行情
新聞
分析
使用者
快訊
財經日曆
學習
數據
- 名稱
- 最新值
- 前值
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
公:--
預: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
無匹配數據
最新觀點
最新觀點
最近更新
港股投資的風險預警
儘管香港法律體系和監管框架相對健全,但港股市場仍存在一些特定的風險和挑戰,如港幣與美元掛鉤,外地投資者可能會面臨匯率波動;中國內地的政策變化和經濟狀況對港股的影響等 。
投資港股費用架構與稅務
港股市場的交易成本包括總投資成本為買賣股票的交易費用、印花稅、結算費用等,對於外地投資者,可能會涉及兌換港幣所產生匯率轉換費用,以及依照所在地的相關法規需繳納的稅款。
港股產業分析:非必需消費產業
港股市場非必需消費產業涵蓋汽車、教育、旅遊、餐飲、服飾等多個領域,在643家上市公司中35%為中國內地公司,佔總市值的65%,因此受中國經濟影響深遠。
港股產業分析:地產建築業
地產建築業在港股指數中的份額近年來已明顯下降,但截至2022年,它依然在市場上佔有約10%的份額。 包含了房地產開發、建築工程、房地產投資和物業管理等各個方面。
中國·香港
越南·胡志明
杜拜
奈及利亞·拉各斯
埃及·開羅
查看所有搜尋結果
暫無數據
Sóng tăng lãi suất tiết kiệm lan rộng cuối năm
Lãi suất gửi tiết kiệm gia tăng tại các ngân hàng thương mại.
Từ đầu tháng 12, các ngân hàng vẫn tiếp tục nối dài đà tăng lãi suất tiền gửi tiết kiệm. Đã có nhiều ngân hàng chấp nhận chi trả mức lãi suất trên 6%/năm ở các kỳ hạn dài.
Ngân hàng TMCP Thịnh vượng và Phát triển - PGBank (UPCoM: PGB) - mới đây đã có thông báo về việc tăng lãi suất huy động tiền gửi của khách hàng cá nhân, áp dụng với hầu hết kỳ hạn 1-36 tháng.
Mức tăng phổ biến ngân hàng này áp dụng là 0,3 điểm % so với lãi suất trong tháng 11.
Nối dài chuỗi tăng lãi suất
Sau điều chỉnh, lãi suất tiền gửi online tại PGBank đã tăng lên 3,7-4,25%/năm với kỳ hạn 1-5 tháng; 5,5%/năm với kỳ hạn 6 tháng; 6,25%/năm với kỳ hạn 12 tháng và 6,35%/năm cho kỳ hạn 13-36 tháng.
Với hình thức gửi tiền tại quầy, lãi suất huy động PGBank đang áp dụng thấp hơn gửi online gần 1 điểm %.
Đáng chú ý, mức lãi 6,35%/năm mà ngân hàng này áp dụng với tiền gửi kỳ hạn 13-36 tháng cũng nằm trong nhóm cao nhất thị trường hiện nay.
Không riêng PGBank, từ đầu tháng 12, đã có thêm 2 nhà băng tư nhân khác thông báo tăng lãi suất tiền gửi là TPBank và ABBank.
Trong đó, TPBank tăng 0,2 điểm % lãi suất tiền gửi online với kỳ hạn 1-3 tháng và tăng 0,1 điểm % với các kỳ hạn 6 tháng trở lên. Sau điều chỉnh lãi suất tiền gửi tại ngân hàng này ở mức 3,7-4%/năm với kỳ hạn 1-3 tháng; 4,8%/năm - 5,3%/năm - 5,5%/năm với các kỳ hạn 6 - 12 - 18 tháng.
Ở kỳ hạn gửi trên 24 tháng, mức lãi suất TPBank áp dụng hiện ở 5,8%/năm, cũng là mức lãi cao nhất nhà băng này chấp nhận chi trả cho khách hàng cá nhân.
Với ABBank, ngân hàng đã tăng 0,1 điểm % đối với các khoản tiền gửi online kỳ hạn 3 và 12 tháng. Sau điều chỉnh ở mức 4,2%/năm (3 tháng) và 5,8%/năm (12 tháng).
Tuy nhiên, ngân hàng này đã giảm lãi suất ở một số kỳ hạn dài 15-24 tháng xuống mức 5,7%/năm.
Trước đó, trong tháng 11, thị trường cũng đã ghi nhận hàng chục đợt tăng lãi suất tiền gửi tiết kiệm của các ngân hàng thương mại, mức tăng phổ biến vào khoảng 0,3-0,5 điểm %.
Hiện lãi suất tiền gửi tiết kiệm tốt nhất thị trường thuộc về nhóm ngân hàng thương mại vừa và nhỏ.
Ở kỳ hạn ngắn 1-5 tháng, các ngân hàng có lãi suất tốt nhất hiện nay là GPBank, NamABank, NCB, CBBank, Eximbank... đều trên 4%/năm.
Ở kỳ hạn 6 tháng, mức lãi suất tốt người dân có thể nhận được vào khoảng 5,55-5,65%/năm khi gửi tiền tại CBBank, ABBank, DongABank, NCB.
Còn với kỳ hạn 12 tháng trở lại, nhiều ngân hàng đã chấp nhận trả mức lãi trên 6%/năm như BVBank, GPBank, DongABank, HDBank, OceanBank...
Trong khi các ngân hàng tư nhân tăng lãi suất, mặt bằng lãi suất tiền gửi tại nhóm ngân hàng quốc doanh (Vietcombank, VietinBank, BIDV, Agribank) gần như đi ngang nhiều tháng qua, thậm chí ở một số kỳ hạn còn ghi nhận giảm so với nửa đầu năm.
Hiện lãi suất tiền gửi kỳ hạn 1-3 tháng tại Vietcombank chỉ vào khoảng 1,6-1,9%/năm, thấp nhất thị trường, trong khi Agribank, BIDV, VietinBank cũng chỉ niêm yết ở mức 2-2,9%/năm.
Với kỳ hạn 12 tháng, Vietcombank hiện chấp nhận chi trả mức lãi 4,6%/năm; VietinBank, BIDV cùng trả mức 4,7%/năm; còn Agribank trả 4,8%/năm.
Đua tặng quà hút tiền gửi cuối năm
Không chỉ tăng lãi suất, nhiều nhà băng còn tung chương trình ưu đãi hút tiền gửi của khách hàng nhân dịp cuối năm.
OceanBank đã thông báo chạy chương trình ưu đãi tiền gửi Xuân Ất Tỵ 2025 với ưu đãi lãi suất 4,3-4,6%/năm khi gửi 1-3 tháng; 5,5-5,8%/năm khi gửi 6-12 tháng. Bên cạnh đó, khách gửi tiền 6 tháng còn được tham gia chương trình bốc thăm trúng ôtô, điện thoại…
BVBank cho biết sẽ cộng thêm 0,6 điểm % lãi suất với khách hàng cá nhân mở sổ tiết kiệm dịp cuối năm tại các kỳ hạn 1-6 tháng, giá trị từ 10 triệu đồng. Với chương trình này, lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 6 tháng mà khách hàng được hưởng sẽ nâng lên mức 5,8%/năm, thuộc nhóm cao nhất thị trường.
SHB đang triển khai chương trình ưu đãi áp dụng đến hết 31/12, khách hàng khi mở mới sổ tiết kiệm tại quầy với giá trị tối thiểu 31 triệu đồng, sẽ nhận được quà tiền mặt hoặc hiện vật. Khách hàng cũng sẽ nhận được mã số dự thưởng để tham gia quay số cuối kỳ với giải nhất là 1 sổ tiết kiệm trị giá 310 triệu đồng.
Ngân hàng số Cake by VPBank cũng có chương trình khuyến mại cho người gửi tiết kiệm dịp cuối năm với quà là hiện vật hoặc tiền mặt. Chính sách này áp dụng cho khách hàng gửi tiền 6 tháng trở lên và không tất toán trước hạn. Ngoài ra, người có số lượng sổ tiết kiệm hàng tuần nhiều nhất còn được tặng giải nhất là 3 triệu đồng tiền mặt.
Trong bối cảnh lãi suất huy động có xu hướng gia tăng dịp cuối năm, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có công văn yêu cầu các tổ chức tín dụng duy trì mặt bằng lãi suất tiền gửi ổn định, hợp lý, phù hợp với khả năng cân đối vốn, khả năng mở rộng tín dụng lành mạnh và năng lực quản lý rủi ro, góp phần ổn định thị trường tiền tệ và mặt bằng lãi suất thị trường.
Các ngân hàng được yêu cầu thực hiện các giải pháp đơn giản hóa thủ tục cho vay, phấn đấu giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ doanh nghiệp, người dân thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng.
Ngoài ra, các ngân hàng cũng phải chủ động công bố lãi suất cho vay bình quân, chênh lệch lãi suất tiền gửi - cho vay bình quân, lãi suất cho vay các chương trình tín dụng...
Lãi suất ngân hàng: Có tạo nên "bước nhảy" cuối năm 2024?
Lãi suất cuối năm sẽ tăng trưởng ổn định hay chịu áp lực từ tỷ giá?
Lãi suất ngân hàng cuối năm 2024 dự báo tăng nhẹ, tạo cơ hội cho người gửi tiền nhưng cũng phản ánh áp lực từ tỷ giá và nhu cầu vốn tăng cao.
Tăng trưởng ổn định hay chịu áp lực từ tỷ giá?
Theo ghi nhận, TS. Nguyễn Trí Hiếu nhấn mạnh rằng áp lực từ tỷ giá USD/VND là yếu tố quan trọng định hình chính sách lãi suất.
Với tỷ giá USD/VND đang có xu hướng tăng (tự do đạt 25.580 đồng/USD vào cuối năm 2024), dòng vốn đầu tư dịch chuyển sang các thị trường có lãi suất USD cao sẽ đẩy áp lực lên hệ thống ngân hàng trong nước.
Như vậy, để duy trì sức hấp dẫn của VND, NHNN có thể phải nâng lãi suất huy động nhằm cạnh tranh với đồng USD.
Trong khi đó, PGS. TS Đinh Trọng Thịnh và các phân tích từ công ty VDSC đều dự báo lãi suất tiết kiệm sẽ tăng nhẹ vào cuối năm. Lý do là nhu cầu vốn tăng khi nền kinh tế phục hồi mạnh mẽ trong giai đoạn cuối năm. Các ngân hàng thương mại có thể điều chỉnh lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng, tăng khoảng 20-50 điểm cơ bản, dao động từ 5,1% đến 5,2%.
Tháng 11, đã có 14 ngân hàng điều chỉnh tăng lãi suất huy động, bao gồm Eximbank, BaoViet Bank, HDBank, GPBank, LPBank, Nam A Bank, IVB, Viet A Bank, VIB, MB, Agribank, Techcombank, ABBank và VietBank.
Gửi tiền ở đâu lãi suất hời nhất lúc này?
Kỳ hạn 1 tháng
Lãi suất tiền gửi kỳ hạn 1 tháng hiện cao nhất là 4,25%/năm cho hình thức gửi trực tuyến tại các ngân hàng như SCB, OceanBank và HDBank. Mức lãi suất này khá hấp dẫn, giúp khách hàng có thể sinh lời trong thời gian ngắn mà không phải cam kết lâu dài.
Kỳ hạn 3 tháng
Lãi suất cho kỳ hạn 3 tháng dao động từ 4,3% đến 4,7%/năm. Nam A Bank và Eximbank cung cấp mức lãi suất cao nhất, với Nam A Bank áp dụng cho hình thức gửi online. Các ngân hàng khác như OceanBank cũng có mức lãi suất khá cạnh tranh.
Kỳ hạn 6 tháng
Lãi suất kỳ hạn 6 tháng hiện cao nhất là 5,55%/năm, áp dụng cho các ngân hàng như CBBank và ABBank khi gửi online. Tại quầy, mức lãi suất dao động từ 5,4% đến 5,5%, vẫn giữ được mức hấp dẫn cho khách hàng gửi tiền trung hạn.
Kỳ hạn 12 tháng
Đối với kỳ hạn 12 tháng, mức lãi suất cao nhất là 5,9%/năm tại ABBank và BVBank (gửi online). Lãi suất tại quầy dao động từ 5,85% đến 5,9%, phù hợp cho những ai muốn tiết kiệm lâu dài nhưng vẫn có mức lãi suất ổn định.
Kỳ hạn 18-24 tháng
Kỳ hạn dài 18-24 tháng có lãi suất từ 6,1% đến 6,35%/năm, với các ngân hàng như Bac A Bank, HDBank và OceanBank cung cấp mức cao nhất khi gửi trực tuyến.
Thị trường chứng khoán tuần qua: Dù biến động mạnh nhưng Vn-Index vẫn có tuần tăng điểm
Ở nhóm tài chính, sắc xanh được duy trì ở các cổ phiếu VCB (+0,11%), BID (+0,77%), TCB (+1,29%), ACB (+0,4%), NAB (+1,29%), ABB (+1,37%)… Trong khi đó, phe bán vẫn chi phối ở các mã STB (-1,21%), VPB (-0,78%), TPB (-0,92%), SSI (-1,02%), HCM (-1,25%), VND (-1,44%)…
Thị trường chứng khoán trong nước trải qua một tuần (18 - 22/11) biến động mạnh. Chỉ số VN-Index giảm khá mạnh đầu tuần, VN-Index một lần nữa phải quay trở lại cột mốc lịch sử 1.200 điểm. Nhưng cũng từ đây, lực cầu bắt đáy nhập cuộc tốt giúp chỉ số phục hồi khá nhanh chóng, bất chấp đà bán ròng mạnh mẽ của khối ngoại vẫn chưa dừng lại.
VN-Index hồi phục tốt ở vùng hỗ trợ mạnh 1.200 điểm
VN-Index trong tuần này đã phục hồi tốt ở vùng hỗ trợ mạnh quanh 1.200 điểm. Đây là vùng hỗ trợ mạnh tâm lý, cũng như đường xu hướng nối các vùng giá thấp từ tháng 4 đến tháng 8/2024, đường xu hướng tăng trưởng từ 2020 đến nay. Kết tuần, VN-Index tăng 0,78% lên mức 1.228,10 điểm. Sau những phiên giảm mạnh trước đó, lực cầu bắt đáy xuất hiện, giúp VN-Index hồi phục gần 1/3 số điểm đã mất trong tuần trước.
Độ mở thị trường lấy lại sắc xanh trong tuần với 14/21 ngành tăng điểm. Dẫn dắt đà hồi phục của thị trường và bật tăng mạnh trong tuần vừa rồi là các nhóm ngành như: phân bón (+4,39%), dược phẩm (+2,07%), hàng không (+1,93%)... Ở chiều ngược lại, áp lực điều chỉnh vẫn phủ bóng lên một số nhóm ngành như: hàng tiêu dùng (-3,49%), hóa chất (-2,94%), bất động sản khu công nghiệp (-2,15%)...
Nhóm cổ phiếu ngân hàng nổi bật với vai trò là động lực chính giúp nâng đỡ chỉ số. Nhiều mã trong nhóm này đã ghi nhận mức tăng ấn tượng, cho thấy sự quan tâm mạnh mẽ từ các nhà đầu tư, đặc biệt khi mặt bằng giá đã trở nên hấp dẫn hơn. Các nhóm ngành khác như chứng khoán, bất động sản cũng bắt đầu có dấu hiệu thu hút dòng tiền.
Hầu hết các nhóm ngành đều tăng điểm nhưng cổ phiếu trong mỗi nhóm phân hóa khá mạnh. Nhóm viễn thông dẫn đầu thị trường với mức tăng hơn 2%, chủ yếu nhờ vào cổ phiếu vốn hóa lớn nhất ngành là VGI (+2.85%). Các cổ phiếu còn lại chỉ tăng giảm đan xen quanh mốc tham chiếu.
Trên sàn Hà Nội, hai chỉ số chính cũng có một tuần tăng điểm. Theo đó, chỉ số HNX-Index có diễn biến tích cực hơn khi kết tuần tại 221,29 điểm, tương ứng mức tăng +0,11% so với tuần trước. Chỉ số UPCoM-Index tăng +0,42% để đóng cửa tại 91,7 điểm.
Thanh khoản thị trường giảm -15,2% so với mức bình quân 20 tuần giao dịch. Lũy kế đến cuối tuần giao dịch, thanh khoản giao dịch bình quân trên sàn HOSE đạt 549 triệu cổ phiếu (-13,9%), tương đương 14.293 tỷ đồng (-14,80%) về giá trị giao dịch.
Khối ngoại bán ròng mạnh trên HOSE với giá trị -5.198,73 tỷ đồng trong tuần này. Tuy nhiên, quy mô bán ròng giảm dần và mua ròng trở lại trong phiên cuối tuần. Trong đó, tập trung bán ròng nhiều ở nhóm cổ phiếu vốn hóa lớn như VHM (-1.509 tỷ đồng), SSI (-719 tỷ đồng), HPG (-542 tỷ đồng)… Ở chiều mua ròng, khối ngoại nâng tỷ trọng ở một số mã như: CTG (+267 tỷ đồng), HDG (+246 tỷ đồng), TCB (+166 tỷ đồng)…
Thị trường dự báo sẽ phân hóa mạnh
Các chuyên gia phân tích của Công ty cổ phần Chứng khoán BETA cho rằng, thị trường có thể tiếp tục dao động trong trạng thái thăm dò với biên độ hẹp, đặc biệt khi dòng tiền chưa thực sự quay lại một cách ổn định. Nhà đầu tư cần duy trì chiến lược quản trị rủi ro chặt chẽ, tránh gia tăng tỷ trọng danh mục vào các cổ phiếu mang tính đầu cơ cao. Thay vào đó, nên ưu tiên các cổ phiếu thuộc nhóm ngành có nền tảng cơ bản tốt, dòng tiền ổn định và tiềm năng tăng trưởng dài hạn.
Ngoài ra, việc theo dõi sát dòng tiền từ khối ngoại cũng là yếu tố quan trọng, bởi đây có thể là nguồn lực thúc đẩy đáng kể cho thị trường trong thời gian tới. Nếu động thái mua ròng vào cuối tuần được duy trì, ta có thể kỳ vọng thị trường sẽ tiếp tục đà phục hồi tích cực.
Còn theo Công ty Chứng khoán kiến thiết Việt Nam (CSI), VN-Index vẫn chưa có tín hiệu xác nhận đáy, nên cần thêm thời gian cũng như nhiều tín hiệu tích cực hơn nữa. CSI kỳ vọng VN-Index sẽ biến động trong kênh đi ngang vùng 1.210 - 1.240 điểm trong tuần tới.
Vì vậy, nhà đầu tư cần duy trì sự thận trọng, chỉ tăng thêm tỷ trọng ở những mã cổ phiếu đã có lợi nhuận khi VN-Index test lại vùng hỗ trợ 1.210 điểm và căn bán chốt lời một phần danh mục khi VN-Index tiến tới ngưỡng kháng cự 1.240 điểm.
Thị trường chứng khoán tuần qua: Dù biến động mạnh nhưng Vn-Index vẫn có tuần tăng điểm.
Chuyên gia SHS cho rằng, thị trường đã có 1 năm biến động trong biên độ hẹp, dưới áp lực bán ròng đột biến của khối ngoại, áp lực tỉ giá, áp lực dòng tiền của nhóm cổ phiếu chiếm tỷ trọng lớn là bất động sản... VN-Index cũng nhiều lần kiểm tra lại vùng hỗ trợ mạnh quanh 1.200 điểm, tương ứng vùng vốn hóa toàn thị trường khoảng 62% GDP 2024. Đây là vùng vốn hóa tương đối hấp dẫn của thị trường so với quy mô nền kinh tế khi tăng trưởng GDP năm 2025 kế hoạch tăng 6,5-7%.
Với những diễn biến hiện tại, cho thấy chất lượng nội tại trung hạn của thị trường đang cải thiện dần sau thời gian dài tích lũy với nhiều mã, nhóm mã đang ở vùng giá tương đối hấp dẫn, mở ra nhiều cơ hội tốt.
Các chuyên gia của SHS cũng cho rằng, thị trường sẽ phân hóa mạnh. Ngoại trừ các yếu tố bất định mới VN-Index kỳ vọng tạo đáy ở vùng giá 1.200 điểm tương ứng vùng giá cao nhất năm 2018, cũng như hỗ trợ các đường xu hướng tăng trưởng trung dài hạn. Nhà đầu tư nên duy trì tỷ trọng hợp lý, tỷ trọng dưới mức trung bình, quản trị rủi ro tốt và nên xem xét giải ngân các mã cơ bản tốt.
Nhóm phân tích Công ty Chứng khoán Vietcombank (VCBS) nhận định, VN-Index đã phục hồi từ mốc hỗ trợ 1.200 điểm sau hơn hai tuần điều chỉnh. Lực cầu bắt đáy tăng lên, đặc biệt là từ các cổ phiếu vốn hóa lớn, trong đó có nhiều mã cổ phiếu ngân hàng. Tuy nhiên, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn bán ròng mạnh ở một số phiên và ảnh hưởng đến diễn biến chung.
Về phân tích kỹ thuật, báo cáo từ VCBS nhận thấy áp lực chốt lời ngắn hạn trên thị trường sẽ gia tăng. Các chỉ báo đang cho thấy khả năng thị trường sẽ tiếp tục rung lắc trong quá trình hồi phục. Hiện, VN-Index đang tiến gần đường trung binh 20 ngày với mức kháng cự ngắn hạn 1.240 điểm.
'Sóng' tăng lãi suất tiền gửi tiết kiệm trở lại
Nhiều ngân hàng mạnh tay tăng lãi suất huy động để thu hút vốn mới.
Từ đầu tháng 11 đến nay, thị trường đã ghi nhận 13 ngân hàng thương mại thông báo tăng lãi suất gửi tiết kiệm, mức tăng cao nhất lên tới 0,7 điểm %.
Sau tháng 9 và tháng 10 có phần chững lại, lãi suất tiền gửi tiết kiệm ngân hàng đang rục rịch tăng trở lại kể từ đầu tháng 11. Trong khoảng 3 tuần đầu tháng này, một loạt ngân hàng thương mại đã trở lại "cuộc đua" tăng lãi suất huy động ở nhiều kỳ hạn. Mức tăng cao nhất ghi nhận được lên tới 0,7 điểm %.
Cụ thể, NamABank vừa thông báo tăng 0,7 điểm % lãi suất đối với tiền gửi tiết kiệm của khách hàng cá nhân trên kênh online. Sau điều chỉnh, lãi suất tiền gửi kỳ hạn 1-3 tháng của nhà băng này đã tăng lên mức 4,5-4,75%/năm; lãi suất gửi 6 tháng tăng lên 5%/năm; 12 tháng tăng lên 5,6%/năm và lãi suất gửi trên 12 tháng dao động 5,7-5,9%/năm.
Với trường hợp khách hàng chọn gửi tiết kiệm tại quầy, nhà băng này hiện chấp nhận chi trả mức lãi suất thấp hơn 0,1 điểm % so với kênh online.
Cũng trong dịp này, ABBank đã điều chỉnh tăng lãi suất tiền gửi tiết kiệm trên kênh online, áp dụng với các khoản tiền gửi có kỳ hạn 3-5 tháng. Trong đó, kỳ hạn gửi 3 tháng tăng 0,2 điểm % lên 4,1%/năm; kỳ hạn gửi 5 tháng tăng 0,7 điểm % lên 4,3%/năm. Các kỳ hạn gửi tiết kiệm 6 tháng trở lên được ngân hàng giữ nguyên ở vùng 5,5-5,7%/năm.
Với kênh quầy, ABBank đang trả lãi suất tiết kiệm thấp hơn gửi online 0,3-0,9 điểm %, tùy kỳ hạn.
VietABank cũng đã công bố biểu lãi suất huy động tiền gửi mới áp dụng trong tháng 11 với xu hướng tăng mạnh lãi suất trên kênh online.
Trong đó, lãi suất tiền gửi kỳ hạn 9-11 tháng được nhà băng này tăng mạnh nhất lên tới 0,6 điểm %, hiện đạt 5,4%/năm. Các kỳ hạn còn lại phổ biến tăng 0,3-0,4 điểm %, lần lượt niêm yết ở mức 3,7-4%/năm với kỳ hạn 1-3 tháng; 5,2%/năm với kỳ hạn 6-8 tháng; 5,7%/năm với kỳ hạn 12-13 tháng và gửi 36 tháng nhận lãi suất 6%/năm.
Không chỉ nhóm ngân hàng thương mại tư nhân quy mô nhỏ ghi nhận tăng lãi suất tiền gửi đợt này, một loạt ngân hàng lớn như HDBank, VIB, Techcombank, MB... cũng đã tăng lãi suất huy động khách hàng cá nhân trong tháng 11, phổ biến tăng khoảng 0,1-0,3 điểm %.
Hiện ở kỳ hạn 6 tháng, DongABank, NCB, ABBank, CBBank, BacABank, OceanBank là những ngân hàng chấp nhận chi trả mức lãi suất tốt nhất thị trường, dao động khoảng 5,4-5,55%/năm, áp dụng với kênh online.
Còn ở kỳ hạn 12 tháng trên kênh online, những ngân hàng niêm yết lãi suất tốt nhất hiện này là GPBank, Baoviet Bank, BVBank, VietABank, SaigonBank... dao động trong khoảng 5,7-5,95%/năm. Đây cũng là mức lãi suất tiền gửi tốt nhất thị trường hiện nay.
Trường hợp gửi kỳ hạn dài trên 12 tháng, khách hàng cá nhân có thể lựa chọn một số ngân hàng thương mại tư nhân để hướng lãi suất trên 6%/năm như HDBank, SaigonBank, BVBank, GPBank, BacABank, OceanBank, DongABank.
Trong khi đó, nhóm 4 ngân hàng thương mại Nhà nước gồm Vietcombank, VietinBank, BIDV và Agribank hiện vẫn niêm yết biểu lãi suất huy động thấp nhất thị trường. Với các khoản tiền gửi 1-5 tháng, lãi suất khách hàng cá nhân nhận được từ nhóm nhà băng này hiện chỉ đạt 1,6-1,9%/năm (Vietcombank); 1,7-2%/năm (VietinBank, BIDV) và 2,2-2,5%/năm (Agribank).
Với khoản tiền gửi kỳ hạn 12 tháng trở lên, hiện Vietcombank chỉ chấp nhận chi trả mức 4,6-4,7%/năm; VietinBank và Agribank cùng trả mức 4,7-4,8%/năm và riêng BIDV niêm yết cùng ở mức 4,7%/năm.
Dự báo về lãi suất trong tháng cuối năm, CTCP Chứng khoán MB (MBS) cho rằng xu hướng tăng lãi suất sẽ được các nhà băng duy trì, chủ yếu do bối cảnh tăng trưởng tín dụng tăng nhanh dịp cuối năm.
Thống kê từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy tăng trưởng tín dụng tính đến ngày 31/10 đã đạt hơn 10% so với cuối năm ngoái. Điều này là yếu tố thúc đẩy các ngân hàng tiếp tục tăng lãi suất tiền gửi nhằm thu hút vốn mới, qua đó giúp đảm bảo thanh khoản.
VN-Index khép lại tuần giao dịch với phiên giảm điểm nhẹ. Tuy nhiên, điều này cũng không ảnh hưởng nhiều đến sự phục hồi tích cực của chỉ số trong tuần qua. Trong thời gian tới, khối lượng giao dịch cần vượt trên mức trung bình 20 ngày kèm theo việc khối ngoại mua ròng trở lại sẽ là yếu tố gia tăng kỳ vọng tăng trưởng cho VN-Index.
I. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TUẦN 18-22/11/2024
Giao dịch: Các chỉ số chính giảm nhẹ trong phiên giao dịch cuối tuần. Kết phiên ngày 22/11, VN-Index giảm 0.02%, về còn 1,228.1 điểm; HNX-Index giảm 0.21%, dừng ở mức 221.29 điểm. Xét cho cả tuần, VN-Index tăng tổng cộng 9.53 điểm (+0.78%), trong khi đó HNX-Index giảm 0.24 điểm (-0.11%).
Thị trường chứng khoán Việt Nam trải qua tuần giao dịch đầy biến động. Bắt đầu với diễn biến lao dốc mạnh vào đầu tuần, VN-Index một lần nữa phải quay trở lại cột mốc lịch sử 1,200 điểm. Nhưng cũng từ đây, lực cầu bắt đáy nhập cuộc tốt giúp chỉ số phục hồi khá nhanh chóng, bất chấp đà bán ròng mạnh mẽ của khối ngoại vẫn chưa dừng lại. Dù vậy, nhà đầu tư vẫn chưa thể lạc quan trước những diễn biến khó lường hiện tại, tâm lý thận trọng bao trùm khiến thanh khoản thị trường tiếp tục dưới mức trung bình 20 tuần. Kết phiên 22/11, VN-Index đóng cửa tuần ở mức 1,228 điểm.
Xét về mức độ ảnh hưởng, 10 cổ phiếu đóng góp tích cực nhất giúp VN-Index tăng hơn 3 điểm trong phiên cuối tuần, trong đó GAS, TCB, HVN và BID góp gần 2 điểm. Ở phía ngược lại, VHM là tác nhân lớn nhất kéo lùi chỉ số, riêng cổ phiếu này đã khiến VN-Index giảm 1.7 điểm, các cổ phiếu còn lại tác động không đáng kể.
Hầu hết các nhóm ngành đều tăng điểm nhưng cổ phiếu trong mỗi nhóm phân hóa khá mạnh. Nhóm viễn thông dẫn đầu thị trường với mức tăng hơn 2%, chủ yếu nhờ vào cổ phiếu vốn hóa lớn nhất ngành là VGI (+2.85%). Các cổ phiếu còn lại chỉ tăng giảm đan xen quanh mốc tham chiếu.
Ở nhóm tài chính, sắc xanh được duy trì ở các cổ phiếu VCB (+0.11%), BID (+0.77%), TCB (+1.29%), ACB (+0.4%), NAB (+1.29%), ABB (+1.37%),… Trong khi đó, phe bán vẫn chi phối ở các mã STB (-1.21%), VPB (-0.78%), TPB (-0.92%), SSI (-1.02%), HCM (-1.25%), VND (-1.44%),…
Về phía giảm điểm, bất động sản là ngành duy nhất sót lại phải đóng cửa trong sắc đỏ. Chịu áp lực lớn từ các cổ phiếu VHM (-3.93%), NVL (-2.22%), DXG (-2.61%), SNZ (-3.46%), DIG (-1.2%), PDR (-1.43%), CEO (-2.07%),…
Nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục bán ròng mạnh với giá trị gần 5.4 ngàn tỷ đồng trên cả hai sàn trong tuần này. Trong đó, khối ngoại bán ròng hơn 5.2 ngàn tỷ đồng trên sàn HOSE và bán ròng hơn 162 tỷ đồng trên sàn HNX.
Giá trị giao dịch NĐTNN của HOSE, HNX và UPCOM theo ngày. Đvt: Tỷ đồng
Giá trị giao dịch ròng theo mã cổ phiếu. Đvt: Tỷ đồng
Cổ phiếu tăng tiêu biểu trong tuần qua là VRC
VRC tăng 36.17%: VRC ghi nhận tuần giao dịch khởi sắc với mức tăng 36.17%. Cổ phiếu liên tục tăng mạnh và bám sát Upper Band của Bollinger Bands cho thấy tâm lý của nhà đầu tư rất lạc quan. Đồng thời, khối lượng giao dịch vượt trên mức trung bình 20 ngày chứng tỏ dòng tiền tham gia ngày càng sôi động.
Tuy nhiên, chỉ báo Stochastic Oscillator đã tiến sâu vào vùng quá mua (overbought). Nhà đầu tư nên cẩn trọng trong thời gian tới nếu tín hiệu bán xuất hiện trở lại.
Cổ phiếu giảm giá mạnh trong tuần qua là RDP
RDP giảm 22.78%: RDP trải qua tuần giao dịch khá tiêu cực khi đà giảm xuất hiện trở lại. Cổ phiếu liên tục lao dốc cùng với khối lượng giao dịch bật tăng mạnh trên mức trung bình 20 ngày cho thấy tâm lý bi quan của nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, chỉ báo Stochastic Oscillator và MACD tiếp tục đi xuống sau khi cho tín hiệu bán. Điều này cho thấy rủi ro điều chỉnh trong ngắn hạn vẫn còn hiện hữu.
II. THỐNG KÊ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TUẦN QUA
Bộ phận Phân tích Kinh tế & Chiến lược Thị trường, Phòng Tư vấn Vietstock
FILI
Rủi ro tài sản được kiểm soát, rủi ro thanh khoản ngân hàng gia tăng
Ngân hàng SOB và ngân hàng lớn ít rủi ro tài sản vì dư nợ cho vay khu vực ảnh hưởng bão; song các ngân hàng nhỏ chịu tác động vốn và chi phí tín dụng.
Rủi ro thanh khoản đang gia tăng khi các ngân hàng ngày càng phụ thuộc vào nguồn vốn thị trường ngắn hạn và lãi suất liên ngân hàng tăng mạnh.
Tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn (CASA) của toàn ngành duy trì ổn định ở mức 19% tổng dư nợ cho vay khách hàng trong 9 tháng 2024. OCB ghi nhận mức tăng lớn nhất, 3% QoQ, nhờ các nỗ lực chuyển đổi số. Tỷ lệ cho vay trên tiền gửi (LDR) toàn ngành vẫn ở mức cao, đạt 106%, ông Phan Duy Hưng, CFA, MBA, Giám đốc Phân tích cao cấp của VIS Rating cùng các cộng sự cập nhật trong báo cáo về ngân hàng 9 tháng 2024.
Theo các chuyên gia của VIS, các ngân hàng nhỏ và vừa (ví dụ: BVB, ABB, LPB, NAB, MSB) tăng chi phí huy động vốn cao hơn để duy trì tiền gửi và tăng cường vay liên ngân hàng ngắn hạn.
Cập nhật diễn biến thị trường cũng phản ánh từ giữa tháng 10 năm 2024, lãi suất liên ngân hàng qua đêm đã tăng 3.5%, lên mức trung bình 6% sau những áp lực tỷ giá và thanh khoản thị trường thắt chặt hơn. "Lãi suất liên ngân hàng nếu tiếp tục duy trì ở mức cao trong thời gian tới sẽ làm tăng rủi ro thanh khoản đối với các ngân hàng nhỏ và vừa", các chuyên gia VIS Rating nhận định.
Lãi suất liên ngân hàng thực tế sau nhiều động thái can thiệp của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), đến 20/11, vẫn đang neo ở mức cao. Tại 20/11, lãi suất bình quân liên ngân hàng kỳ hạn qua đêm ghi nhận áp dụng 19/11 là 5,31%; 1 tuần là 5,34%, 2 tuần là 5,60% và 3 tháng là 5,40%. Trước đó, lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng đã vọt lên mức 5,5% vào đầu tháng 11/2024, cao nhất kể từ tháng 4/2023 và có thời điểm dâng cao 6%, khiến NHNN đã phải phát hành gần 100 nghìn tỷ đồng tín phiếu, bơm hơn 200 nghìn tỷ đồng qua thị trường mở (OMO). Qua đó, để đưa lãi suất liên ngân hàng tạm thời về mức như hiện tại.
Rủi ro lãi suất liên ngân hàng có thể dâng trở lại, theo giới chuyên môn, vẫn có thể lặp lại nếu tỷ giá vẫn tiếp tục gặp các biến động và rủi ro, theo sát những biến động của DXY và các thay đổi trên thị trường quốc tế sau hơn 2 tuần nước Mỹ có kết quả bầu cử Tổng thống.
Tuy nhiên, trong trường hợp áp lực tỷ giá hạ nhiệt, lãi suất liên ngân hàng cũng sẽ giảm rủi ro tăng lên. Điều kiện "đồng hành" là nguồn vốn của các TCTD có thể cải thiện tốt hơn ngoài phụ thuộc vốn ngắn hạn như hiện tại, một chuyên gia lưu ý.
Bên cạnh vấn đề về rủi ro thanh khoản của các ngân hàng và lưu ý nguồn vốn, chi phí vốn của các ngân hàng quy mô nhỏ, một tín hiệu tích cực của hệ thống, theo đánh giá của ông Phan Duy Hưng và các cộng sự, là rủi ro tài sản của các ngân hàng duy trì ổn định trong 9 tháng đầu năm 2024. Trong đó, rủi ro tài sản của các ngân hàng được kiểm soát nhờ quy mô cho vay hạn chế với khu vực bị ảnh hưởng bởi bão. Điều này khác với dự báo của nhiều tổ chức trước đó khi cho rằng dù dư nợ khu vực bị ảnh hưởng bởi bão Yagi không quá lớn, song các ngân hàng quốc doanh (SOB) và các ngân hàng lớn cũng sẽ vẫn sẽ bị ảnh hưởng ngắn hạn.
Theo VIS Rating, tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân (ROAA) của toàn ngành giảm nhẹ xuống 1,5% trong 9 tháng 2024 so với 1,6% trong 6 tháng 2024, với các ngân hàng nhỏ chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ biên lãi ròng (NIM) thu hẹp và chi phí tín dụng cao hơn.
"Đến cuối năm 2024, chúng tôi kỳ vọng việc cải thiện tăng trưởng cho vay mua nhà lợi tức cao và nợ quá hạn phát sinh mới chậm lại sẽ góp phần ổn định lợi nhuận và chất lượng tài sản cho các ngân hàng.
Phần lớn các ngân hàng ít chịu tổn thất liên quan đến bão nhờ quy mô cho vay hạn chế ở các tỉnh phía Bắc bị ảnh hưởng. Tổng dư nợ tín dụng cho các khách hàng bị ảnh hưởng bởi bão chiếm khoảng 1% tổng dư nợ toàn ngành, chủ yếu thuộc về các SOB có hoạt động tại các tỉnh bị ảnh hưởng. Các biện pháp hỗ trợ của NHNN như tái cơ cấu nợ và cung cấp các khoản vay lãi suất thấp cho các khách hàng vay bị ảnh hưởng sẽ góp phần giảm bớt gánh nặng trả nợ cho khách hàng", chuyên gia đánh giá.
Nhìn chung, theo dữ liệu BCTC, tỷ lệ nợ có vấn đề toàn ngành duy trì ổn định so với quý trước ở mức 2,4%. Các ngân hàng lớn, bao gồm SOB, ghi nhận tốc độ các khoản nợ quá hạn phát sinh mới chậm lại, nhờ sự cải thiện của một khoản nợ xấu lớn (ví dụ: CTG) cũng như siết chặt tiêu chuẩn cấp tín dụng, đặc biệt đối với các khoản vay tiêu dùng mới (ví dụ: VPB). Mặt khác, các khoản nợ quá hạn vẫn tiếp tục tăng tại các ngân hàng tập trung vào khách hàng cá nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) (ví dụ: PGB, SGB, VIB, OCB, LPB).
"Chúng tôi đánh giá khoảng 30% ngân hàng có hồ sơ rủi ro tài sản ở mức yếu, tăng từ mức 22% năm 2023. Trong cả năm 2024, chúng tôi kỳ vọng tỷ lệ nợ xấu toàn ngành sẽ ổn định ở mức 2,3-2,4% khi các ngân hàng hoàn tất việc xóa nợ trong quý 4".
Tăng trưởng lợi nhuận toàn ngành chậm lại do NIM thu hẹp, và các ngân hàng nhỏ chịu thêm ảnh hưởng bởi chi phí tín dụng cao. Phần lớn các ngân hàng ghi nhận ROAA và NIM giảm theo quý (QoQ); các ngân hàng nhỏ chịu mức giảm lợi nhuận đáng kể nhất do chi phí huy động tiền gửi tăng cao trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt. Các ngân hàng này và một số ngân hàng quy mô vừa (ví dụ: VIB, OCB) ghi nhận sự suy giảm chất lượng tài sản và chi phí tín dụng cao. Xu hướng lợi nhuận của các ngân hàng lớn có sự phân hóa; một số ngân hàng (ví dụ: TCB, MBB, ACB) bị ảnh hưởng bởi thu nhập từ dịch vụ bảo hiểm, ngoại hối (FX) và đầu tư chứng khoán giảm, trong khi một số ngân hàng khác hưởng lợi từ nỗ lực giảm rủi ro trước đó đã giảm mạnh chi phí tín dụng (ví dụ: VPB) và tăng lợi nhuận thu hồi nợ (ví dụ: CTG, VCB).
"Chúng tôi kỳ vọng phần lớn trong số 25 ngân hàng trong phân tích của chúng tôi sẽ đạt được mục tiêu lợi nhuận cả năm, đặc biệt là các SOB và các ngân hàng lớn có sự tăng trưởng cho vay doanh nghiệp mạnh mẽ. Với tốc độ tăng trưởng tín dụng tiếp tục được cải thiện, chúng tôi kỳ vọng ROAA toàn ngành sẽ cải thiện lên 1,6% cho cả năm 2024 từ mức 1.5% trong năm trước", VIS Rating phân tích.
Đáng chú ý, các chuyên gia cũng lưu ý bộ đệm rủi ro vẫn ở mức yếu. Tính đến 9 tháng 2024, tỷ lệ vốn chủ sở hữu hữu hình trên tổng tài sản hữu hình (TCE/TA) toàn ngành không thay đổi QoQ, ở mức 8,8% do tăng trưởng lợi nhuận chậm lại.
Được biết, có gần 20% ngân hàng trong đánh giá của VIS Rating có hồ sơ an toàn vốn yếu, bao gồm các ngân hàng nhỏ với lợi nhuận mỏng và một số SOB bị hạn chế trong việc tăng vốn mới. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLCR) toàn ngành tăng nhẹ 1% QoQ, đạt 83% vào cuối 9 tháng 2024, dẫn dắt bởi CTG do tăng mức trích lập dự phòng và giảm nợ có vấn đề. LLCR của MBB giảm xuống mức thấp nhất trong 5 năm, còn 69%, do khoản vay của doanh nghiệp bất động sản lớn trở thành nợ xấu.
Phần lớn các ngân hàng nhỏ và vừa tiếp tục có LLCR dưới mức trung bình của ngành. Một số ngân hàng (ví dụ: CTG, VCB) đang chờ phê duyệt từ cơ quan quản lý để hoàn thành việc chi trả cổ tức bằng cổ phiếu, điều này sẽ giúp các ngân hàng giữ lại vốn.
Việc chất lượng tài sản các ngân hàng suy giảm nhẹ, tuy nhiên, vẫn được kỳ vọng sẽ có sự thay đổi vào kỳ "chốt số" cuối năm, khi đây được xem là thời điểm tăng trưởng tín dụng đột biến, giúp các ngân hàng có cơ sở bù đắp LLCR và gia tăng lợi nhuận.
ABBank được vinh danh ngân hàng có “chất lượng điện thanh toán quốc tế xuất sắc 2024”
Ngày 14/11/2024, Ngân hàng TMCP An Bình (ABBANK) vinh dự được nhận giải “Chất lượng điện Thanh toán quốc tế xuất sắc 2024” do JP Morgan trao tặng.
Giải thưởng ghi nhận sự xuất sắc trong việc xử lý tự động các điện thanh toán quốc tế - với tỉ lệ điện thanh toán quốc tế đạt chuẩn xuyên suốt năm 2024 lên tới 98% của ABBANK; đồng thời ghi nhận sự xuất sắc trong nghiệp vụ của tập thể cán bộ nhân viên mảng thanh toán quốc tế của Ngân hàng.
ABBANK nhận giải “Chất lượng điện Thanh toán quốc tế xuất sắc 2024” từ JP Morgan với thành tích tỉ lệ điện thanh toán quốc tế đạt chuẩn năm 2024 lên tới 98%.
Tại buổi trao giải, ông Lại Tất Hà – Phó Tổng Giám đốc ABBANK chia sẻ: “Sự ghi nhận và vinh danh từ một tổ chức quốc tế lớn và uy tín như JP Morgan là một minh chứng rõ nét cho những nỗ lực không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, giải pháp cho khách hàng của ABBANK. Đây là nguồn động lực lớn để chúng tôi tiếp tục đầu tư vào công nghệ, đội ngũ để có thể mang đến cho khách hàng những trải nghiệm tối ưu nhất.”
“ABBANK là một trong những đối tác quan trọng của JP Morgan. ABBANK có hạ tầng công nghệ cùng chất lượng dịch vụ ổn định, đặc biệt nhất là sự chuyên nghiệp và kinh nghiệm dày dặn của đội ngũ cán bộ nhân viên trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, tài trợ thương mại và kinh doanh ngoại hối. JP Morgan sẽ tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động hợp tác kinh doanh toàn diện cùng ABBANK trong thời gian tới để phục vụ tốt nhất cho nhu cầu của khách hàng hai bên”, bà Phan Bích Vân - Tổng Giám đốc JP Morgan Việt Nam chia sẻ về kế hoạch hợp tác song phương.
Ông Lại Tất Hà – Phó Tổng Giám đốc ABBANK cho biết giải thưởng từ JP Morgan là nguồn động lực lớn để ABBANK tiếp tục đầu tư vào công nghệ, đội ngũ để có thể mang đến cho khách hàng những trải nghiệm tối ưu nhất.
Với bề dày hơn 31 năm trong hoạt động thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối và tài trợ thương mại, ABBANK có quan hệ hợp tác với hơn 300 ngân hàng đại lý tại 75 quốc gia và vùng lãnh thổ. Hiện nay ngoài tài trợ vốn lưu động, ABBANK còn cung cấp cho khách hàng xuất nhập khẩu nhiều sản phẩm dịch vụ khác như UPAS L/C, chiết khấu bộ chứng từ, bảo lãnh, tái phát hành L/C, xác nhận L/C… Lựa chọn phương châm hoạt động “lấy khách hàng làm trọng tâm cho mọi hoạt động kinh doanh”, ABBANK luôn chủ động đồng hành cùng khách hàng doanh nghiệp thông qua các gói tín dụng ưu đãi, lãi suất hấp dẫn, tài trợ thương mại… giúp doanh nghiệp xuất nhập khẩu kịp thời bổ sung nguồn vốn phục vụ công tác mở rộng, phát triển kinh doanh hiệu quả, bền vững.
Đại diện JP Morgan, bà Phan Bích Vân - Tổng Giám đốc JP Morgan Việt Nam cho biết sẽ tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động hợp tác kinh doanh toàn diện cùng ABBANK trong thời gian tới để phục vụ tốt nhất cho nhu cầu của khách hàng hai bên.
Cùng với các giải pháp tài chính phù hợp với lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp, ABBANK cũng đang triển khai nhiều chương trình ưu đãi về phí đối với dịch vụ thanh toán quốc tế dành cho doanh nghiệp như: Miễn phí chuyển tiền quốc tế chiều đi cho các giao dịch được thực hiện trên nền tảng ngân hàng số cho doanh nghiệp ABBANK Business, Miễn/giảm tới 100% phí thanh toán quốc tế cho một số dịch vụ như chuyển tiền quốc tế, tài trợ thương mại khi giao dịch tại quầy; cùng các ưu đãi hấp dẫn về tỷ giá mua bán ngoại tệ.
Bên cạnh giải thưởng do JP Morgan trao tặng, trước đó mảng hoạt động thanh toán quốc tế của ABBANK cũng đã được các đối tác quốc tế lớn và uy tín vinh danh, trao tặng chứng nhận. Năm 2022, ABBANK cũng vinh dự được Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) trao giải thưởng “Trade Deal of the Year 2022” nằm trong khuôn khổ chương trình Tài trợ thương mại và Chuỗi cung ứng toàn cầu (TSCFP Awards 2022). Giải thưởng “Trade Deal of the Year” được bình chọn nhằm vinh danh ngân hàng có thành tích về giao dịch nổi bật nhất trong hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu, được ADB xem xét và đánh giá trên tổng số số hơn 240 ngân hàng thành viên tham gia Chương trình tài trợ thương mại và chuỗi cung ứng toàn cầu (Trade and Supply Chain Finance Program – TSCFP).
JP Morgan là đối tác hợp tác toàn diện và lâu bền từ nhiều năm nay với ABBANK trong mảng thanh toán quốc tế, chuyển tiền và kinh doanh ngoại hối.
Giải thưởng “Chất lượng điện Thanh Toán Quốc Tế Xuất Sắc của JP Morgan 2024” (2024 U.S. Dollar Clearing Quality Recognition Award for Outstanding Achievement of Best-in- Class by JP Morgan) được JP Morgan – ngân hàng có quy mô Tổng Tài sản lớn nhất nước Mỹ trao tặng cho ABBANK vào ngày 14/11/2024. JP Morgan đã, đang và sẽ luôn là đối tác hợp tác toàn diện và lâu bền từ nhiều năm nay với ABBANK trong mảng thanh toán quốc tế, chuyển tiền và kinh doanh ngoại hối.
交易股票、貨幣、商品、期貨、債券、基金等金融工具或加密貨幣屬高風險行為,這些風險包括損失您的部分或全部投資金額,所以交易並非適合所有投資者。
做出任何財務決定時,應該進行自己的盡職調查,運用自己的判斷力,並諮詢合格的顧問。本網站的內容並非直接針對您,我們也未考慮您的財務狀況或需求。本網站所含資訊不一定是即時提供的,也不一定是準確的。本站提供的價格可能由造市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他財務決定均應完全由您負責,並且您不得依賴通過網站提供的任何資訊。我們不對網站中的任何資訊提供任何保證,並且對因使用網站中的任何資訊而可能造成的任何交易損失不承擔任何責任。
未經本站書面許可,禁止使用、儲存、複製、展現、修改、傳播或分發本網站所含數據。提供本網站所含數據的供應商及交易所保留其所有知識產權。