行情
新聞
分析
使用者
快訊
財經日曆
學習
數據
- 名稱
- 最新值
- 前值
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
無匹配數據
最新觀點
最新觀點
最近更新
港股投資的風險預警
儘管香港法律體系和監管框架相對健全,但港股市場仍存在一些特定的風險和挑戰,如港幣與美元掛鉤,外地投資者可能會面臨匯率波動;中國內地的政策變化和經濟狀況對港股的影響等 。
投資港股費用架構與稅務
港股市場的交易成本包括總投資成本為買賣股票的交易費用、印花稅、結算費用等,對於外地投資者,可能會涉及兌換港幣所產生匯率轉換費用,以及依照所在地的相關法規需繳納的稅款。
港股產業分析:非必需消費產業
港股市場非必需消費產業涵蓋汽車、教育、旅遊、餐飲、服飾等多個領域,在643家上市公司中35%為中國內地公司,佔總市值的65%,因此受中國經濟影響深遠。
港股產業分析:地產建築業
地產建築業在港股指數中的份額近年來已明顯下降,但截至2022年,它依然在市場上佔有約10%的份額。 包含了房地產開發、建築工程、房地產投資和物業管理等各個方面。
中國·香港
越南·胡志明
杜拜
奈及利亞·拉各斯
埃及·開羅
查看所有搜尋結果
暫無數據
Room ngoại và quyền tự quyết của doanh nghiệp
Để nâng hạng TTCK từ cận biên lên mới nổi nhằm hút dòng vốn ngoại mạnh hơn, cạnh tranh với các nước khác, rào cản lớn nhất nằm ở chính sách phòng thủ mang tên giới hạn room ngoại.
Room ngoại - tức tỷ lệ cổ phần tối đa mà nhà đầu tư nước ngoài được sở hữu trong một công ty đại chúng - vẫn luôn là vấn đề nhạy cảm...
Room ngoại chưa bao giờ hết nóng
Room ngoại vừa là công cụ bảo vệ doanh nghiệp nội, vừa là thước đo mức độ mở của thị trường chứng khoán (TTCK). Do đó, kể từ khi TTCK Việt Nam ra đời đến nay, câu hỏi về room ngoại tại các công ty đại chúng chưa bao giờ hết nóng. Nhà đầu tư ngoại mang tiền đến nhưng cũng từ đó tạo ra nỗi lo doanh nghiệp nội bị thâu tóm, đặc biệt là trong những ngành, nghề nhạy cảm và có liên quan đến an ninh quốc gia. Do đó, Chính phủ muốn mở cửa nhưng không thể mở toang hết.
Thị trường thì kêu gào cần nâng hạng TTCK từ cận biên (Frontier Market) lên mới nổi (Emerging Market) để hút dòng vốn ngoại mạnh hơn, cạnh tranh với các nước khác. Thế nhưng, rào cản lớn nhất lại nằm ở chính sách phòng thủ mang tên giới hạn room ngoại.
Trước năm 2015, nhà đầu tư ngoại chỉ có thể sở hữu tối đa 49% cổ phần trong các công ty đại chúng, kể cả ngành nghề kinh doanh không có điều kiện. Quy định này nhằm bảo vệ doanh nghiệp nội trước làn sóng đầu tư ngoại nhưng cũng khiến thị trường kém hấp dẫn. Đến năm 2015, Nghị định 60/2015/NĐ-CP ra đời như một làn gió mới. Lần đầu tiên, công ty đại chúng được phép mở room ngoại lên 100% nếu không thuộc ngành nghề bị hạn chế. Quan trọng hơn, doanh nghiệp được quyền tự quyết định room ngoại, miễn là không vượt quá mức tối đa luật định. Quyết định này phải được thông qua bởi đại hội đồng cổ đông và ghi nhận vào điều lệ công ty. Điều này trao cho doanh nghiệp sự chủ động chưa từng có trong việc xác định chiến lược về cổ đông.
Lúc đó, thị trường trở nên sôi động hơn hẳn. Các quỹ đầu tư ngoại đã giải ngân tiền vào nhiều mã cổ phiếu lớn. Chỉ số VN-Index tăng trưởng mạnh kèm theo thanh khoản cải thiện.
Thế nhưng, thực tiễn cho thấy độ mở của TTCK Việt Nam đối với nhà đầu tư ngoại chưa đáp ứng được yêu cầu.
Trên thị trường, nhiều công ty đã kín room, nhà đầu tư ngoại muốn mua cũng không được. Một số công ty lại tận dụng quyền tự quyết để đặt room ngoại thấp hơn mức tối đa mà pháp luật quy định. Nghĩa là các công ty này chủ động dựng lên hàng rào để hạn chế sự tiếp cận của nhà đầu tư ngoại. Ví dụ, có ngân hàng thương mại chỉ mở room 5% dù luật cho phép 30%. Điều này khiến dòng vốn ngoại bị chặn lại và phần nào ảnh hưởng đến mục tiêu nâng hạng TTCK.
Công ty đại chúng tự quyết room ngoại: nhiều bất cập
Việc để các công ty đại chúng tự quyết room ngoại thấp hơn luật định từng được kỳ vọng là cách gia tăng quyền tự chủ và đảm bảo tính linh hoạt, phù hợp với chiến lược phát triển đặc thù của từng công ty. Nhưng thực tế, nó lại gây ra không ít vấn đề.
Đầu tiên là thiếu minh bạch. Nhà đầu tư ngoại không biết tại sao công ty A mở room 49%, công ty B chỉ mở 30% mặc dù kinh doanh cùng ngành, nghề. Điều này gây khó khăn cho các quỹ đầu tư lớn khi xây dựng danh mục. Họ cần sự rõ ràng, minh bạch và đồng bộ chứ không phải một thị trường mà “mỗi người một kiểu”.
Thứ hai, quyền tự quyết dễ bị lạm dụng. Một số công ty đặt room thấp không phải vì lợi ích chiến lược mà để bảo vệ lợi ích của một nhóm cổ đông kiểm soát. Điều này đi ngược xu hướng hội nhập, khiến TTCK Việt Nam bị đánh giá là bảo hộ quá mức.
Thứ ba, quyền lợi của nhà đầu tư ngoại không được đảm bảo. Đơn cử như trường hợp xảy ra cách đây không lâu tại một ngân hàng thương mại. Ngân hàng này đã quyết định hạ room ngoại xuống thấp hơn tỷ lệ thực tế mà nhà đầu tư nước ngoài đang sở hữu tại thời điểm đó. Hệ quả là nhà đầu tư nước ngoài bị đặt vào tình thế bị động - phải bán ra cổ phiếu để đảm bảo room ngoại mới và chỉ được bán cho nhà đầu tư trong nước. Từ đây, những bất ổn trong quản trị công ty cũng đã phát sinh. Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý của nhóm cổ đông nước ngoài tại ngân hàng này nói riêng và nhà đầu tư nước ngoài nói chung.
Do vậy, MSCI từng chỉ ra rằng giới hạn sở hữu nước ngoài là rào cản rất lớn đối với Việt Nam trong tiến trình nâng hạng TTCK. Nếu các công ty cứ tự ý đặt room thấp, tiêu chí “khả năng tiếp cận thị trường” để xét nâng hạng sẽ mãi là điểm yếu.
Bỏ quyền tự quyết room ngoại - liệu có ổn?
Giữa năm 2024, ý tưởng/đề xuất siết lại quyền tự quyết room ngoại của công ty đại chúng bắt đầu manh nha, hướng tới việc buộc công ty đại chúng phải mở room ngoại tối đa theo luật, trừ trường hợp đặc biệt. Theo đó, nếu luật cho phép room ngoại 49% thì công ty phải mở room đúng 49% mà không được tự ý giới hạn ở mức thấp hơn như hiện nay. Chỉ trong một số trường hợp đặc thù được Thủ tướng Chính phủ cho phép thì công ty mới được giảm room. Đề xuất này đã được chính thức đưa vào dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 155/2020/NĐ-CP về hướng dẫn chi tiết Luật Chứng khoán.
Đề xuất này phản ánh sự thay đổi tư duy. Thay vì để doanh nghiệp tự do “phòng thủ”, Nhà nước muốn kiểm soát chặt hơn. Điều này không mới. Từ năm 2021, Ủy ban Chứng khoán nhà nước (SSC) đã bàn đến việc bỏ cơ chế tự quyết, sau khi MSCI liên tục phê bình Việt Nam về tiêu chí “khả năng tiếp cận thị trường”. Các chuyên gia cho rằng nếu cứ để công ty tự đặt room thấp, nhà đầu tư ngoại sẽ chán nản, dòng vốn sẽ chảy sang Thái Lan, Indonesia thay vì đổ vào Việt Nam.
Đề xuất bỏ quy định cho phép công ty đại chúng tự quyết room ngoại thấp hơn luật định có cả ưu lẫn nhược.
Về mặt tích cực, nó giúp TTCK mở cửa hơn. Nhà đầu tư ngoại sẽ yên tâm khi biết mọi công ty đại chúng đều tuân theo một chuẩn chung và giảm được rủi ro trước những thay đổi về room ngoại không lường trước của công ty đại chúng. Điều này đặc biệt quan trọng với các quỹ ETF, vốn cần mua cổ phiếu hàng loạt mà không lo bị giới hạn bất ngờ. Nó cũng đẩy nhanh quá trình nâng hạng TTCK, đưa Việt Nam lên bản đồ đầu tư toàn cầu. Dòng vốn ngoại chảy vào mạnh hơn, kinh tế sẽ được hưởng lợi.
Nhưng đề xuất này cũng gây lo ngại. Doanh nghiệp mất quyền tự chủ và công cụ tự vệ. Có ý kiến lo ngại rằng liệu các công ty đại chúng có bị ép mở cửa quá mức? Những ngành nhạy cảm như ngân hàng, bất động sản có chịu nổi áp lực từ nhà đầu tư ngoại không? Yêu cầu phê duyệt từ Thủ tướng trong các trường hợp đặc thù cũng là một vấn đề đáng bàn. Nếu mỗi công ty muốn giảm room đều phải xin phép Thủ tướng thì thủ tục sẽ rườm rà, phát sinh thêm nhiều chi phí tuân thủ. Chưa kể, tiêu chí để xác định “trường hợp đặc thù” vẫn còn bỏ ngỏ.
Quy định sửa đổi này cũng sẽ tác động không nhỏ tới các công ty đại chúng trên sàn. Theo khảo sát của người viết, tại HOSE, hiện có đến 56 công ty đang giới hạn room ngoại ở mức 0%, 39 công ty có tỷ lệ room ngoại từ 4,99% đến dưới 49% (bao gồm các ngân hàng). Phần lớn trong các công ty này là đối tượng phải chịu sự tác động và đối mặt với thách thức không nhỏ về sự thay đổi cơ cấu cổ đông khi bắt buộc phải nâng room ngoại.
Chưa kể, hiện tại nhiều ngân hàng thương mại đang tự giới hạn room ngoại dưới mức 30% (mức theo luật định) để chờ đợi cơ hội chào bán cho cổ đông chiến lược nước ngoài. Riêng tại HOSE, có đến tám ngân hàng thuộc diện này. Do đó, nếu quyền tự quyết room ngoại không còn, kế hoạch về phát triển cổ đông chiến lược có thể bị ảnh hưởng.
Nói tóm lại, đề xuất này là con dao hai lưỡi. Nó tốt cho thị trường chung nhưng cũng có thể gây khó cho từng công ty cụ thể. Vấn đề là làm sao cân bằng được cả hai: quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp và lợi ích chung của thị trường. Do đó, đề xuất này cần được đánh giá tác động một cách toàn diện hơn để đong đếm lợi ích và rủi ro. Ban soạn thảo cần chỉ ra được số lượng công ty đại chúng bị ảnh hưởng bởi quy định này và giải pháp để tránh gây xáo trộn, đặc biệt chú ý đến các công ty trong những ngành, nghề nhạy cảm như ngân hàng.
Việt Nam đang trong giai đoạn quan trọng để nâng hạng TTCK. Chúng ta cần một khung pháp lý rõ ràng, thông thoáng, song vẫn tôn trọng quyền, lợi ích của các bên. Thiết nghĩ pháp luật nên có cơ chế để khuyến khích các công ty, đặc biệt là công ty niêm yết lớn, mở room để đón dòng vốn ngoại.
Thay vì tước quyền tự quyết room ngoại của các công ty, hãy đưa tiêu chí về mở room ngoại thành điều kiện/tiêu chí để xếp hạng về quản trị công ty, xếp hạng tín nhiệm hay tuyển chọn vào các rổ chỉ số. Nếu doanh nghiệp có lý do chính đáng để hạ room, hãy cho họ cơ chế nhưng phải thông qua một quy trình công khai và minh bạch với tiêu chí được quy định rõ ràng.
Đồng thời, việc hạ room ngoại không được thấp hơn mức sở hữu thực tế của các nhà đầu tư nước ngoài tại thời điểm quyết định, trừ trường hợp tình trạng sở hữu thực tế đang trái với quy định pháp luật.
Dữ liệu do VBMA (Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam) tổng hợp từ HNX và SSC, trong tháng 01/2025 (tính đến ngày 31/01), có 4 đợt phát hành trái phiếu ra công chúng với giá trị gần 5.6 ngàn tỷ đồng.
So với cùng kỳ, tháng 1 vừa qua ghi nhận sự gia tăng cả về chất và lượng phát hành, khi chỉ có 2 đợt phát hành trái phiếu riêng lẻ có trị giá 1.65 ngàn tỷ đồng diễn ra trong tháng 1/2024.
Nguồn: VBMA
Về giá trị mua lại, các doanh nghiệp đã mua lại gần 5.7 ngàn tỷ đồng trái phiếu trước hạn, giảm 29% so với cùng kỳ. Trong 11 tháng còn lại của năm 2025, ước tính sẽ có khoảng 203.5 ngàn tỷ đồng trái phiếu đáo hạn. Phần lớn trong đó là trái phiếu bất động sản, giá trị hơn 117 ngàn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 56%.
Về tình hình công bố thông tin bất thường, không có mã trái phiếu nào chậm trả trong tháng 1.
Trên thị trường thứ cấp, tổng giá trị giao dịch TPDN riêng lẻ trong tháng 1/2025 đạt hơn 80 ngàn tỷ đồng, bình quân đạt 4.7 ngàn tỷ đồng/phiên, giảm 21% so với bình quân tháng 12.
Về kế hoạch sắp tới, có hai đợt phát hành đáng chú ý. Đầu tiên là HDBank , khi HĐQT thông qua phương án phát hành trái phiếu ra công chúng trong quý 1 và 2/2025. Tổng giá trị huy động tối đa 10,000 tỷ đồng.
Đây là trái phiếu không chuyển đổi, không kèm chứng quyền, không có TSĐB và mệnh giá 100,000 đồng/trái phiếu. Trái phiếu có kỳ hạn từ 7-8 năm và lãi suất thả nổi.
Tiếp đến là VNDIRECT . HĐQT VND đã thông qua phương án phát hành trái phiếu riêng lẻ, được chia làm 2 đợt trong năm 2025 với tổng giá trị tối đa 2 ngàn tỷ đồng. Đây là trái phiếu “3 không”: không chuyển đổi, không kèm chứng quyền, không có tài sản đảm bảo, mệnh giá 100,000 đồng/trái phiếu. Trái phiếu có kỳ hạn tối đa 3 năm với lãi suất kỳ đầu 8.3%/năm.
Đợt 1, VNDIRECT dự kiến phát hành 3 trái phiếu VNDL2425001, VNDL2426002, VNDL2427003 và đợt tiếp theo cũng với 3 trái phiếu là VNDL2425004, VNDL2426005 và VNDL2427006.
Công ty cho biết số tiền thu về có thể được luân chuyển linh động trong các hoạt động nêu trên. Trong thời gian chưa sử dụng hoặc chưa sử dụng hết vào các hoạt động đó, Công ty có thể chuyển thành tiền gửi để tối ưu hóa hiệu quả sử dụng vốn và nâng cao năng lực tài chính cho các hoạt động kinh doanh của toàn Công ty.
Châu An
FILI - 16:16:26 10/02/2025
Dữ liệu từ Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam (VBMA) tổng hợp từ HNX và SSC, trong tháng 11/2024 có 29 đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ trị giá gần 24.4 ngàn tỷ đồng.
Lũy kế từ đầu năm, có 362 đợt phát hành riêng lẻ trị giá gần 343 ngàn tỷ đồng, cùng 21 đợt phát hành ra công chúng trị giá hơn 32 ngàn tỷ đồng. Như vậy từ đầu năm, giá trị trái phiếu phát hành đã lên tới gần 375 ngàn tỷ đồng.
Nguồn: VBMA
Trong tháng 11, trái phiếu được các doanh nghiệp mua lại trước hạn rơi vào khoảng 6.2 ngàn tỷ đồng, giảm 44% so với cùng kỳ 2023. Trong tháng cuối của năm 2024, ước tính sẽ có hơn 42 ngàn tỷ đồng trái phiếu đáo hạn. Phần lớn trong đó là trái phiếu bất động sản với hơn 14.5 ngàn tỷ đồng, chiếm khoảng 34%. Ngoài ra, có 7 mã trái phiếu chậm trả lãi mới, tổng giá trị hơn 151 tỷ đồng.
Nguồn: VBMA
Trên thị trường thứ cấp, tổng giá trị giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ trong tháng 11 đạt hơn 95 ngàn tỷ đồng, bình quân hơn 4.5 ngàn tỷ đồng/phiên, giảm 14% so với bình quân tháng 10.
Theo VBMA, sắp tới sẽ có 2 đợt phát hành trái phiếu đáng chú ý. Đầu tiên là CTCP Du Lịch Thành Thành Công (TTC Hospitality, HOSE: VNG), khi HĐQT thông qua phương án phát hành trái phiếu riêng lẻ trong quý 4/2024 với tổng giá trị tối đa 500 tỷ đồng.
Thực tế, lô trái phiếu này dường như đã được VNG phát hành thành công vào ngày 25/11/2024 (doanh nghiệp chưa công bố thông tin về việc thông qua phát hành lô trái phiếu nào khác). Đây là trái phiếu không chuyển đổi, không kèm chứng quyền, có tài sản đảm bảo, mệnh giá 100 triệu đồng/trái phiếu, tương đương phát hành 5,000 trái phiếu.
Trái phiếu có kỳ hạn 3 năm và lãi suất 4 kỳ đầu 11%/năm. các kỳ sau đó thả nổi cộng biên độ 5.78%. Lô mới này vẫn do Chứng khoán Kỹ Thương (TCBS) thu xếp và sẽ được Đầu tư Thành Thành Công (TTCI) – đơn vị nắm 30.36% vốn VNG – bảo lãnh thanh toán vô điều kiện và không hủy ngang. Tiền thu về sẽ được dùng để thanh toán phần gốc của lô trái phiếu VNG chào bán ra công chúng hồi đầu năm 2022 với giá trị đúng bằng 500 tỷ đồng, dự kiến đáo hạn vào đầu tháng 1 tới đây của năm 2025.
Ở khoản vay mới nhất, doanh nghiệp đang kinh doanh lưu trú du lịch mang 2 khách sạn ra để thế chấp; bao gồm quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và tất cả quyền tài sản liên quan đến các khách sạn TTC Hotel Premium – Cần Thơ và khách sạn Michelia. Ngoài ra, trái phiếu còn được đảm bảo bằng toàn bộ phần vốn góp vào VNG.
Đơn vị thứ 2 sẽ phát hành trái phiếu trong thời gian tới là CTCP Đầu tư Nam Long thông qua phương án phát hành trái phiếu riêng lẻ trong quý 4 năm 2024 với tổng giá trị tối đa 1 nghìn tỷ đồng. Đây là trái phiếu không chuyển đổi, không kèm chứng quyền, có tài sản đảm bảo với mệnh giá 100 triệu đồng/trái phiếu. Trái phiếu có kỳ hạn 3 năm với lãi suất 4 kỳ đầu là 10.11%/năm.
Tương tự như VNG, dường như Nam Long đã phát hành thành công lô trái phiếu này vào cuối tháng 11, và chưa có công bố về bất kỳ lô trái phiếu nào khác trong quý 4. Doanh nghiệp dự kiến dùng 1,000 tỷ đồng thu được để thanh toán toàn bộ khoản gốc mua lại trước hạn của hai lô trái phiếu NLGH2229001 và NLGH2229002 (mỗi lô 500 tỷ đồng). Được biết, hai lô này đáo hạn vào ngày 28/03/2029.
Châu An
FILI
Trái phiếu doanh nghiệp: thêm gam màu mới, vẫn nỗi lo cũ
Thị trường TPDN riêng lẻ đã, đang và sẽ trở thành một trong các kênh huy động vốn của DN bên cạnh kênh tín dụng ngân hàng, kênh phát hành chứng khoán ra công chúng và các kênh khác.
Cơ cấu phát hành đa dạng hơn, xuất hiện một số lô trái phiếu xanh là những nét vẽ mới, thêm sắc màu cho bức tranh trái phiếu DN (TPDN) đến thời điểm hiện tại.
Tuy nhiên, gánh nặng trái phiếu đến hạn và chất lượng trái phiếu vẫn là những nỗi lo cũ của kênh huy động vốn này.
Cơ cấu phát hành đa dạng hơn, xuất hiện một số lô trái phiếu xanh
Số liệu Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA) tổng hợp từ HNX và SSC cho thấy, tính đến ngày công bố thông tin 22/11, đã có 18 đợt phát hành TPDN trong tháng 11/2024 được ghi nhận với tổng giá trị đạt 13.898 tỷ đồng.
Lũy kế từ đầu năm, tổng giá trị phát hành TPDN được ghi nhận là 364.240 tỷ đồng, với 21 đợt phát hành ra công chúng trị giá 32,114 tỷ đồng (chiếm 8,8% tổng giá trị phát hành) và 350 đợt phát hành riêng lẻ trị giá 332.126 tỷ đồng (chiếm 91,2% tổng số).
Hoạt động sản xuất tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc.
Tháng 11, các DN đã mua lại 3,556 tỷ đồng trái phiếu. Tính từ đầu năm đến nay, tổng giá trị trái phiếu đã được mua lại trước hạn đạt 168,509 tỷ đồng, giảm 16,2% so với cùng kỳ năm 2023. Ngân hàng là nhóm ngành dẫn đầu, chiếm khoảng 72.7% tổng giá trị mua lại trước hạn (tương ứng khoảng 122,498 tỷ đồng).
Trong phần còn lại của năm 2024, tổng giá trị trái phiếu sẽ đến hạn là 50.482 tỷ đồng. 43,1% giá trị trái phiếu sắp đáo hạn thuộc nhóm bất động sản với khoảng 21.737 tỷ đồng, theo sau là nhóm ngân hàng với gần 6.257 tỷ đồng (chiếm 12,4%).
Điểm sáng của bức tranh TPDN từ đầu năm đến nay là cơ cấu phát hành theo ngành nghề có phần đa dạng hơn. Theo dữ liệu từ Fiiin Ratings, xét về cơ cấu theo ngành, nhóm các tổ chức tín dụng vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất về giá trị phát hành.
Tuy nhiên, tỷ trọng này đã giảm đáng kể so với các tháng trước do nhiều nhóm ngành khác đã phát hành những lô trái phiếu có giá trị lớn trong tháng 10, dẫn đến cơ cấu ngành tương đối đa dạng. Một số DN phi ngân hàng phát hành lượng lớn trái phiếu trong tháng 10 có thể kể đến Vinfast (6.000 tỷ đồng), Vinhomes (2.000 tỷ đồng) và Vietjet (2.000 tỷ đồng).
Ngoài ra, thị trường đã và đang chứng kiến một số lô trái phiếu xanh của các tổ chức quốc tế có xếp hạng tín nhiệm cao bao gồm CGIF (quỹ tín thác của ADB) và GuarantCo (đơn vị chuyên về bảo lãnh tín dụng thuộc Tập đoàn PIDG) và được phát hành thành công.
Tính từ đầu năm đến 20/11/2024, đã có 4 lô trái phiếu xanh được phát hành theo nguyên tắc xanh của Hiệp hội Thị trường Vốn quốc tế (ICMA) với tổng giá trị 6,87 tỷ đồng, chiếm khoảng 2% tổng giá trị phát hành trong kỳ. Các lô trái phiếu này đều được các tổ chức độc lập thực hiện đánh giá xác nhận bao gồm bởi FiinRatings về khung trái phiếu xanh.
Tháng 10 vừa qua ghi nhận lô trái phiếu 1.000 tỷ đồng do Công ty CP Đầu tư và Phát triển Đa quốc gia I.D.I phát hành (thuộc lĩnh vực thủy sản) được bảo lãnh thanh toán bởi GuarantCo. Đây cũng là lô trái phiếu xanh đầu tiên được phát hành bởi một DN phi tài chính. Năm 2024, với 4 lô trái phiếu xanh được phát hành, thị trường đang chứng kiến sự sôi động trở lại của trái phiếu xanh, xã hội và bền vững.
Giai đoạn 2016 - 2023, Việt Nam đã phát hành khoảng 1,1 tỷ USD (khoảng gần 27 nghìn tỷ đồng) trái phiếu xanh, xã hội và bền vững. Trái phiếu do tổ chức phi ngân hàng phát hành thuộc nhóm này hiện có số dư khiêm tốn với các đợt phát hành từ EVNFinance (1.725 tỷ đồng), BIDV (2.500 tỷ đồng), Vinpearl (425 triệu USD), và BIM Land (101 triệu USD), chiếm 1,8% tổng giá trị thị trường, thấp hơn đáng kể so với mức 5 - 7% của các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia và Philippines.
“Việt Nam đang trong quá trình xây dựng dự thảo để ban hành khung phân loại trái phiếu xanh và tín dụng xanh. Các giao dịch trái phiếu xanh được phát hành trong thời gian gần đây có phần khởi sắc hơn nhờ vào khung pháp lý cơ bản bước đầu và đặc biệt là sự tự nguyện của các thành viên trên thị trường. Thực tế các giao dịch trái phiếu xanh gần đây cho thấy đã từng bước góp phần nâng cao chất lượng hàng hóa cho thị trường TPDN”- chuyên gia FiinRatings đánh giá.
Nặng gánh trái phiếu đáo hạn
Trong bức tranh TPDN, dù có những nét vẽ mới nhưng vẫn còn nhiều nỗi lo hiện hữu. Đó là giá trị phát hành giảm, chất lượng trái phiếu vẫn còn nhiều vấn đề và giá trị đáo hạn vẫn nặng gánh.
Trong báo cáo vừa công bố, Chứng khoán VPBank ghi nhận tổng giá trị phát hành trái phiếu trong tháng 10 năm nay chỉ đạt hơn 20.000 tỷ đồng, giảm 64% so với tháng trước và 33% so với cùng kỳ năm ngoái.
Chất lượng các DN phát hành trái phiếu cũng có nhiều vấn đề đáng lo ngại. Dữ liệu được VIS Rating đưa ra, từ tháng 3/2023 đến nay, có hơn 200 trái phiếu đã gia hạn ngày đáo hạn, phần lớn kéo dài thêm khoảng 22 tháng, sau khi đạt được thỏa thuận với nhà đầu tư.
Trong 2 tháng cuối của năm 2024, ước tính sẽ có khoảng 65.685 tỷ đồng trái phiếu đáo hạn, trong đó phần lớn là trái phiếu bất động sản với 26,255 tỷ đồng, tương đương 40%. Về tình hình công bố thông tin bất thường, có 1 mã trái phiếu chậm trả gốc và lãi mới với tổng giá trị 2.658 tỷ đồng.
Chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh cho biết, số trái phiếu đáo hạn trong năm 2025 vẫn là một áp lực lớn đối với DN. Trong đó, trái phiếu nhóm DN bất động sản có rủi ro quá hạn và tiềm ẩn nợ xấu hơn hẳn mức trung bình trên thị trường.
Trong khi theo Giám đốc Khối Phân tích và Xếp hạng tín nhiệm, Mảng DN phi tài chính của VIS Rating Dương Đức Hiếu, khả năng trả nợ của các DN bất động sản nhà ở vẫn ở mức yếu và mức độ phân hóa về khả năng trả nợ ngày càng nới rộng.
Phía VIS Rating nhấn mạnh, có tới 2/3 các chủ đầu tư đang niêm yết trên sàn chứng khoán có dòng tiền để trả nợ từ mức yếu đến cực kỳ yếu, cụ thể là dòng tiền hoạt động dưới 5% tổng nợ. Điều này xảy ra đặc biệt nghiêm trọng đối với những chủ đầu tư bị ảnh hưởng bởi các vấn đề pháp lý dự án.
Với tình hình trên, dự báo, 50% số trái phiếu đáo hạn của các chủ đầu tư trong cuối năm 2024 và sang năm 2025 có thể rơi vào nguy cơ chậm trả gốc và lãi, mà phần lớn trong số đó là những DN thường xuyên chậm thanh toán.
Đánh giá về các yếu tố tác động đến thị trường thời gian tới, chuyên gia Fiin Ratings cho biết, yêu cầu phải có tài sản bảo đảm hoặc bảo lãnh thanh toán của tổ chức tín dụng bởi Dự thảo Sửa đổi Luật Chứng khoán để nhà đầu tư cá nhân chuyên nghiệp tham gia thị trường TPDN riêng lẻ có thể ảnh hưởng đến nguồn cung thị trường nếu được thông qua.
Tỷ lệ TPDN có tài sản bảo đảm chỉ khoảng 12% tổng giá trị phát hành trong 10 tháng 2024 và tỷ lệ TPDN được bảo lãnh bởi tổ chức tín dụng chỉ chiếm chưa đến 3%. Trong khi đó, bảo lãnh thanh toán bởi các tổ chức quốc tế chưa được đề cập trong Dự thảo.
Ngoài ra, theo các chuyên gia, một nguyên nhân khiến DN ngại phát hành trái phiếu ra công chúng là thủ tục niêm yết, phát hành trái phiếu ra công chúng hiện nay phức tạp, kéo dài từ 6 tháng tới 1 năm và yêu cầu về công bố thông tin, minh bạch thông tin khắt khe hơn. Do đó, kỳ vọng có sự rút ngắn thời gian về thủ tục hành chính trong phê duyệt hồ sơ phát hành trái phiếu
Số lượng doanh nghiệp niêm yết trên HNX ngày càng giảm, doanh nghiệp hủy niêm yết lại tăng lên
Số lượng doanh nghiệp niêm yết tại HNX có xu hướng giảm từ năm 2020 đến nay. Theo đó, từ 355 doanh nghiệm niêm yết trong năm 2020 giảm xuống chỉ còn 312 doanh nghiệp...
Ngày 8/11, Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) đã tổ chức Hội nghị Doanh nghiệp thường niên 2024 để tổng kết hoạt động niêm yết, đăng ký giao dịch và thúc đẩy việc áp dụng các thông lệ tốt về quản trị công ty. Theo báo cáo tại hội nghị, ông Đỗ Văn Tâm, Phó Tổng Giám đốc HNX, cho biết đến ngày 31/10/2024, thị trường niêm yết tại HNX có 312 mã cổ phiếu, với tổng giá trị niêm yết tinh theo mệnh giá đạt 157 nghìn tỷ đồng, tương đương với giá trị vốn hóa đạt 319 nghìn tỷ đồng, giảm nhẹ so với thời điểm cuối năm 2023. Số lượng doanh nghiệp niêm yết tại HNX có xu hướng giảm từ năm 2020 đến nay. Theo lãnh đạo của HNX, ngoài lý do số lượng doanh nghiệp niêm yết mới ít, cứ khoảng 3-4 doanh nghiệp/năm, thì từ năm 2021, điều kiện niêm yết trên HNX được nâng lên.
Năm 2024,
Các giải pháp và chính sách của Chính phủ và Bộ Tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động thị trường chứng khoán cũng đã được triển khai để thúc đẩy phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng
Phát biểu tại hội nghị, ông Bùi Hoàng Hải, Phó Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (SSC), cho biết theo kết quả đánh giá từ hiệp hội quản trị doanh nghiệp châu Á, mặc dù minh bạch ở thị trường chứng khoán Việt Nam có cải thiện nhưng chưa đáng kể, xếp hạng còn khiêm tốn so với các quốc gia ASEAN, mục tiêu cải thiện chất lượng công bố thông tin đang tạo sức hút cho thị trường.
Về phía cơ quan quản lý, tiếp tục đưa ra nhiều giải pháp đề xuất trong việc cải thiện công bố thông tin. HNX cũng phối hợp với SSC tổ chức các khoa đào tạo cho doanh nghiệp nhằm nâng cao minh bạch quản trị thông tin.
Cũng theo ông Hải, trong tiến trình thực hiện các giải pháp nhằm nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 68/2024/TT-BTC ngày 18/9/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của các Thông tư quy định về giao dịch chứng khoán trên hệ thống giao dịch chứng khoán; bù trừ và thanh toán giao dịch chứng khoán; hoạt động của công ty chứng khoán và công bố thông tin trên thị trường chứng khoán (Thông tư 68). Theo đó, đưa ra lộ trình các doanh nghiệp niêm yết và đăng ký giao dịch để thực hiện công bố thông tin bằng tiếng Anh.
Đây là một bước quan trọng trong việc nâng cao chất lượng công bố thông tin, nâng tầm thị trường chứng khoán Việt Nam và phù hợp với định hướng phát triển thị trường chứng khoán, cũng như mong muốn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Liên quan đến trái phiếu, SSC phạt một loạt công ty
UBCKNN đã ban hành quyết định về việc xử phạt vi phạm hành chính với Công ty cổ phần Đầu tư Nông nghiệp sạch Phú Son (Quảng Nam); Công ty cổ phần Phát triển nhà Phúc Đồng (Hà Nội); Công ty cổ phần Vinam Land (Hà Nội); Công ty cổ phần ABG Hà Nội (Hà Nội); Công ty cổ phần Lisemco (Hải Phòng) và Công ty cổ phần chứng khoán KAFI (Tp.HCM)...
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) đã ban hành quyết định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và
Theo đó, Đầu tư Nông nghiệp sạch Phú Son bị phạt 92,5 triệu đồng) theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 42 Nghị định số 156/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán do không công bố đối với thông tin phải công bố theo quy định pháp luật.
Nguyên nhân là công ty này không
Tương tự, Công ty cổ phần Phát triển nhà Phúc Đồng bị phạt 92,5 triệu đồng do không báo cáo HNX các tài liệu như: Báo cáo tài chính bán niên 2023; Báo cáo tình hình thực hiện các cam kết của doanh nghiệp phát hành đối với người sở hữu trái phiếu bán niên 2023; Tình hình thanh toán gốc, lãi trái phiếu bán niên 2023; Báo cáo tình hình sử dụng số tiền từ phát hành trái phiếu được kiểm toán bán niên 2023; Báo cáo tình hình sử dụng nguồn vốn từ phát hành trái phiếu bán niên 2021; Báo cáo tình hình sử dụng nguồn vốn từ phát hành trái phiếu bán niên 2022; Báo cáo tình hình sử dụng nguồn vốn từ phát hành trái phiếu năm 2021; Báo cáo tình hình sử dụng nguồn vốn từ phát hành trái phiếu năm 2022; Báo cáo tài chính bán niên 2021; Báo cáo tài chính bán niên 2022; Báo cáo tài chính năm 2021; Báo cáo tài chính năm 2022; Tình hình thanh toán lãi gốc trái phiếu bán niên 2021; Tình hình thanh toán lãi gốc trái phiếu bán niên 2022; Tình hình thanh toán lãi, gốc trái phiếu năm 2021; Báo cáo tình hình thực hiện các cam kết của doanh nghiệp phát hành đối với người sở hữu trái phiếu năm 2022; CBTT không đúng thời hạn cho Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội các tài liệu: CBTT về kết quả chào bán trái phiếu PDHCH2124001; CBTT về việc hoàn tất mua lại trái phiếu trước hạn PDHCH2124001 (02 đợt)).
- Công ty cổ phần Vinam Land cũng bị phạt do không Báo cáo tình hình sử dụng số tiền từ phát hành trái phiếu được kiểm toán bán niên 2023; Báo cáo tình hình sử dụng số tiền từ phát hành trái phiếu được kiểm toán năm 2023; Báo cáo tài chính bán niên 2024; Công ty thực hiện nghĩa vụ CBTT không đúng thời hạn đối với tài liệu: Báo cáo tài chính bán niên 2023; Báo cáo tình hình thực hiện các cam kết của doanh nghiệp phát hành đối với người sở hữu trái phiếu bán niên 2023; Báo cáo tình hình thanh toán gốc, lãi trái phiếu bán niên 2023; Việc thay đổi điều kiện, điều khoản trái phiếu (ngày phải CBTT theo quy định: 24/6/2023)) theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 42 Nghị định số 156/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
- Công ty cổ phần ABG Hà Nội (Hà Nội) bị phạt 92,5 triệu đồng do không gửi nội dung công bố thông tin cho Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội các tài liệu như: Báo cáo tình hình sử dụng nguồn vốn từ phát hành trái phiếu năm 2021, Báo cáo tình hình sử dụng nguồn vốn từ phát hành trái phiếu 06 tháng đầu năm 2022, Tình hình thanh toán lãi, gốc trái phiếu năm 2021, Tình hình thanh toán lãi, gốc trái phiếu 06 tháng đầu năm 2022, Báo cáo tài chính năm 2021, Báo cáo tài chính 06 tháng đầu năm 2022, Báo cáo về tình hình sử dụng số tiền thu được từ việc phát hành trái phiếu đối với trái phiếu còn dư nợ được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán đủ điều kiện năm 2022, Báo cáo tình hình thực hiện các cam kết của doanh nghiệp phát hành đối với người sở hữu trái phiếu năm 2022, Báo cáo tài chính năm 2022, Tình hình thanh toán lãi, gốc trái phiếu năm 2022, Báo cáo về tình hình sử dụng số tiền thu được từ việc phát hành trái phiếu đối với trái phiếu còn dư nợ được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán đủ điều kiện 06 tháng năm 2023, Báo cáo tình hình thực hiện các cam kết của doanh nghiệp phát hành đối với người sở hữu trái phiếu 06 tháng năm 2023, Báo cáo tài chính 06 tháng năm 2023, Tình hình thanh toán lãi, gốc trái phiếu 06 tháng năm 2023; gửi nội dung công bố thông tin cho Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội không đúng thời hạn đối với công bố thông tin về kết quả chào bán trái phiếu mã ABGCH2124001 và ABGCH2126002).
Cuối cùng, Công ty cổ phần Lisemco (Hải Phòng) bị phạt 85 triệu đồng do công ty không công bố thông tin trên hệ thống công bố thông tin của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và trang thông tin điện tử của Công ty các tài liệu sau: Báo cáo tình hình quản trị công ty năm 2022, Báo cáo tài chính năm 2022 đã được kiểm toán,
Trước đó, Công ty cổ phần chứng khoán KAFI (Tp.HCM) bị phạt 137,5 triệu đồng theo quy định tại điểm c khoản 4 Điều 26 Nghị định số 156/2020/NĐ-CP.
Được biết, điều 26 Nghị định số 156/2020/NĐ-CP nêu xử phạt đối với vi phạm quy định về hoạt động của công ty chứng khoán, chi nhánh công ty chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam. Trong đó, điểm c khoản 4 quy định phạt tiền từ 100 - 150 triệu đồng đối với hành vi vi phạm quy định về tỷ lệ ký quỹ ban đầu, tỷ lệ ký quỹ duy trì, hạn chế giao dịch ký quỹ, cho khách hàng thực hiện giao dịch ký quỹ, rút tiền vượt quá sức mua hiện có trên tài khoản giao dịch ký quỹ của khách hàng.
7 DN sắp chốt quyền nhận cổ tức bằng tiền đầu tháng 10
Thêm 7 doanh nghiệp trên sàn chứng khoán sẽ thực hiện việc chi trả cổ tức bằng tiền cho cổ đông.
1. CTCP Xây lắp Thành An 96 (Mã
- Ngày đăng ký cuối cùng: 27/9/2024
- Tỷ lệ cổ tức 2023: 12,06% (1.206 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 16/10/2024
2. CTCP Giống cây trồng Miền Nam (Mã
- Ngày đăng ký cuối cùng: 30/9/2024
- Tỷ lệ cổ tức đợt 2/2023: 10% (1.000 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 31/10/2024
3. CTCP Môi trường Sonadezi (Mã
- Ngày đăng ký cuối cùng: 1/10/2024
- Tỷ lệ cổ tức 2023: 8% (800 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 15/10/2024
4. CTCP Đầu tư Xây dựng lắp máy IDICO (Mã LMI):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 2/10/2024
- Tỷ lệ cổ tức 2023: 08% (800 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 18/10/2024.
5. Tổng CTCP Sản xuất - Xuất nhập khẩu Bình Dương (Mã PRT):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 3/10/2024
- Tỷ lệ cổ tức 2023: 3% (300 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 28/10/2024
6. CTCP Bao bì Tân Khánh An (Mã
- Ngày đăng ký cuối cùng: 10/10/2024
- Tỷ lệ cổ tức 2023: 8% (800 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 24/10/2024
7. CTCP Nam Việt (Mã
- Ngày đăng ký cuối cùng: 14/10/2024
- Tỷ lệ cổ tức 2023: 5% (500 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 27/12/2024
交易股票、貨幣、商品、期貨、債券、基金等金融工具或加密貨幣屬高風險行為,這些風險包括損失您的部分或全部投資金額,所以交易並非適合所有投資者。
做出任何財務決定時,應該進行自己的盡職調查,運用自己的判斷力,並諮詢合格的顧問。本網站的內容並非直接針對您,我們也未考慮您的財務狀況或需求。本網站所含資訊不一定是即時提供的,也不一定是準確的。本站提供的價格可能由造市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他財務決定均應完全由您負責,並且您不得依賴通過網站提供的任何資訊。我們不對網站中的任何資訊提供任何保證,並且對因使用網站中的任何資訊而可能造成的任何交易損失不承擔任何責任。
未經本站書面許可,禁止使用、儲存、複製、展現、修改、傳播或分發本網站所含數據。提供本網站所含數據的供應商及交易所保留其所有知識產權。