 nghìn tỷ cùng kỳ 2023. Vốn chủ sở hữu đến T6.2024 đạt 187,75 nghìn tỷ, giảm 4,3% so với cuối 2023 và chiếm 28,7% tổng nguồn vốn. “Đây là rủi ro tài chính có thể làm các dự án điện bị chậm lại và cũng ảnh hưởng đến các đơn vị phát điện khi EVN là đơn vị mua điện”, theo nhóm phân tích.
Tài chính khó khăn của EVN có thể gây sức ép tài chính lên các doanh nghiệp với việc giá mua điện giảm, tỷ lệ tham gia thị trường phát điện cạnh tranh giảm; đồng thời có thể gây sức ép/khó khăn lên tài chính một số doanh nghiệp có số vòng quay các khoản phải thu thấp nhưng giá trị các khoản phải thu cao. Trong một ngành mà “người mua” lớn có vị thế gần như độc quyền với các người bán là nhà phát điện, việc chấp nhận tỷ lệ vòng quay thấp để mở rộng thêm khách hàng có thể xem là ít ý nghĩa và theo đó, việc chấp nhận công nợ sẽ khiến các doanh nghiệp, nhà phát điện gặp khó khăn trong thu hồi, xử lý nợ khó đòi, luân chuyển dòng vốn - tiền mặt cho hoạt động kinh doanh và dự án. Đây có thể nói là đặc thù của ngành điện hiện tại và các doanh nghiệp tham gia cũng sẽ phải chấp nhận.
Cơ hội sáng với cổ phiếu nào?
Dù vậy, VPBankS vẫn cho rằng trên tổng quan, một số doanh nghiệp sẽ có cơ hội thắp sáng cổ phiếu, nổi bật như:
POW: Định giá 14.650, mục tiêu tăng trưởng +7,6%. Cơ sở cho kỳ vọng từ việc Tổ máy S1 nhà máy Vũng Áng 1 hoạt động đủ công suất cả năm đưa sản lượng điện han tăng lên. Nhà máy NT3 đi vào hoạt động từ cuối năm 2024, nhà máy NT4 đi vào hoạt động từ giữa năm 2025. Giá trị bảo hiểm gián đoạn kinh doanh của Nhà máy Vũng Áng là 1.000 tỷ.
Lưu ý thách thức là: 1)Nhà máy hoạt động không ổn định; 2)Nguồn khí cấp cho các nhà máy không đáp ứng nhu cầu; 3)Quá trình đàm phán Giá điện- Giá khí LNG cho nhà máy NT3&4 chậm hơn so với kế hoạch.
POW hiện cũng là một trong những doanh nghiệp có 15.590 tỷ đồng giá trị các khoản phải thu, hệ số vòng quay các khoản phải thu 1.00. Tuy nhiên, lượng tiền mặt và tiền gửi ngân hàng đạt mức 9.320 tỷ đồng. Cty này cũng cho biết tình hình thu hồi công nợ từ EVN vô cùng khó khăn, tổng số tiền nợ đọng đã xấp xỉ 13.000 tỷ đồng theo ước lượng sơ bộ.
PC1: Định giá 34.060đ/cp, mục tiêu +21,6%. Thuận lợi của PC1 gồm: Hồi phục lĩnh vực xây lắp và sản xuất công nghiệp ngành điện từ 2024 trở đi với các dự án lưới truyền tải; Câu chuyện hấp dẫn từ các lĩnh vực khác như BĐS KCN, lần đầu hạch toán lợi nhuận từ WP. Khai thác khoáng sản tiếp tục đóng góp lợi nhuận khả quan.
Về thách thức, lưu ý hiệu quả kinh doanh các lĩnh vực khác bị suy giảm không như kế hoạch; Các dự án đầu tư ngành điện NLTT bị chậm trễ do chính sách quản lý chưa kịp thời.
Trên thị trường, PC1 vẫn đang có thị giá khá thấp chỉ 28.650đ/cp theo giá chốt tại 13/9/2024. PC1 không chỉ là doanh nghiệp đang ghi nhận đóng góp tích cực từ nhà máy thủy điện, lõi xây lắp cho ngành điện với các dự án thầu EPC của Cty được đánh giá còn tiềm năng từ 2024, với thuận lợi nhờ Quy hoạch Điện VIII.
REE: định giá 74.000đ/cp, mục tiêu + 6,2%. REE với thị phần lớn trong mảng điện kết hợp điện lạnh, đang được kỳ vọng sự phục hồi nhờ thủy điện khi La Nina quay trở lại từ nửa cuối năm như nêu trên. Bên canh đó, REE có cơ hội phát triển với các dự án NLTT khi chính sách phát triển rõ ràng hơn trong 2024.
Ở mảng BĐS và cho thuê, REE có thêm dự án Etown 6 đi vào hoạt động từ đầu Quý 2; dự án The Light Square bàn giao và hạch toán doanh thu lợi nhuận trong năm 2024.
Thách thức của REE là các các chính sách phát triển NLTT bị chậm trễ; vướng mắc các dự án đầu tư giai đoạn trước; nhu cầu điện tăng không như dự báo.
QTP: Định giá 18.000đ/cp, mục tiêu +21,7%. QTP có triển vọng với sản lượng điện duy trì mức cao trong khi chi phí sản xuất điện giảm (khấu hao, lãi vay); Lợi suất cổ tức hấp dẫn (8-10%/năm). Nhiệt điện than cạnh tranh tốt với giá thành thấp, được ưu tiên huy động, đặc biệt tại miền Bắc trong bối cảnh nhu cầu điện tăng;
Rủi ro: Nhu cầu điện tăng không như dự báo; biến động và gián đoạn nguồn cung nhiên liệu làm cho sản lượng phát điện thấp.
Ngoài ra, QTP trên thị trường cũng đang không được NĐT đón nhận tích cực với thị giá dao động quanh 14.000đ/cp, kết quả kinh doanh 6 tháng giảm ở cả doanh thu và lợi nhuận (-1% so với cùng kỳ). Bất lợi của QTP cũng phải nói thêm là khi mùa Lanina gần đến, QTP đóng vai trò nhà máy phát điện trọng điểm tại khu vực miền Bắc, nhưng sản lượng phát điện từ công ty sẽ bắt đầu suy giảm đáng kể từ quý III/2024 khi EVN gia tăng huy động từ các nhà máy thủy điện - QTP phát triển nhiệt điện than sẽ rơi vào mùa thấp điểm.
La Nina "thắp sáng" cổ phiếu ngành điện
Công ty Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) vừa công bố báo cáo triển vọng ngành điện với nhận định kết quả kinh doanh năm 2025 của nhóm thủy điện lớn được dự báo sẽ cải thiện mạnh nhờ tăng trưởng sản lượng do chu kỳ La Nina đang diễn ra, đồng thời giá bán điện bình quân trong năm 2025 của các công ty thủy điện sẽ khó giảm so với cùng kỳ, và có khả năng tăng khi tình hình tài chính của EVN có thể cải thiện.
THUỶ ĐIỆN BỨT PHÁ NHỜ LA NINA VÀ NHU CẦU TIÊU THỤ CAO
Theo số liệu từ báo cáo, trong 7 tháng đầu năm 2024, sản lượng điện thương phẩm tăng trưởng mạnh mẽ, đạt 161 tỷ kWh, tăng 13,5% so với cùng kỳ nhờ nhu cầu tiêu thụ điện lớn tới từ cả khối khách hàng sản xuất (tăng trưởng 12,4%) lẫn khách hàng tiêu thụ điện dân dụng (tăng trưởng 14,7%).
Tương tự, sản lượng điện sản xuất đạt 179 tỷ kWh, tăng 11,5% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, nhiệt điện than và thủy điện đóng góp lớn nhất với sản lượng lần lượt 96 tỷ kWh (chiếm 53,7% sản lượng toàn hệ thống) và 41 tỷ kWh (chiếm 22,8% sản lượng toàn hệ thống), theo sau là năng lượng tái tạo và nhiệt điện khí.
Với nhu cầu tiêu thụ điện mạnh mẽ, nhóm chuyên gia VDSC kỳ vọng sản lượng điện tiêu thụ điện sẽ tăng trưởng mạnh và đạt mức 275 tỷ kWh (tăng 9,5%) trong năm 2024 và 297 tỷ kWh (tăng 8%) trong năm 2025.
Trong năm 2025, VDSC cho rằng đóng góp của thủy điện sẽ cao hơn nhờ chu kỳ thời tiết thuận lợi hơn, bên cạnh đó là nhiệt điện khí LNG với việc nhiệt điện than không còn dư địa để phát triển, trong khi nguồn năng lượng tái tạo mới hiện vẫn chờ hoàn thiện các cơ chế cần thiết để triển khai, còn điện khí thiên nhiên gặp vấn đề về nguồn cung nhiên liệu.
Trong 7 tháng đầu năm 2024, sản lượng thủy điện toàn hệ thống đã tăng trưởng 13,7% lên 41 tỷ kWh, và tỷ lệ huy động từ nguồn thủy điện bắt đầu cao hơn so với cùng kỳ năm 2023 do chu kỳ El Nino đã đi qua.
Theo quan điểm của chuyên gia từ VDSC, sản lượng các công ty thủy điện sẽ cải thiện từ nửa cuối 2024, và kết quả kinh doanh các công ty thủy điện sẽ tăng trưởng tốt trong năm 2025 so với 2024 nhờ chu kỳ chuyển pha La Nina đang diễn ra từ tháng 9/2024.
Cùng với đó, giá bán điện bình quân trong năm 2025 của các công ty thủy điện sẽ khó có khả năng giảm so với 2024, và có khả năng tăng khi tình hình tài chính của EVN được cải thiện.
Đồng thời, sản lượng các công ty thủy điện sẽ tăng trưởng tốt trong năm 2025 nhờ chu kỳ thủy văn thuận lợi. Theo quan sát của VDSC, sản lượng thương phẩm của các công ty thủy điện trong chu kỳ La Nina cao hơn chu kỳ El Nino khoảng 10 - 20%, do chi phí sản xuất thấp hơn các loại hình phát điện khác.
Cụ thể, chi phí sản xuất của các công ty thủy điện và giá bán điện của các công ty thủy điện là thấp nhất trong các nguồn điện: chi phí sản xuất điện/kWh các công ty thủy điện đa phần nằm ở mức 400 – 600 đồng/kWh, thấp hơn nhiều so với mức bình quân 1.100 – 1.300 đồng/kWh của các công ty nhiệt điện than.
Về triển vọng ngắn hạn, Công ty Chứng khoán VPBank (VPBankS) cũng đưa ra góc nhìn lạc quan về ngành điện trong những tháng cuối năm 2024 khi dự báo nhu cầu tiêu thụ điện tiếp tục tăng lên.
Theo đó, Bộ Công thương/EVN vừa thực hiện điều chỉnh phương án nhu cầu điện tăng thêm 1,25% so với kế hoạch đầu năm, đưa tổng nhu cầu điện lên 310,6 tỷ kwh, tăng 10,68% so với 2023.
Đồng thời, hình thái La Nina sẽ hoạt động mạnh từ tháng 8 đến tháng 12/2024, với tỷ lệ 66 - 74%, khả năng kéo dài đến tháng 4/2025 với tỷ lệ 44%. Lượng mưa trong tháng 6 - 8/2024 được đánh giá là có mức cao từ 15 - 30% so với trung bình nhiều năm.
“Điều này hỗ trợ các nhà máy thủy điện có thể hoạt động tích cực hơn so với 2023. Dự báo sản lượng thủy điện năm 2024 có thể đạt 84,1 tỷ kwh, tăng 4% so với năm 2023”, VPBankS nhận định.
CỔ PHIẾU NÀO “BỪNG SÁNG”?
Về cổ phiếu nhóm ngành điện tiềm năng, VPBankS Research có quan điểm tích cực đối với cổ phiếu POW của Tổng Công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam – CTCP (PV Power) nhờ động lực tăng trưởng ngắn hạn trong năm 2024 đến từ tổ máy S1 nhà máy Vũng Áng đã hoạt động trở lại và các nhà máy điện khí hoàn thành bảo dưỡng sẽ gia tăng sản lượng phát điện, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Về dài hạn, dự án nhiệt điện Nhơn Trạch 3 và 4 tiếp tục là động lực phát triển của PV Power giai đoạn 2025 - 2026, khi đóng góp thêm 1.500 MW (tăng 36% công suất) và 9.200 triệu kWh (tăng 45% sản lượng điện).
VPBankS dự báo năm 2024, sản lượng điện sản xuất của PV Power có thể đạt 17.255 triệu kWh, tăng 21% so với năm 2023. Doanh thu và lợi nhuận có thể lần lượt đạt 33.244 tỷ đồng và 1.650 tỷ đồng, tăng 17% và 14%.
Một cổ phiếu ngành điện khác cũng được VPBankS khuyến nghị khả quan là REE của Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh, nhờ lĩnh vực bất động sản của công ty sẽ bù đắp sự suy giảm từ lĩnh vực thuỷ điện.
Theo đó, dự án Etown6 đang trong giai đoạn hoàn thiện và sẽ bàn giao mặt bằng cho khách hàng thuê từ đầu quý 2/2024. Bên cạnh đó, bất động sản thương mại đóng góp từ dự án The Light Square với doanh thu khoảng 1.100 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế khoảng 250 tỷ đồng.
Trong ngắn hạn, lĩnh vực điện năng của REE được VPBankS Research kỳ vọng hoạt động ổn định và sẽ quay về mức thuận lợi khi El Nino được dự báo kết thúc trong nửa đầu năm 2024.
Trong trung và dài hạn, REE đang cùng các đối tác tìm kiếm đầu tư các dự án năng lượng tái tạo (điện gió gần bờ) với quy mô từ 1.800 - 2.000MW. Tiếp tục là đơn vị tiên phong trong phát triển năng lượng tái tạo.
Đối với cổ phiếu PC1, luận điểm đầu tư đến từ doanh nghiệp này sẽ có sự hồi phục trong lĩnh vực xây lắp và sản xuất công nghiệp ngành điện từ năm 2024 trở đi với các dự án lưới truyền tải.
Song song với đó, các lĩnh vực khác như bất động sản khu công nghiệp, khoản đầu tư vào Western Pacific và khai thác khoáng sản tiếp tục đóng góp lợi nhuận khả quan cho doanh nghiệp.
Cho cả năm 2024, VPBankS dự báo doanh thu và lợi nhuận trước thuế của PC1 lần lượt đạt 9.895 tỷ đồng và 683 tỷ đồng, lần lượt tăng 27% và 75% so với năm 2023. Thu nhập mỗi cổ phần đạt 1.218 đồng/cổ phiếu, tăng 168% so với cùng kỳ.
Trong khi đó, cổ phiếu QTP của Công ty Cổ phần Nhiệt điện Quảng Ninh được đánh giá có triển vọng tích cực do sản lượng điện sản xuất đạt mức cao với 7,73 tỷ kWh, trong khi đó chi phí sản xuất tiếp tục giảm.
Bên cạnh đó, đây là doanh nghiệp thường xuyên chi trả cổ tức tiền mặt ở mức hấp dẫn, từ 1.000 - 1.500 đồng/cổ phiếu. Theo đó lợi suất cổ tức có thể đạt mức 8%-10%/năm.
Về hoạt động kinh doanh năm 2024, VPBankS dự báo sản lượng điện của Nhiệt điện Quảng Ninh có thể thực hiện từ 7.750 – 7.800 triệu kWh. Doanh thu và lợi nhuận dự báo lần lượt đạt 11.892 tỷ đồng và 764 tỷ đồng, bằng 99% và 118% của năm 2023.
4 cổ phiếu điện kỳ vọng tăng trưởng
Dựa vào những phân tích trên, nhóm phân tích chỉ ra 4 cổ phiếu ngành điện tiềm năng, kỳ vọng tăng trưởng những tháng cuối năm 2024, bao gồm: PC1, QTP, REE và POW.
Với Tập đoàn PC1 (mã: PC1) , VPBanks đưa ra góc nhìn lạc quan về hoạt động xây lắp điện và sản xuất công nghiệp sẽ hồi phục tốt. Mảng bất động sản khu công nghiệp dự báo lạc quan các tháng cuối năm. CTCK này dự báo doanh thu và lợi nhuận trước thuế năm 2024 lần lượt tăng 27% và 75% so với năm ngoái.
Bên cạnh đó, nhóm phân tích dự báo sản lượng điện của Nhiệt điện Quảng Ninh (mã: QTP) có thể thực hiện từ 7.750-7.7800 kwh cho cả năm 2024. Nhờ đó, doanh thu và lợi nhuận dự kiến lần lượt đạt 11.892 tỷ và 764 tỷ đồng, bằng 99% và 118% của năm 2023. Một số điểm nhấn đầu tư có thể kể tới sản lượng điện sản xuất đạt mức cao, chi phí sản xuất tiếp tục giảm và cổ tức tiền mặt hấp dẫn.
Đồng thời, VPbankS cũng kỳ vọng EL Nino kết thúc trong nửa đầu năm sẽ mang lại sản lượng thủy điện tốt hơn cho Cơ điện lạnh (mã: REE) trong nửa cuối năm, đặc biệt REE sở hữu nhiều nhà máy khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Ngoài ra, lĩnh vực bất động sản có thể bù đắp suy giảm lĩnh vực thủy điện. Dự án Etown6 đang trong giai đoạn hoàn thiện và sẽ bàn giao mặt bằng cho khách hàng thuê từ đầu quý 2/2024, diện tích văn phòng cho thuê tăng thêm gần 37.000 m2.
Cuối cùng, VPbankS nhận định động lực tăng trưởng trong năm 2024 của Tổng Công ty Điện lực dầu khí (mã: POW) là tổ máy S1 nhà máy Vũng Áng. Nhà máy này đã hoạt động trở lại và các nhà máy điện khí hoàn thành bảo dưỡng sẽ gia tăng sản lượng phát điện, nâng cao hiêu quả sản xuất kinh doanh.
Trong dài hạn, dự án nhiệt điện Nhơn Trạch 3 và 4 tiếp tục là động lực phát triển của công ty từ 2025-2026, dự kiến đóng góp thêm 1.500 MW (+36% công suất) và 9.200 triệu kwh (+45% sản lượng điện).
La Nina hoạt động mạnh từ tháng 8, mưa nhiều chưa từng có, cổ phiếu ngành điện ra sao?
Điện than và khí tiếp tục đóng góp vai trò nền tảng, chi phí sản xuất điện than hợp lý hơn khi giá than ở mức thấp.
Dự báo hình thái La Nina sẽ hoạt động mạnh từ tháng 8 đến tháng 12/2024, với tỷ lệ 66%-74%, khả năng kéo dài đến tháng 4/2025 vớitỷ lệ 44%. Lượng mưa trong tháng 6-8/2024 được đánh giá là có mức cao từ 15-30% so với trung bình nhiều năm.
Chứng khoán VPBankS vừa có báo cáo cập nhật triển vọng cổ phiếu ngành điện với góc nhìn lạc quan những tháng tiếp theo trong năm 2024 khi dự báo nhu cầu điện tiếp tục tăng lên. Bộ Công thương/EVN vừa thực hiện điều chỉnh phương án nhu cầu điện tăng thêm 1,25% so với kế hoạch đầu năm, đưa tổng nhu cầu điện lên 310,6 tỷ kwh, tăng 10,68% so với 2023.
Theo đó, giá than tiếp tục ổn định ở mức thấp. Giá dầu khí trên thị trường quốc tế dự báo biến động trong khoảng 80-90 USD/thùng trong năm 2024. Căng thẳng địa chính trị có thể đẩy giá dầu tăng cao lên trên 95 USD/thùng, nhưng cơ bản là ổn định như trong năm 2023. Giá khí tại Mỹ được dự báo tăng khoảng 5% trong năm 2024 lên mức 2,66 USD/mmbtu.
Giá than trong năm 2023 cũng giảm mạnh khoảng 52%-54% đồi với từng loại than (xuất xứ và nhiệt trị). Năm 2023 cũng được dự báo tiêu thụ than đạt mức đỉnh với 8,54 tỷ tấn, tăng 1,4%. Từ 2024 tiêu thụ than sẽ giảm dần, đặc biệt ở các nước phát triển, do năng lượng tái tạo tiếp tục được đầu tư lớn. Điều này có thể gây áp lực lên giá than.
Theo báo cáo tháng 8/2024, hình thái La Nina sẽ hoạt động mạnh từ tháng 8 đến tháng 12/2024, với tỷ lệ 66%-74%, khả năng kéo dài đến tháng 4/2025 với tỷ lệ 44%. Lượng mưa trong tháng 6-8/2024 được đánh giá là có mức cao từ 15-30% so với trung bình nhiều năm.
Điều này hỗ trợ các nhà máy thủy điện có thể hoạt động tích cực hơn so với 2023. Dự báo sản lượng thủy điện năm 2024 có thể đạt 84,1 tỷ kwh, tăng 4% so với năm 2023.
Trong năm 2024 kinh tế kỳ vọng kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ hơn 6%-6,5%). Dự báo nhu cầu điện sẽ tiếp tục tăng lên 10%-11%. EVN cập nhật kế hoạch sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu đạt 310,6 tỷ kwh, tăng 10,68% so với thực hiện 2023. Phương án dự phòng là nhu cầu tăng cao hơn đạt 313,4 tỷ kwh tăng 11,4%.
Điện than và khí tiếp tục đóng góp vai trò nền tảng, chi phí sản xuất điện than hợp lý hơn khi giá than ở mức thấp. Điện khí được bổ sung nhà máy NT3 vào cuối năm 2024. Năng lượng tái tạo - điện gió được bổ sung thêm 3.500MW từ các dự án chuyển tiếp, nếu đẩy nhanh tiến độ COD, sản lượng có thể tăng thêm gần tỷ kwh.
Tuy nhiên, khó khăn hiện tại là EVN thua lỗ kéo dài. Lỗ lũy kế đến tháng 6/2024 của EVN là gần 52.016 tỷ đồng. Mặc dù tăng giá điện 2 lần trong năm 2023. EVN vẫn lỗ trước thuế 25,56 nghìn tỷ đồng. Trong nửa đầu năm 2024, lỗ trước thuế đã giảm manh so với cùng kỳ 2023 khi lỗ 8,09 nghìn tỷ so với mức lỗ 27,74 nghìn tỷ cùng kỳ 2023
Vốn chủ sở hữu đến T6/2024 đạt 187,75 nghìn tỷ, giảm 4,3% so với cuối 2023 và chiếm 28,7% tổng nguồn vốn. Lỗ lũy kế đến T6/2024 đạt 52,02 nghìn tỷ đồng. Đây là rủi ro tài chính có thể làmvcác dự án điện bị chậm lại và cũng ảnh hưởng đến các đơn vị phát điện khi EVN là đơn vị mua điện.
"Tài chính khó khăn của EVN có thể gây sức ép tài chính lên các doanh nghiệp", VPbankS nhấn mạnh.
Công ty chứng khoán này cũng đưa ra khuyến nghị cho 4 cổ phiếu tiềm năng. Trong đó, QTP tiềm năng tăng giá 21,7%: Sản lượng điện duy trì mức cao trong khi chi phí sản xuất điện giảm (khấu hao, lãi vay); Lợi suất cổ tức hấp dẫn (8-10%/năm). Nhiệt điện than cạnh tranh tốt với giá thành thấp, được ưu tiên huy động, đặc biệt tại miền Bắc trong bối cảnh nhu cầu điện tăng.
PC1 tiềm năng tăng giá 21,6%: Hồi phục lĩnh vực xây lắp và sản xuất công nghiệp ngành điện từ 2024 trở đi với các dự án lưới truyền tải; Câu chuyện hấp dẫn từ các lĩnh vực khác như Bất động sản khu công nghiệp. Khai thác khoáng sản tiếp tục đóng góp lợi nhuận khả quan.
POW tiềm năng tăng giá 7,6%: Tổ máy S1 nhà máy Vũng Áng 1 hoạt động đủ công suất cả năm đưa sản lượng điện than tăng lên; Nhà máy NT3 đi vào hoạt động từ cuối năm 2024, nhà máy NT4 đi vào hoạt động từ giữa năm 2025. Giá trị bảo hiểm gián đoạn kinh doanh của Nhà máy Vũng Áng là 1.000 tỷ.
Cuối cùng là REE tiềm năng tăng giá 6,2% Thủy điện hy vọng sớm phục hồi khi La Nina quay trở lại từ nửa cuối năm; Cơ hội phát triển với các dự án năng lượng tái tạo khi chính sách phát triển rõ ràng hơn trong 2024. Lĩnh vực bất động sản có thêm dự án Etown 6 đi vào hoạt động từ đầu Quý 2; dự án The Light Square bàn giao và hạch toán doanh thu lợi nhuận trong năm 2024.
Chuyên gia gợi ý 4 cổ phiếu ngành điện đáng đầu tư nhất nửa cuối năm 2024
Nửa cuối năm 2024, ngành điện Việt Nam tiếp tục phát triển nhờ nhu cầu điện tăng cao và các dự án năng lượng tái tạo. Các cổ phiếu triển vọng như POW, PC1, REE và QTP được VPBankS giới thiệu là cơ hội đầu tư hấp dẫn, đặc biệt với các dự án LNG và năng lượng tái tạo đang thúc đẩy tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận.
VPBankS vừa công bố Báo cáo cập nhật ngành điện 6 tháng đầu năm 2024. Báo cáo chỉ ra triển vọng phát triển của ngành điện và cơ hội đầu tư với các cổ phiếu tiềm năng.
Triển vọng ngành điện 6 tháng cuối năm 2024
Nửa cuối năm 2024, ngành điện Việt Nam được dự báo sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ với nhiều yếu tố hỗ trợ tích cực. Nhu cầu điện dự kiến tăng 10-11% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu để phục vụ sự phục hồi và tăng trưởng kinh tế. Chính phủ đã điều chỉnh kế hoạch tổng nhu cầu điện trong năm 2024, nâng lên 310,6 tỷ kWh, tăng 10,68% so với năm 2023
Các dự án năng lượng tái tạo (NLTT) như điện gió và điện mặt trời tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc tăng công suất điện của cả nước. Đến cuối năm 2024, khoảng 3.500 MW từ các dự án năng lượng tái tạo sẽ được bổ sung vào hệ thống, giúp nâng cao năng lực sản xuất và giảm phụ thuộc vào nguồn điện hóa thạch. Đặc biệt, dự án điện khí LNG Nhơn Trạch 3 sẽ đi vào vận hành từ cuối năm, tạo động lực phát triển cho ngành, lần đầu tiên đưa vào vận hành một nhà máy điện khí LNG.
Bên cạnh đó, chính sách hoàn thiện cơ chế giá điện cho các dự án điện khí nhập khẩu LNG và điện năng lượng tái tạo sẽ giúp tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong ngành phát triển. Ngoài ra, việc đầu tư vào hạ tầng truyền tải điện sẽ giúp đáp ứng tốt hơn nhu cầu điện tại các khu vực miền Bắc trong mùa khô và nắng nóng.
Bên cạnh những triển vọng tích cực, ngành điện Việt Nam cũng đối mặt với nhiều thách thức đáng kể trong nửa cuối năm 2024. Một trong những thách thức lớn nhất là tình hình nguồn cung nhiên liệu, đặc biệt là nguồn khí trong nước suy giảm nhanh chóng, gây ra sự gián đoạn trong việc cung cấp khí cho các nhà máy điện khí. Sự biến động giá than trên thị trường quốc tế cũng tạo ra áp lực lớn về chi phí cho các nhà máy nhiệt điện.
Tình hình tài chính của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cũng là một yếu tố đáng lo ngại. Đến tháng 6 năm 2024, EVN đã lỗ lũy kế gần 52.016 tỷ đồng, bất chấp việc đã tăng giá điện 2 lần vào năm 2023. Điều này có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện các dự án đầu tư quan trọng trong ngành điện và gây khó khăn cho các doanh nghiệp phát điện phụ thuộc vào EVN để bán điện.
Thêm vào đó, việc đàm phán giá điện cho các dự án điện khí nhập khẩu LNG và việc triển khai các dự án năng lượng tái tạo vẫn còn chậm trễ. Điều này có thể làm giảm tốc độ phát triển của ngành trong ngắn hạn, đặc biệt khi cần có sự đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng truyền tải và năng lực sản xuất để đáp ứng nhu cầu tăng cao.
4 cổ phiếu tiềm năng
Mặc dù phải đối mặt với nhiều thách thức về nguồn cung và giá nhiên liệu, các doanh nghiệp điện lực vẫn duy trì được sự tăng trưởng ổn định, mở ra cơ hội cho nhà đầu tư. Dưới đây là khuyến nghị dầu tư của VPBankS
Tổng Công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam (POW): Tăng trưởng mạnh mẽ nhờ dự án LNG
POW đã ghi nhận doanh thu 6 tháng đầu năm 2024 đạt 15.650 tỷ đồng, giảm nhẹ 1,3% so với cùng kỳ năm 2023. Mặc dù lợi nhuận trước thuế trong 6 tháng chỉ đạt 729 tỷ đồng, giảm 21,5%, POW vẫn duy trì đà tăng trưởng nhờ các dự án mới.
Dự kiến trong năm 2024, POW sẽ sản xuất 17.255 tỷ kWh điện, tăng 21% so với năm trước. Sự đóng góp lớn từ dự án điện khí LNG Nhơn Trạch 3 và 4, dự kiến đi vào vận hành cuối năm, sẽ giúp POW tăng thêm 1.500 MW công suất và 9.200 triệu kWh sản lượng từ năm 2025-2026. Doanh thu dự báo năm 2024 có thể đạt 33.244 tỷ đồng, tăng 17%, trong khi lợi nhuận có thể đạt 1.650 tỷ đồng, tăng 14% so với năm trước.
Công ty Cổ phần Tập đoàn PC1: Hưởng lợi từ các dự án xây lắp điện
PC1 cũng là một trong những doanh nghiệp đáng chú ý với mức doanh thu 6T/2024 đạt 5.256 tỷ đồng, tăng 77% so với cùng kỳ năm 2023. Lợi nhuận trước thuế của công ty đạt 253 tỷ đồng, tăng 201%, phản ánh sức bật mạnh mẽ của PC1 từ các dự án lưới truyền tải điện và sản xuất công nghiệp.
Trong nửa cuối năm 2024, PC1 dự kiến sẽ tiếp tục ghi nhận tăng trưởng từ các dự án đầu tư vào năng lượng tái tạo và bất động sản công nghiệp. Doanh thu cả năm 2024 được kỳ vọng đạt 9.895 tỷ đồng, tăng 27,3%, với lợi nhuận trước thuế dự kiến đạt 683 tỷ đồng, tăng 75,4%.
Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh (REE): Phát triển mạnh trong lĩnh vực năng lượng tái tạo
REE, một doanh nghiệp có sự hiện diện mạnh trong lĩnh vực điện và bất động sản, đã đạt doanh thu 6T/2024 là 4.019 tỷ đồng, giảm 11,5% so với cùng kỳ năm trước. Lợi nhuận trước thuế của công ty đạt 1.073 tỷ đồng, giảm 42%, do các dự án năng lượng tái tạo bị ảnh hưởng bởi các chính sách chậm trễ.
Tuy nhiên, với La Nina dự kiến quay trở lại từ nửa cuối năm, REE sẽ phục hồi mạnh mẽ nhờ vào sản lượng thủy điện và các dự án năng lượng tái tạo khác. Doanh thu dự kiến năm 2024 có thể đạt 10.140 tỷ đồng, với lợi nhuận trước thuế đạt 1.764 tỷ đồng, tập trung vào mảng năng lượng và bất động sản.
Công ty Cổ phần Nhiệt điện Quảng Ninh (QTP): Lợi nhuận cổ tức hấp dẫn
QTP nổi bật với mức doanh thu 6 tháng đầu năm 2024 đạt 2.310 tỷ đồng, tăng 76,8% so với cùng kỳ năm trước. Lợi nhuận trước thuế đạt 272 tỷ đồng, tăng 24,2%, cho thấy sự ổn định và hiệu quả trong việc duy trì sản lượng điện cao.
Với chi phí sản xuất điện thấp, đặc biệt là nhiệt điện than, QTP đang được hưởng lợi từ việc giá thành sản xuất điện thấp và nhu cầu điện tăng cao. Cổ tức của QTP cũng được dự báo sẽ duy trì ở mức hấp dẫn từ 8-10%/năm, tạo cơ hội đầu tư ổn định và dài hạn cho các nhà đầu tư.
交易股票、貨幣、商品、期貨、債券、基金等金融工具或加密貨幣屬高風險行為,這些風險包括損失您的部分或全部投資金額,所以交易並非適合所有投資者。
做出任何財務決定時,應該進行自己的盡職調查,運用自己的判斷力,並諮詢合格的顧問。本網站的內容並非直接針對您,我們也未考慮您的財務狀況或需求。本網站所含資訊不一定是即時提供的,也不一定是準確的。本站提供的價格可能由造市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他財務決定均應完全由您負責,並且您不得依賴通過網站提供的任何資訊。我們不對網站中的任何資訊提供任何保證,並且對因使用網站中的任何資訊而可能造成的任何交易損失不承擔任何責任。
未經本站書面許可,禁止使用、儲存、複製、展現、修改、傳播或分發本網站所含數據。提供本網站所含數據的供應商及交易所保留其所有知識產權。