行情
新聞
分析
使用者
快訊
財經日曆
學習
數據
- 名稱
- 最新值
- 前值
公:--
預: --
公:--
預: --
公:--
預: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
公:--
預: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
公:--
預: --
公:--
預: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
無匹配數據
最新觀點
最新觀點
最近更新
港股投資的風險預警
儘管香港法律體系和監管框架相對健全,但港股市場仍存在一些特定的風險和挑戰,如港幣與美元掛鉤,外地投資者可能會面臨匯率波動;中國內地的政策變化和經濟狀況對港股的影響等 。
投資港股費用架構與稅務
港股市場的交易成本包括總投資成本為買賣股票的交易費用、印花稅、結算費用等,對於外地投資者,可能會涉及兌換港幣所產生匯率轉換費用,以及依照所在地的相關法規需繳納的稅款。
港股產業分析:非必需消費產業
港股市場非必需消費產業涵蓋汽車、教育、旅遊、餐飲、服飾等多個領域,在643家上市公司中35%為中國內地公司,佔總市值的65%,因此受中國經濟影響深遠。
港股產業分析:地產建築業
地產建築業在港股指數中的份額近年來已明顯下降,但截至2022年,它依然在市場上佔有約10%的份額。 包含了房地產開發、建築工程、房地產投資和物業管理等各個方面。
中國·香港
越南·胡志明
杜拜
奈及利亞·拉各斯
埃及·開羅
查看所有搜尋結果
暫無數據
Thị trường sẽ 'đổ đèo' cực mạnh?
Bộ Công Thương vừa ban hành Chỉ thị số 06/CT-BCT ngày 4/3/2025 về một số giải pháp phát triển thị trường, thúc đẩy xuất khẩu, quản lý nhập khẩu năm 2025.
Theo Chỉ thị, Bộ Công Thương chỉ đạo các đơn vị tập trung triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hỗ trợ sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu.
Cụ thể, Cục Xuất nhập khẩu, Cục Công nghiệp, Cục Hóa chất, Vụ Dầu khí và Than chủ động phối hợp với các bộ, ngành liên quan tập trung tháo gỡ khó khăn của các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu.
Riêng Cục Xuất nhập khẩu có trách nhiệm chủ trì phối hợp với Vụ Phát triển thị trường nước ngoài tổ chức làm việc với các địa phương, các Hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu để trao đổi về tình hình xuất khẩu, nắm bắt những khó khăn, vướng mắc và bàn biện pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy xuất khẩu.
Vụ Phát triển thị trường nước ngoài, các Thương vụ Việt Nam tại thị trường nước ngoài theo dõi ảnh hưởng của sự biến động tỷ giá tới các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, đặc biệt là các mặt hàng có cạnh tranh với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam của nước sở tại và chính sách điều hành tỷ giá của các nước (trong đó bao gồm khả năng phá giá tiền tệ); kiến nghị các giải pháp khắc phục khó khăn, thúc đẩy xuất khẩu khi cần thiết.
Bộ Công Thương đề ra loạt giải pháp để đạt mục tiêu xuất khẩu tăng trưởng 12%
Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại theo dõi tình hình xuất khẩu, nhập khẩu các mặt hàng; định kỳ hằng tháng có báo cáo về các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu tăng hoặc giảm mạnh, gửi báo cáo Bộ Công Thương và Cục Xuất nhập khẩu để kịp thời đề xuất các biện pháp quản lý khi có những biến động theo hướng không tích cực.
Cục Công nghiệp chủ trì phối hợp với các Sở Công Thương, Hiệp hội ngành hàng thực hiện hoạt động đào tạo nguồn nhân lực, tư vấn kỹ thuật, cải tiến sản xuất để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước giúp kết nối doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thúc đẩy doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Báo cáo phân tích cổ phiếu POW
Triển vọng nắm giữ POW ra sao?
1️⃣ TỔNG QUAN DOANH NGHIỆP
🏢Tên doanh nghiệp: Tổng Công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam - CTCP (PV Power)
🔖Mã chứng khoán: POW
📈Sàn niêm yết: HOSE
⚡Lĩnh vực hoạt động: Sản xuất và kinh doanh điện
💰Vốn điều lệ: ~26.500 tỷ VNĐ
🏦Cổ đông lớn: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) nắm ~79,94% vốn
📊Tổng tài sản: 81.281 tỷ VNĐ (2024)
🔋Tổng công suất: 4.205 MW, chiếm ~5,4% tổng công suất quốc gia
2️⃣ MÔ HÌNH KINH DOANH
PV Power hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh điện, sở hữu và vận hành nhiều nhà máy điện quan trọng:
KẾT QUẢ KINH DOANH & TÀI CHÍNH (2024)
4️⃣ CÁC DỰ ÁN CHIẾN LƯỢC
🏭Nhơn Trạch 3 & 4 (1.500 MW, tổng vốn đầu tư 32.000 tỷ VNĐ, vận hành 2025)
🚀Tác động tiềm năng: Tăng doanh thu lên 40.000 - 42.000 tỷ VNĐ/năm, lợi nhuận dự kiến tăng 2,5 lần.
5️⃣ CÁC YẾU TỐ VĨ MÔ VÀ RỦI RO
📈Tăng trưởng nhu cầu điện 🔌: Dự báo tăng 7-10%/năm.
🏦Chính sách điều tiết giá điện ⚖: EVN kiểm soát giá điện.
🌍Giá nhiên liệu đầu vào ⛽: Biến động theo thị trường thế giới.
💱Lãi suất và tỷ giá 💸: Ảnh hưởng đến các khoản vay nước ngoài.
⚡Cạnh tranh ngành điện 🔋: Xu hướng phát triển năng lượng tái tạo.
6️⃣ KỊCH BẢN ĐỊNH GIÁ VÀ KHUYẾN NGHỊ
📊 Phương pháp
💵 Giá hợp lý (VND)
📉 P/E: 8.000
📌 P/B :12.000
💰 DCF (2025) :16.000
7️⃣ CHIẾN LƯỢC ĐẦU TƯ
✅Vùng mua tốt: 11.5 - 12.5 VNĐ/cổ phiếu.
🔄Chiến lược: Gom dần khi giá điều chỉnh, nắm giữ dài hạn.
⚠Rủi ro cần theo dõi: Chính sách EVN, giá LNG, tiến độ dự án.
📌 Kết luận: POW là cổ phiếu có tiềm năng nhưng chịu ảnh hưởng lớn từ giá nhiên liệu và chính sách điều tiết giá điện. Nhà đầu tư dài hạn nên theo dõi kỹ tiến độ Nhơn Trạch 3 & 4 để đưa ra quyết định phù hợp. 🔍📈
Nghịch lý ngành điện: Doanh thu tỷ đô, người thắng lớn, kẻ chật vật
Năm 2024, ngành điện lực tiếp tục chật vật trước áp lực chi phí và những biến động khó lường của thị trường. Dù doanh thu nhiều doanh nghiệp khởi sắc, nhưng bức tranh lợi nhuận lại đầy tương phản – kẻ thắng lớn, người chật vật xoay xở...
Năm 2024, ngành điện lực Việt Nam tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân với những bước tiến đáng kể trong việc đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững.
Theo số liệu từ Bộ Công Thương, tổng sản lượng điện quốc gia trong năm 2024 đạt khoảng 280 tỷ kWh, tăng 8,5% so với năm trước. Đáng chú ý, tỷ trọng năng lượng tái tạo tiếp tục mở rộng, chiếm 35% tổng sản lượng điện, minh chứng cho xu hướng chuyển dịch mạnh mẽ sang nguồn năng lượng sạch.
Điện mặt trời và điện gió vẫn là hai trụ cột chính trong cơ cấu năng lượng tái tạo, với công suất lắp đặt đạt lần lượt 20.000 MW và 12.000 MW. Trong khi đó, điện than dần thu hẹp tỷ trọng, chỉ còn chiếm 30% tổng sản lượng, so với mức 40% vào năm 2020. Điều này cho thấy những nỗ lực đáng kể trong việc giảm phát thải carbon và hướng tới phát triển bền vững.
Tuy nhiên, bên cạnh gam màu sáng, ngành điện vẫn đối mặt với nhiều thách thức. Sự mất cân đối cung - cầu trở nên rõ nét khi nhu cầu điện tăng trưởng khoảng 10% mỗi năm, trong khi hệ thống lưới điện chưa được nâng cấp đồng bộ, dẫn đến tình trạng quá tải cục bộ. Đồng thời, chi phí đầu tư cho năng lượng tái tạo và công nghệ lưới điện thông minh vẫn ở mức cao, đặt ra bài toán lớn về huy động vốn và chính sách hỗ trợ từ nhà nước.
Điều này đã khiến cho doanh thu của các doanh nghiệp điện lực nhìn chung tăng trưởng, nhưng lợi nhuận lại ghi nhận sự phân hoá sâu sắc. Nguyên nhân chủ yếu đến từ biến động giá nguyên liệu đầu vào như than, khí đốt, cùng với chi phí tài chính ngày càng gia tăng.
ĐIỂM SÁNG HIẾM HOI GIỮA SỨC ÉP LỢI NHUẬN VÀ NHỮNG NỖ LỰC DUY TRÌ TĂNG TRƯỞNG
Trong bối cảnh ngành điện gặp nhiều khó khăn, một số doanh nghiệp vẫn giữ vững được mức tăng trưởng lợi nhuận ổn định. Điển hình là Tổng Công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam (mã chứng khoán: POW) với doanh thu đạt 30.180 tỷ đồng, tăng 7% so với năm 2023.
Tuy nhiên, lợi nhuận gộp của công ty giảm tới 28%, chỉ còn 1.948 tỷ đồng. Nguyên nhân chính là do chi phí nguyên liệu đầu vào tăng, đặc biệt là giá than và khí đốt, vốn là những yếu tố then chốt trong sản xuất điện. Dù vậy, lợi nhuận sau thuế tăng nhẹ 5%, đạt 1.346 tỷ đồng. Tuy nhiên, năm 2024 vẫn là năm điển hình doanh thu tăng nhưng lợi nhuận bị bào mòn của POW.
Về quy mô tài sản đã tăng lên 81.281 tỷ đồng, nhưng nợ vay cũng tăng mạnh 9.981 tỷ đồng, đạt 22.659 tỷ đồng, làm gia tăng áp lực tài chính cho công ty. Trong khi đó, hệ số sinh lời trên doanh thu (ROS) cũng chỉ nhích nhẹ lên 5,3%, vẫn đang thấp hơn so với mặt bằng chung ngành điện.
Tổng Công ty Điện lực TKV (mã chứng khoán: DTK) cũng là một trong số ít doanh nghiệp giữ được mức tăng trưởng lợi nhuận ổn định. Doanh thu ghi nhận tăng 8,5% lên 12.839 tỷ đồng, trong khi lợi nhuận sau thuế tăng 28%, đạt 690 tỷ đồng.
Và mặc dù tổng tài sản giảm 6% còn 15.557 tỷ đồng, nhưng nợ phải trả cũng giảm 15,7% xuống 7.032 tỷ đồng, điều này giúp công ty duy trì sức khỏe tài chính ổn định. Trong khi, chỉ số P/E giảm nhẹ còn 13,6% và ROS duy trì ở mức 5,3%.
Một doanh nghiệp khác có kết quả kinh doanh tích cực là Công ty Cổ phần Tập Đoàn PC1 (mã chứng khoán: PC1). Với doanh thu đạt 10.078 tỷ đồng (tăng 29,6%) và lợi nhuận sau thuế tăng vọt 132%, lên 703 tỷ đồng, PC1 là một trong những đơn vị hiếm hoi có sự tăng trưởng mạnh. Yếu tố thúc đẩy chính đến từ hiệu suất vận hành cải thiện của mảng điện và sự đóng góp lớn từ lĩnh vực khai khoáng.
Tính đến ngày 31/12/2024, tổng tài sản PC1 tăng nhẹ lên 20.954 tỷ đồng và nợ phải trả ở mức 13.255 tỷ đồng (63,2%). Tuy nhiên, chỉ số P/E của PC1 giảm mạnh từ 56,38% xuống còn 15,79%, trong khi, chỉ số ROS lại tăng từ 3,9% lên 4,9%, cho thấy khả năng tối ưu hóa lợi nhuận hiệu quả.
Ngược lại, nhiều doanh nghiệp khác của ngành lại chịu áp lực do chi phí đầu vào tăng cao khiến cho lợi nhuận sụt giảm nghiêm trọng, đối mặt với muôn vàn khó khăn. Đầu tiên phải nói tới là Công ty Cổ phần Cơ Điện Lạnh (mã chứng khoán: REE) khi có một năm 2024 với doanh thu đi ngang, lợi nhuận giảm sút.
Theo đó, doanh thu REE đạt 8.383 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế giảm 14%, xuống còn 2.396 tỷ đồng. Mặc dù công ty gia tăng quy mô tài sản lên 36.360 tỷ đồng nhờ tăng vốn điều lệ, nợ dài hạn vẫn chiếm 71,9% tổng nợ phải trả (13.905 tỷ đồng), cho thấy áp lực tài chính đáng kể. Chỉ số P/E tăng từ 10 lên 15, nhưng ROS giảm 4% xuống còn 28%.
Một trường hợp đáng chú ý khác là Công ty Cổ phần Điện Gia Lai (mã chứng khoán: GEG), mặc dù ghi nhận doanh thu tăng nhẹ lên 2.325 tỷ đồng, nhưng lợi nhuận lại lao dốc 35,6% chỉ còn 92 tỷ đồng. Điều này phản ánh sự bất ổn trong hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thủy điện, vốn phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết và lượng mưa.
Không chỉ đối mặt với thách thức về lợi nhuận, tổng tài sản của Điện Gia Lai (GEG) cũng thu hẹp 5,9%, còn 15.172 tỷ đồng, trong đó nợ phải trả chiếm tới 62%. Dù vậy, GEG vẫn khẳng định vị thế vững chắc trong ngành thủy điện với mức P/E cao ngất ngưởng 36,2, cùng biên EBIT và EBITDA ấn tượng, lần lượt đạt 42% và 76%, vượt xa mặt bằng chung của ngành. Những con số này cho thấy thị trường vẫn đặt kỳ vọng lớn vào tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp này.
Giống GEG, Công ty Cổ phần Điện lực Dầu khí Nhơn Trạch 2 (mã chứng khoán: NT2) khép lại năm 2024 với lợi nhuận lao dốc, áp lực nợ gia tăng. Cụ thể, doanh thu thuần NT2 đạt 5.952 tỷ đồng, giảm nhẹ chỉ 7% so với năm trước, nhưng lợi nhuận ròng của doanh nghiệp lại bị "bốc hơi" tới 85%, chỉ còn vỏn vẹn 72 tỷ đồng. Nguyên nhân chủ yếu là do giá vốn và các chi phí đồng loạt tăng cao.
Dù vậy, quy mô tài sản của Nhơn Trạch 2 lại đạt 10.014,7 tỷ đồng, tăng 18,5% so với đầu năm. Ở chiều ngược lại, gánh nặng tài chính của công ty cũng gia tăng đáng kể. Nợ phải trả của Nhơn Trạch 2 vào cuối năm 2024 đã lên tới 5.836 tỷ đồng, tăng gần 42% so với đầu năm, gây nên áp lực nợ vay ngày càng lớn.
Điều này đặt ra không ít thách thức cho doanh nghiệp khi chỉ số ROS giảm sâu xuống mức 1,22%, hiệu suất sinh lời cực kỳ thấp. Trong khi đó, chỉ số P/E lại tăng vọt 5,5 lần so với cùng kỳ, đạt 83,3, một con số đáng báo động khi phản ánh kỳ vọng nhà đầu tư quá cao so với thực trạng kinh doanh của công ty.
"Ông lớn" gây chú ý nhất trong năm 2024 không ai khác ngoài Tổng Công ty Phát điện 3 (PGV). Đây cũng là một trong những doanh nghiệp chịu ảnh hưởng nặng nề nhất trong ngành điện khi doanh thu sụt giảm 11,3%, chỉ còn 40.678 tỷ đồng.
Đáng nói hơn, công ty ghi nhận khoản lỗ ròng lên tới 897 tỷ đồng, đánh dấu sự đảo chiều so với mức lãi 1.083 tỷ đồng của năm trước. Nguyên nhân chính đến từ việc lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh lao dốc, âm 869 tỷ đồng, tạo áp lực lớn lên tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Tổng tài sản PGV giảm 6,3% xuống 55.135 tỷ đồng, với nợ phải trả chiếm tới 73,4%. Chỉ số P/E giảm mạnh từ 24,4 xuống âm 25,2, trong khi ROS cũng âm 2,2%, phản ánh tình hình kinh doanh kém tích cực.
CĂNG THẲNG TRONG CUNG ỨNG ĐIỆN NĂM 2025: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐAN XEN
Bước sang năm 2025, ngành điện lực Việt Nam đối diện với một bức tranh đầy biến động, khi nhu cầu năng lượng tiếp tục leo thang trong bối cảnh kinh tế mở rộng và xu hướng dịch chuyển sang các nguồn điện sạch.
Theo ước tính, mức tiêu thụ điện trên toàn quốc có thể tăng từ 10,5% đến 13% so với năm 2024, trong đó, những tháng cao điểm mùa khô sản lượng điện tăng vọt lên tới 13%. Động lực chính thúc đẩy nhu cầu này đến từ sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp và sản xuất.
Trước áp lực gia tăng về cung ứng điện, Chính phủ Việt Nam đang định hình lại chiến lược năng lượng với trọng tâm là các nguồn tái tạo như điện mặt trời và điện gió trên bờ, nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào nhiệt điện than và khí tự nhiên.
Mục tiêu mới đặt ra đến năm 2030 là nâng tỷ trọng điện mặt trời lên 16% tổng công suất hệ thống, thay vì mức 5% trong kế hoạch trước đây. Tuy nhiên, do chi phí đầu tư lớn, các dự án điện gió ngoài khơi vẫn gặp nhiều trở ngại, buộc các nhà đầu tư chuyển hướng sang điện gió trên đất liền và mở rộng hệ thống lưu trữ năng lượng để tối ưu hiệu suất.
Dù có sự dịch chuyển mạnh mẽ sang năng lượng sạch, than đá vẫn giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu điện quốc gia do sản lượng thủy điện suy giảm và nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng. Việt Nam tiếp tục là một trong những thị trường nhập khẩu than lớn, với sản lượng khai thác nội địa duy trì ở mức cao.
Việc giảm dần sự phụ thuộc vào nhiệt điện than sẽ diễn ra từng bước, do nhiều nhà máy nhiệt điện than mới vẫn đang trong quá trình vận hành sau các khoản đầu tư lớn trước đó.
Cùng với sự gia tăng tiêu thụ điện, các doanh nghiệp trong ngành được dự báo sẽ hưởng lợi từ bối cảnh thị trường sôi động. Theo Công ty Chứng khoán Vietcombank (VCBS), mức phụ tải đỉnh của hệ thống điện có thể đạt 54,3 GW trong năm 2025, với riêng khu vực miền Bắc chiếm 28,2 GW. Điều này đặt ra thách thức không nhỏ trong việc đảm bảo nguồn cung ổn định cho khu vực này trong các giai đoạn cao điểm.
Năng lượng tái tạo tiếp tục là lĩnh vực trọng điểm với dự kiến tăng thêm 1.177 MW công suất mới trong năm tới. Đáng chú ý, các dự án chuyển tiếp với tổng công suất 4.598 MW đã hoàn tất đàm phán giá điện, đảm bảo đầu ra cho các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này.
Sự chuyển dịch trong ngành điện không chỉ mở ra cơ hội mà còn đặt ra nhiều thách thức đối với các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán. Các công ty sở hữu nhà máy nhiệt điện than có thể hưởng lợi ngắn hạn từ nhu cầu cao, nhưng về lâu dài, họ sẽ chịu áp lực lớn từ chính sách chuyển đổi sang năng lượng sạch và các quy định về bảo vệ môi trường.
Ngược lại, các doanh nghiệp đầu tư vào điện mặt trời và điện gió có triển vọng tích cực hơn nhờ chính sách hỗ trợ của Chính phủ. Tuy nhiên, thách thức về vốn đầu tư lớn và hệ thống truyền tải chưa đồng bộ vẫn là rào cản đáng kể.
Còn theo nhận định của Công ty Chứng khoán MB (MBS), những điều chỉnh trong Quy hoạch điện 8 đang định hình lại chiến lược phát triển của ngành điện, với trọng tâm hướng vào năng lượng tái tạo, thủy điện tích năng và hệ thống lưu trữ nhằm đảm bảo an ninh năng lượng bền vững. Dự kiến, mức tiêu thụ điện sẽ tăng trung bình 10,3% - 12,5% đến năm 2030, tạo động lực lớn cho sự phát triển của ngành và mở ra nhiều cơ hội đầu tư tiềm năng.
Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, nhiệt điện, tư vấn thiết kế và phát triển hạ tầng điện đứng trước triển vọng hưởng lợi đáng kể. Tuy nhiên, bài toán mở rộng và nâng cấp lưới điện truyền tải vẫn là thách thức quan trọng cần giải quyết để đáp ứng tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế.
Những mã cổ phiếu ngành điện như POW, PC1, REE, PC1, TV1, TV2, REE, HDG, GEG,... được đánh giá có tiềm năng tăng trưởng trong năm 2025. Đặc biệt, dự báo của EVN cho thấy nhu cầu điện quốc gia sẽ tăng 8,9% so với năm trước, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhiệt điện như PV Power.
Dẫu vậy, nhà đầu tư vẫn cần thận trọng trước những rủi ro tiềm ẩn và biến động của thị trường khi cân nhắc các quyết định đầu tư.
Đề xuất đẩy mạnh đầu tư năng lượng tái tạo trong Quy hoạch điện VIII: REE, HDG, PC1... được hưởng lợi
Báo cáo phân tích mới đây của MBS Research cập nhật rằng, ngày 19/2/2025, Hội đồng thẩm định đã nhất trí thông qua “Đề án Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII”. Trên cơ sở này, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục hoàn thiện hồ sơ và quy trình theo quy định, kịp thời trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt.
Điều chỉnh quy hoạch Điện VIII: Hàng loạt cổ phiếu điện hưởng lợi
Các doanh nghiệp đang niêm yết có kinh nghiệm phát triển các dự án điện gió, điện mặt trời như BGE/BCG, PC1, HDG, TTA… sẽ được hưởng lợi khi cơ chế được khơi thông.
Như VnEconomy đưa tin, tại cuộc họp Hội đồng thẩm định Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII do Phó thủ tướng Chính phủ Bùi Thanh Sơn chủ trì chiều 19/2, Bộ Công thương đã báo cáo Đề án Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII.
Một số điểm chính của đề án như Tổng công suất nguồn điện phục vụ nhu cầu trong nước đến năm 2030 (không bao gồm xuất khẩu, nguồn đồng phát và nhiệt điện rủi ro) là 183.291 - 236.363 MW, tăng thêm khoảng 27.747 – 80.819 MW so với Quy hoạch điện VIII đã được phê duyệt.
Cụ thể: Nhiệt điện than: 31.055 MW (chiếm 16,9 - 13,1%), giữ nguyên so với Quy hoạch điện VIII, công suất tăng thêm do cập nhật gam máy thực tế của các nhà máy điện.
Nhiệt điện sử dụng khí trong nước: 10.861 MW (chiếm 5,9 - 4,6%), giữ nguyên so với Quy hoạch điện VIII.
Nhiệt điện sử dụng LNG nhập khẩu: 8.824 MW (chiếm 4,8 - 3,7 %), giảm so với Quy hoạch điện VIII 13.576 MW.
Thủy điện: 33.294 - 34.667 MW (chiếm 18,2 – 14,7%), tăng lên so với Quy hoạch điện VIII 4.560 - 5.275 MW.
Về nguồn năng lượng tái tạo, sinh khối, điện sản xuất từ rác, điện địa nhiệt, lưu trữ và nguồn điện linh hoạt: Tổng công suất điện gió trên bờ: 27.791 – 28.058 MW (chiếm 13,2-14,4%), tăng lên so với Quy hoạch điện VIII từ 3.949-5.321 MW.
Tổng công suất điện mặt trời (gồm điện mặt trời tập trung và điện mặt trời áp mái): 46,459 – 73,416 MW (chiếm 25.3 – 31.1%), tăng lên so với Quy hoạch điện VIII từ 25,867 – 52,825 MW.
Điện sinh khối, điện sản xuất từ rác và điện địa nhiệt: 2.979 – 4.881 MW (chiếm 1,6 – 2,1%), tăng lên so với Quy hoạch điện VIII từ 709 – 2.611 MW.
Lưu trữ năng lượng: 12.394 – 22.271 MW (chiếm 6,8 – 9,4 %), tăng lên so với Quy hoạch điện VIII từ 9.694 – 19.571 MW. Nguồn điện linh hoạt: 2.000 – 3.000 MW (chiếm 1,1 - 1,3%), tăng lên so với Quy hoạch điện VIII từ 1.700 – 2.700 MW.
Về xuất, nhập khẩu điện và phát triển điện hạt nhân: Nguồn điện nhập khẩu là khoảng 9.360 MW (chiếm 5,1 – 4,0% tổng công suất các nhà máy điện), tăng lên so với Quy hoạch điện VIII từ 4.360 MW.
Xuất khẩu điện dự kiến đạt khoảng 5.000 – 10.000 MW trên cơ sở có hiệu quả kinh tế cao, đảm bảo an ninh năng lượng trong nước và an ninh quốc phòng.
Nguồn điện hạt nhân đạt khoảng từ 6.000 – 6.400 MW, vận hành giai đoạn 2030 - 2035.
Theo Chứng khoán Yuanta, Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng cao, do đó, dự báo tăng trưởng phụ tải phụ tải giai đoạn 2026-2030 sẽ ở mức từ 10,3 - 12,5%/năm. Dẫn đến tổng công suất nguồn điện phục vụ nhu cầu trong nước (không bao gồm xuất khẩu, nguồn đồng phát và nhiệt điện rủi ro) là 183.291 – 236.363 MW, tăng thêm khoảng 27.747 – 80.819 MW so với Quy hoạch điện VIII đã được phê duyệt.
Phần tăng thêm chủ yếu là thuỷ điện, nguồn năng lượng tái tạo, pin lưu trữ, bổ sung thêm điện hạt nhân trong khi điều chỉnh giảm nguồn nhiệt điện sử dụng khí LNG nhập khẩu do một số dự án chậm tiến độ sang sau năm 2030. Phần tăng công suất của điện mặt trời là đáng kể nhất, đây cũng là điểm khác biệt lớn nhất trong cơ cấu nguồn điện bổ sung giữa Quốc hội điện VIII cũ và Đề án điều chỉnh do điện mặt trời có ưu điểm triển khai nhanh, đáp ứng kịp thời khả năng cung ứng điện trong những năm 2026 - 2027.
Nguồn điện hạt nhân trong tương lai vẫn có chi phí xây dựng cao (do các yêu cầu đảm bảo an toàn hạt nhân khắt khe). Dự kiến Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2, với tổng công suất đạt 6.000 – 6.400 MW sẽ đưa vào vận hành giai đoạn 2030 - 2035. Giai đoạn đến năm 2050, hệ thống cần bổ sung khoảng 4.500 – 5.000 MW điện hạt nhân tại miền Bắc và khoảng 3.000 MW tại miền Trung (chủ yếu là điện hạt nhân dạng mô đun nhỏ SMR) để cung cấp nguồn điện chạy nền cho hệ thống.
Chính phủ ưu tiên trước mắt hoàn thiện văn bản pháp luật và cơ chế, chính sách tháo gỡ vướng mắc trong triển khai các dự án phát triển điện tái tạo, điện gió, điện mặt trời mái nhà… Hiện tại, vướng mắc về cơ chế khiến nhiều dự án điện gió, điện mặt trời chưa thể triển khai.
Các doanh nghiệp đang niêm yết có kinh nghiệm phát triển các dự án điện gió, điện mặt trời như BGE/BCG, PC1, HDG, TTA… sẽ được hưởng lợi khi cơ chế được khơi thông. Cổ phiếu được khuyến nghị gồm TTA, REE, GEG.
Đón sóng cổ phiếu ngành điện
Đề án điều chỉnh Quy hoạch Điện VIII đặt ra mục tiêu nâng tổng công suất nguồn điện phục vụ nhu cầu trong nước
Với sự hỗ trợ từ các chính sách ưu đãi của Chính phủ, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực điện gió, điện mặt trời và lưu trữ năng lượng sẽ có cơ hội tăng trưởng mạnh mẽ.
Thay đổi cơ cấu nguồn điện
Mới đây, tại cuộc họp điều chỉnh Quy hoạch điện VIII, các thành viên Hội đồng thẩm định đã bỏ phiếu nhất trí thông qua Đề án điều chỉnh Quy hoạch điện VIII (có điều kiện phải chỉnh sửa, bổ sung). Trên cơ sở này, Bộ Công Thương sẽ cập nhật, thực hiện hoàn thiện hồ sơ và quy trình theo quy định, kịp thời trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt.
Đề án đặt ra mục tiêu nâng tổng công suất nguồn điện phục vụ nhu cầu trong nước lên mức 183,291 - 236,363 MW vào năm 2030, tăng thêm từ 27,747 – 80,819 MW so với bản quy hoạch trước đó. Sự điều chỉnh này nhằm đáp ứng tốc độ tăng trưởng phụ tải điện trong giai đoạn 2026 - 2030, dự kiến đạt từ 10,3% - 12,5%/năm.
Cơ cấu nguồn điện trong đề án mới có nhiều thay đổi đáng chú ý. Trong đó, nhiệt điện than được giữ nguyên ở mức 31,055 MW (chiếm 16,9% - 13,1%), còn nhiệt điện sử dụng khí trong nước vẫn duy trì ở mức 10,861 MW. Đáng chú ý, công suất nhiệt điện sử dụng LNG nhập khẩu giảm từ 13,576 MW xuống còn 8,824 MW do tiến độ các dự án chậm trễ.
Đáng chú ý, Đề án điều chỉnh nhấn mạnh sự phát triển của các nguồn năng lượng tái tạo, bao gồm thủy điện, điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối và hệ thống lưu trữ năng lượng.
Đồng thời đưa ra lộ trình phát triển điện hạt nhân nhằm đảm bảo nguồn điện chạy nền cho hệ thống. Trong giai đoạn 2030 - 2035, Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2 với công suất 6.000 – 6.400 MW sẽ được vận hành. Đến năm 2050, hệ thống sẽ bổ sung thêm 4.500 – 5.000 MW tại miền Bắc và khoảng 3.000 MW tại miền Trung, chủ yếu là các lò phản ứng mô-đun nhỏ (SMR).
Ngoài ra, Việt Nam cũng sẽ tăng cường nhập khẩu điện với tổng công suất khoảng 9.360 MW, tăng gấp đôi so với quy hoạch trước đó. Hoạt động xuất khẩu điện dự kiến đạt từ 5.000 – 10.000 MW, với điều kiện đảm bảo hiệu quả kinh tế và an ninh năng lượng quốc gia.
Tại cuộc họp, Phó Thủ tướng Chính phủ Bùi Thanh Sơn nhấn mạnh: “Để đảm bảo cung ứng điện các năm tới với mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở mức “2 con số”, việc rà soát, đánh giá khả năng phát triển các loại hình nguồn điện, điều chỉnh cơ cấu nguồn điện đặc biệt giai đoạn đến năm 2030, trong đó ưu tiên phát triển nguồn điện có thời gian thực hiện nhanh để kịp thời đáp ứng nhu cầu phụ tải, đặc biệt tại khu vực phía Bắc là cần thiết”.
Cổ phiếu tiềm năng
Theo ông Nguyễn Thế Minh, Giám đốc Nghiên cứu phân tích CTCK Yuanta Việt Nam, việc điều chỉnh Quy hoạch điện VIII mở ra nhiều cơ hội phát triển cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió và điện mặt trời.
Các doanh nghiệp ngành điện sẽ có cơ hội tăng trưởng mạnh mẽ, mở ra nhiều cơ hội đầu tư hấp dẫn trên thị trường chứng khoán
Chính phủ hiện đang tập trung tháo gỡ các rào cản về cơ chế để thúc đẩy các dự án năng lượng tái tạo, giúp các doanh nghiệp nhanh chóng đưa các dự án vào vận hành. Một số doanh nghiệp niêm yết có kinh nghiệm phát triển các dự án điện gió, điện mặt trời và sẽ hưởng lợi trực tiếp từ đề án này có thể kể đến như:
Thứ nhất, CTCP Đầu tư Năng lượng Trường Thành (TTA), sở hữu nhiều dự án điện gió và điện mặt trời đã đi vào vận hành, đồng thời tiếp tục mở rộng các dự án mới để đón đầu làn sóng phát triển năng lượng tái tạo.
Thứ hai, CTCP Cơ điện lạnh (REE) với danh mục đầu tư đa dạng trong lĩnh vực thủy điện, điện gió và điện mặt trời, REE được kỳ vọng sẽ tăng trưởng mạnh nhờ sự hỗ trợ của chính sách.
Thứ ba, CTCP Điện Gia Lai (GEG) là doanh nghiệp tiên phong trong lĩnh vực năng lượng tái tạo với nhiều dự án điện mặt trời và điện gió đã hoạt động ổn định.
Ngoài ra, các doanh nghiệp như CTCP Bamboo Capital (BCG), CTCP Xây lắp Điện 1 (PC1), CTCP Tập đoàn Hà Đô (HDG) cũng được đánh giá là những lựa chọn hấp dẫn khi cơ chế hỗ trợ phát triển điện tái tạo được khơi thông.
“Đề án điều chỉnh Quy hoạch điện VIII không chỉ đảm bảo nguồn cung điện ổn định cho nền kinh tế đang phát triển nhanh của Việt Nam mà còn thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang các nguồn năng lượng sạch và bền vững. Với sự hỗ trợ từ các chính sách ưu đãi của Chính phủ, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực điện gió, điện mặt trời và lưu trữ năng lượng sẽ có cơ hội tăng trưởng mạnh mẽ, mở ra nhiều cơ hội đầu tư hấp dẫn trên thị trường chứng khoán.
Trong bối cảnh đó, các cổ phiếu như TTA, REE và GEG được đánh giá là những lựa chọn tiềm năng cho các nhà đầu tư muốn đón đầu xu hướng phát triển của ngành điện Việt Nam”, ông Minh chia sẻ.
Có thể thấy các doanh nghiệp tiêu biểu trong ngành điện đều đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển và cung cấp năng lượng cho nền kinh tế. Tuy nhiên, nhà đầu tư cần cân nhắc các yếu tố rủi ro liên quan đến chi phí nguyên liệu và khả năng vận hành của các dự án lớn.
Quốc hội chốt cơ thế đặc thù điện hạt nhân Ninh Thuận, cổ phiếu điện bùng nổ
Trên thị trường chứng khoán, cổ phiếu nhóm điện bùng nổ trong phiên giao dịch hôm nay, SJG và REE bật tăng hết biên độ, SBH tăng 3,09%; GEG tăng 1,54%; TV2 tăng 4,9%; SD5 tăng 6,9%...
Sáng nay 19/2, Quốc hội đã biểu quyết thông qua nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù đầu tư xây dựng dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Nghị quyết được thông qua với 459 đại biểu tán thành (bằng 96,03%), đồng ý việc triển khai các cơ chế, chính sách đặc biệt cho dự án điện hạt nhân Ninh Thuận.
Theo đó, dự án được triển khai đồng thời với việc đàm phán với đối tác đã ký kết điều ước quốc tế hoặc với các đối tác khác để ký kết điều ước quốc tế về hợp tác xây dựng, cấp tín dụng, song song với quá trình phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư và phê duyệt dự án đầu tư.
Thủ tướng Chính phủ sẽ giao chủ đầu tư thực hiện các dự án, được áp dụng hình thức chỉ định thầu theo quy trình rút gọn đối với gói thầu chìa khóa trao tay xây dựng nhà máy chính với nhà thầu trong điều ước quốc tế; các gói thầu tư vấn quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư và thực hiện dự án; thẩm định công nghệ, an toàn, an ninh, kiểm tra.
Dự án phải được áp dụng các quy chuẩn, tiêu chuẩn, quy phạm và hướng dẫn kỹ thuật do đối tác thực hiện, bảo đảm nội dung áp dụng phù hợp với điều kiện Việt Nam. Tiêu chuẩn này không thấp hơn quy chuẩn, tiêu chuẩn của Việt Nam và phù hợp với tiêu chuẩn về an toàn và hướng dẫn về an ninh của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA).
Trên thị trường chứng khoán, cổ phiếu nhóm điện bùng nổ trong phiên giao dịch hôm nay, SJG và REE bật tăng hết biên độ, SBH tăng 3,09%; GEG tăng 1,54%; TV2 tăng 4,9%; SD5 tăng 6,9%...
Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, ban đầu được Quốc hội phê duyệt vào năm 2009 với tổng công suất 4.000 MW, đã bị tạm dừng vào năm 2016 do các yếu tố khách quan. Tuy nhiên, vào cuối tháng 11/2024, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết đồng ý tiếp tục chủ trương đầu tư dự án này.
Theo kế hoạch, Chính phủ sẽ bố trí nguồn lực để khởi động lại dự án điện hạt nhân Ninh Thuận theo kết luận của cấp có thẩm quyền. Dự án bao gồm hai nhà máy, mỗi nhà máy có công suất 2.000 MW, dự kiến được xây dựng tại tỉnh Ninh Thuận.
Việc tái khởi động dự án điện hạt nhân nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ điện ngày càng tăng, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và góp phần vào mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính. Việt Nam dự kiến sẽ thảo luận với các đối tác nước ngoài như Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp và Hoa Kỳ về việc phát triển các nhà máy điện hạt nhân này.
Dự án phải được triển khai và hoàn thành công tác đầu tư trong vòng 5 năm, với mục tiêu hoàn thành chậm nhất vào ngày 31/12/2031 và phấn đấu hoàn thành trước ngày 31/12/2030. Việc tái khởi động dự án điện hạt nhân Ninh Thuận nhằm đa dạng hóa nguồn cung cấp điện và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ điện ngày càng tăng cao.
Trong giai đoạn trước, một số doanh nghiệp của Việt Nam đã tham gia vào quá trình triển khai Dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận. Cụ thể, CTCP Tư vấn Xây dựng Điện 2 (HOSE: TV2) đã thực hiện các công tác khảo sát tại hai địa điểm dự kiến xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2. Ngoài ra, TV2 cũng đã tham gia vào giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi của dự án, đóng góp vào việc lập kế hoạch và đánh giá ban đầu cho việc xây dựng các nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận.
Tổng công ty Sông Đà (UPCOM: SJG) và các đơn vị thành viên đã tích cực tham gia vào quá trình chuẩn bị và xây dựng các nhà máy điện hạt nhân: Năm 2011, Sông Đà 5 (HNX: SD5) đã ký hợp đồng với Công ty NIAEP của Liên bang Nga để tham gia xây dựng Nhà máy Điện hạt nhân Rostov. Dự án này có quy mô 4 tổ máy với tổng công suất 4.000 MW, trong đó 2 tổ máy đã vận hành và 2 tổ máy dự kiến hoàn thành vào năm 2015. Việc tham gia dự án này giúp Sông Đà 5 tích lũy kinh nghiệm trong thi công nhà máy điện hạt nhân.
Năm 2013, Tổng công ty đã cử 50 cán bộ đầu tiên sang Nga để học về quản lý và vận hành nhà máy điện hạt nhân. Các cán bộ này được bố trí làm việc tại lò máy số 3 và số 4 thuộc Nhà máy điện hạt nhân Rostov ở thành phố Volgodonsk. Đây là một phần trong chương trình hợp tác với Công ty Cổ phần NIAEP thuộc Tập đoàn Rosatom của Nga, nhằm đào tạo khoảng 1.000 kỹ sư và công nhân cho đến năm 2015.
交易股票、貨幣、商品、期貨、債券、基金等金融工具或加密貨幣屬高風險行為,這些風險包括損失您的部分或全部投資金額,所以交易並非適合所有投資者。
做出任何財務決定時,應該進行自己的盡職調查,運用自己的判斷力,並諮詢合格的顧問。本網站的內容並非直接針對您,我們也未考慮您的財務狀況或需求。本網站所含資訊不一定是即時提供的,也不一定是準確的。本站提供的價格可能由造市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他財務決定均應完全由您負責,並且您不得依賴通過網站提供的任何資訊。我們不對網站中的任何資訊提供任何保證,並且對因使用網站中的任何資訊而可能造成的任何交易損失不承擔任何責任。
未經本站書面許可,禁止使用、儲存、複製、展現、修改、傳播或分發本網站所含數據。提供本網站所含數據的供應商及交易所保留其所有知識產權。