行情
新聞
分析
使用者
快訊
財經日曆
學習
數據
- 名稱
- 最新值
- 前值
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
無匹配數據
最新觀點
最新觀點
最近更新
港股投資的風險預警
儘管香港法律體系和監管框架相對健全,但港股市場仍存在一些特定的風險和挑戰,如港幣與美元掛鉤,外地投資者可能會面臨匯率波動;中國內地的政策變化和經濟狀況對港股的影響等 。
投資港股費用架構與稅務
港股市場的交易成本包括總投資成本為買賣股票的交易費用、印花稅、結算費用等,對於外地投資者,可能會涉及兌換港幣所產生匯率轉換費用,以及依照所在地的相關法規需繳納的稅款。
港股產業分析:非必需消費產業
港股市場非必需消費產業涵蓋汽車、教育、旅遊、餐飲、服飾等多個領域,在643家上市公司中35%為中國內地公司,佔總市值的65%,因此受中國經濟影響深遠。
港股產業分析:地產建築業
地產建築業在港股指數中的份額近年來已明顯下降,但截至2022年,它依然在市場上佔有約10%的份額。 包含了房地產開發、建築工程、房地產投資和物業管理等各個方面。
中國·香港
越南·胡志明
杜拜
奈及利亞·拉各斯
埃及·開羅
查看所有搜尋結果
暫無數據
Vietbank triển khai tăng vốn điều lệ lên 7.139 tỷ đồng, công bố danh sách cổ đông sở hữu từ 1% vốn điều lệ
Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín (Vietbank) vừa công bố thông tin về việc tăng vốn điều lệ lên 7.139 tỷ đồng thông qua việc phát hành cổ phiếu để trả cổ tức với tỷ lệ 25%. Bên cạnh đó, Vietbank cũng công bố danh sách cổ đông nắm giữ từ 1% vốn điều lệ của ngân hàng, gồm 25 cổ đông là tổ chức và cá nhân.
Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín (Vietbank) vừa công bố thông tin về việc triển khai tăng vốn điều lệ lên 7.139 tỷ đồng thông qua việc phát hành cổ phiếu để trả cổ tức từ lợi nhuận giữ lại. Theo đó, ngân hàng sẽ chia cổ tức năm 2024 bằng cổ phiếu với tỷ lệ 25%, đây là mức chi trả khá cao so với mặt bằng chung của thị trường. Kế hoạch tăng vốn điều lệ là một trong những điều kiện quan trọng để Vietbank củng cố và nâng cao năng lực tài chính theo đúng lộ trình cam kết với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, bảo đảm hệ số an toàn vốn (CAR) theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, từ đó mở rộng quy mô, năng lực cạnh tranh và đáp ứng kế hoạch phát triển mạng lưới giao dịch. Việc tăng vốn dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2024.
Mở đầu cho chiến lược mở rộng mạng lưới giao dịch với mục tiêu 5 chi nhánh mới trong 2024, vào ngày 26/9, Vietbank chính thức khai trương chi nhánh Bắc Ninh, chi nhánh đầu tiên trong kế hoạch khai trương 05 chi nhánh mới năm 2024. Hiện tại, ngân hàng có 120 điểm giao dịch, bao gồm 26 chi nhánh và 94 phòng giao dịch. Đến cuối năm 2024, dự kiến con số này tăng lên 132 điểm giao dịch với 30 chi nhánh và 102 phòng giao dịch. Điều này khẳng định cam kết của Vietbank trong việc không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, đồng thời đưa ngân hàng đến gần hơn với người dân trên khắp cả nước.
Bên cạnh đó, Vietbank cũng công bố danh sách cổ đông nắm giữ từ 1% vốn điều lệ theo Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi có hiệu lực từ ngày 1/7/2024. Danh sách này gồm có 25 cổ đông là các tổ chức và cá nhân. Trong đó, ông Dương Nhất Nguyên - Chủ tịch HĐQT và những người có liên quan trong gia đình là nhóm cổ đông gắn bó lâu năm, nắm giữ số lượng cổ phiếu lớn nhất với tỷ lệ sở hữu 11,89%.
Việc công bố danh sách cổ đông nói trên là quy định mới của Luật Các tổ chức tín dụng. Theo đó, cổ đông sở hữu từ 1% vốn điều lệ trở lên của tổ chức tín dụng cần cung cấp cho tổ chức tín dụng các thông tin của mình và người liên quan bao gồm cả thông tin về số lượng, tỷ lệ sở hữu cổ phần của mình và người có liên quan tại tổ chức tín dụng đó.
Năm 2024, Vietbank đặt mục tiêu lợi nhuận trước thuế 1.050 tỷ đồng, tăng 29% so với 2023; tổng tài sản đạt 150.000 tỷ đồng; huy động vốn đạt 116.000 tỷ đồng; tổng dư nợ cho vay 95.000 tỷ đồng. Ngân hàng đặt mục tiêu mở rộng thị phần, tăng trưởng quy mô tổng tài sản cả về chất và lượng, kiểm soát nợ xấu dưới 3% theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng cũng hướng tới mục tiêu năm 2025 đưa tổng tài sản lên mức 170.000 tỷ đồng, huy động vốn thị trường 1 đạt 135.000 tỷ đồng; tổng dư nợ 110.000 tỷ đồng; vốn điều lệ lên mức 10.000 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế 1.600 tỷ đồng, nợ xấu được kiểm soát dưới 3% theo quy định.
Nhiều năm qua, bên cạnh việc triển khai hiệu quả các hoạt động kinh doanh, Vietbank luôn thể hiện trách nhiệm với cộng đồng xã hội thông qua các hoạt động an sinh xã hội. Trước những thiệt hại nặng nề do bão số 3 (bão Yagi) gây ra trong thời gian gần đây, Vietbank đã nhanh chóng ban hành các giải pháp hỗ trợ tài chính thiết thực, đồng hành cùng cộng đồng vượt qua khó khăn sau bão. Cụ thể, ngân hàng giảm lãi suất vay từ 0,5% đến 1,2%/năm đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi bão lũ, hỗ trợ giảm bớt gánh nặng tài chính, tạo điều kiện thuận lợi để người dân phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra, Vietbank cũng tổ chức các hoạt động gây quỹ thiện nguyện từ cán bộ, nhân viên với số tiền quyên góp đạt hơn 1,8 tỷ đồng để ủng hộ người dân các tỉnh miền Bắc chịu ảnh hưởng bởi bão Yagi. Hoạt động thu hút gần 2.600 CBNV Vietbank tham gia tại 119 điểm giao dịch, bằng cả hình thức trực tuyến và trực tiếp.
Ngân hàng gian nan tăng vốn
Để phấn đấu nâng chuẩn lên Basel III, đòi hỏi các ngân hàng phải tăng mạnh hơn nữa các chỉ tiêu về vốn và các tiêu chuẩn về giám sát rủi ro. Một trong những biện pháp mà các ngân hàng đang đẩy mạnh là tăng vốn cấp 1 và vốn cấp 2, bên cạnh việc gia tăng chất lượng tín dụng và hoạt động quản trị rủi ro.
Tính tới cuối quí 2-2024, vốn điều lệ của 27 ngân hàng niêm yết trên ba sàn chứng khoán HSX, HNX và UpCom đạt trên 717.000 tỉ đồng, tăng 6,7% so với cuối năm 2023. Ảnh: LÊ VŨ
Nỗ lực tăng vốn của ngân hàng nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn ngày càng cao
Để đáp ứng các tiêu chí an toàn vốn ngày càng cao theo tiêu chuẩn Basel II và Basel III và một số quy định về tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn, các ngân hàng đã và đang thực hiện đồng thời một số biện pháp sau:
Thứ nhất, giữ lại lợi nhuận để tăng vốn và/hoặc phát hành thêm cổ phiếu ra bên ngoài để tăng vốn.
Thứ hai, phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) dài hạn nhằm tăng vốn cấp 2.
Thứ ba, nâng cao chất lượng quản trị, giảm rủi ro nợ xấu và tập trung cho vay với ngành nghề ưu tiên có hệ số rủi ro thấp.
Tuy nhiên, mỗi một biện pháp đều có những khó khăn và thách thức riêng buộc các ngân hàng phải linh hoạt áp dụng để vừa đảm bảo mục tiêu tăng trưởng, vừa đảm bảo mục tiêu nâng cao chất lượng.
Tăng vốn không phải câu chuyện dễ với hầu hết ngân hàng
Tính tới cuối quí 2-2024, vốn điều lệ của 27 ngân hàng niêm yết trên ba sàn chứng khoán HSX, HNX và UpCom đạt trên 717.000 tỉ đồng, tăng 6,7% so với cuối năm 2023. Cụ thể, Techcombank tăng 100%, PGB tăng 40%, VBB tăng 19,6%, ACB tăng 15%, SGB tăng 10% và BAB tăng 7,5%. Tuy nhiên, trong đó chỉ có duy nhất VBB là tăng vốn từ việc phát hành cổ phiếu ưu đãi ra bên ngoài với tỷ lệ 21% (tăng vốn thành công với mức tăng 19,6%). Còn lại, các ngân hàng khác đều tăng vốn từ việc chi cổ tức bằng cổ phiếu, nghĩa là không làm thay đổi các chỉ tiêu an toàn vốn hay tỷ lệ vốn yêu cầu khác.
Hơn nữa, ngay cả việc tăng vốn điều lệ từ nguồn lợi nhuận chưa phân phối thôi cũng không phải là dễ dàng đối với nhóm ngân hàng quốc doanh. Việc chậm tăng vốn từ lợi nhuận giữ lại do chưa nhận được sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền khiến cho sự chênh lệch vốn điều lệ giữa nhóm ngân hàng quốc doanh với nhóm ngân hàng tư nhân thu hẹp đáng kể. Nếu xét về vốn điều lệ, hiện nay Techcombank là ngân hàng tư nhân có vốn điều lệ cao nhất toàn hệ thống, đạt hơn 70.000 tỉ đồng, cao hơn Vietcombank đang ở mức hơn 55.000 tỉ đồng.
Vietcombank đã công bố kế hoạch chia cổ tức bằng cổ phiếu từ lợi nhuận còn lại lũy kế đến năm 2022, nhưng đến nay vẫn chưa nhận được sự chấp thuận từ cơ quan có thẩm quyền. Nếu tăng vốn thành công thì vốn điều lệ của Vietcombank có thể tăng lên 74.000 tỉ đồng và trở thành ngân hàng có vốn điều lệ cao nhất toàn hệ thống.
Tương tự, BIDV cũng đã thông qua phương án phát hành thêm gần 1,2 tỉ cổ phiếu để trả cổ tức năm 2022, tương ứng tỷ lệ 21% số cổ phiếu đang lưu hành vào cuối năm 2023 và dự kiến chi tiếp 12.347 tỉ đồng để chia cổ tức bằng cổ phiếu từ lợi nhuận năm 2023, nhưng chưa được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
VietinBank đã trình cổ đông phương án sử dụng toàn bộ lợi nhuận sau khi trích lập các quỹ của năm 2023 là hơn 13.900 tỉ đồng để chia cổ tức bằng cổ phiếu, tăng vốn điều lệ và đang chờ cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Mặc dù việc thông qua phương án tăng vốn điều lệ cho ngân hàng từ lợi nhuận giữ lại không giúp cải thiện các hệ số an toàn vốn hay hệ số vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn hiện tại, nhưng nó cho thấy một sự cam kết từ phía cổ đông sẽ giữ lại lợi nhuận để gia tăng năng lực vốn trong tương lai.
Song song với việc tăng vốn từ lợi nhuận giữ lại, các ngân hàng cũng đang lên kế hoạch phát hành riêng lẻ ra bên ngoài để tăng năng lực vốn. Ví dụ, Vietcombank có kế hoạch phát hành riêng lẻ 6,5% vốn cho cổ đông chiến lược, hay BIDV dự kiến phát hành riêng lẻ 165 triệu cổ phiếu. Hay như trước đó, VPB đã thực hiện chào bán 15% vốn cho nhà đầu tư chiến lược là Ngân hàng Sumitomo Mitsui Banking Corporation (SMBC). Việc cam kết tiếp tục dùng lợi nhuận giữ lại để tăng vốn và tăng vốn thông qua bán vốn ra bên ngoài mới thực sự giúp cho tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng cải thiện.
Tăng vốn từ phát hành trái phiếu của các ngân hàng vẫn đang chiếm áp đảo
Theo số liệu từ Hiệp hội Trái phiếu Việt Nam, tổng số TPDN phát hành lũy kế trong bảy tháng đầu năm 2024 đạt hơn 183.000 tỉ đồng, tăng 131,7% so với cùng kỳ. Trong đó, phát hành riêng lẻ đạt hơn 168.400 tỉ đồng, tăng 169,4% so với cùng kỳ và phát hành ra công chúng đạt hơn 14.500 tỉ đồng, giảm 11,5% so với cùng kỳ.
Xét theo nhóm ngành phát hành thì trái phiếu do các ngân hàng phát hành vẫn chiếm áp đảo, đạt khoảng 123.000 tỉ đồng, chiếm khoảng 67,2% tổng số lượng TPDN được phát hành. Đáng chú ý là tỷ trọng trái phiếu ngân hàng phát hành tiếp tục tăng trong tổng số TPDN được phát hành, năm 2023 đạt 51,9%, năm 2022 đạt 50,8% và năm 2021 đạt 30%.
Sau khủng hoảng TPDN năm 2022, khối lượng TPDN phát hành giảm mạnh, nhưng tỷ trọng trái phiếu ngân hàng phát hành ngày càng tăng, điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng nổi bật có một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, nhu cầu đầu tư với trái phiếu ngân hàng vẫn cao. Điều này xuất phát từ sức khỏe tài chính của ngân hàng tốt hơn các ngành nghề khác và do đó trái phiếu ngân hàng vẫn được các tổ chức trung gian tài chính chấp nhận giao dịch.
Thứ hai, nhu cầu tăng vốn cấp 2 ngày càng lớn. Nhu cầu này nhằm đáp ứng quy định về tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn theo Thông tư 08/2020/TT-NHNN. Theo đó, các ngân hàng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải tuân thủ tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn giảm dần tới 30% từ ngày 1-10-2023. Và việc phát hành trái phiếu là một phần trong việc tăng vốn cấp 2 giúp ngân hàng hạ tỷ lệ này.
Nâng cao chất lượng tín dụng để cải thiện các tỷ lệ an toàn vốn
Tăng vốn cấp 1 và vốn cấp 2 là nguồn lực quan trọng để cải thiện các tỷ lệ an toàn vốn (CAR), đáp ứng các tiêu chuẩn cao hơn theo quy định Basel II và Basel III và cải thiện tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước tại Thông tư 08/2020/TT-NHNN.
Tuy nhiên, song song với việc tăng các chỉ tiêu về vốn thì một phần quan trọng nữa chính là nâng cao chất lượng tín dụng và quản trị rủi ro nợ xấu. Nếu như việc tăng vốn giúp cải thiện tử số trong công thức tính hệ số an toàn vốn thì việc tăng cường quản trị rủi ro tín dụng sẽ hạn chế sự hao hụt vốn và góp phần nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng.
Nhiều ngân hàng đua nhau tăng lãi suất huy động
Ngay từ những ngày đầu tháng 9, nhiều ngân hàng đã đẩy mạnh huy động vốn thông qua việc tăng lãi suất huy động. Theo dự báo của nhiều chuyên gia, lãi suất huy động vẫn có dư địa tăng đến hết năm 2024.
Lãi suất huy động rục rịch tăng từ 0,1 -0,8%
Trong những ngày đầu tháng 9/2024, lãi suất huy động của nhiều ngân hàng (tại các kỳ hạn được khảo sát là: 6, 9, 12, 24 tháng) đã được điều chỉnh với mức dao động từ 0,1-0,8% tùy kỳ hạn và ngân hàng.
Mới đây, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) cũng bất ngờ điều chỉnh tăng lãi suất huy động ở một số kỳ hạn. Theo đó, lãi suất huy động kỳ hạn 1-2 tháng tăng thêm 0,2%/năm lên 2%/năm. Lãi suất huy động trực tuyến kỳ hạn 3-5 tháng tăng 0,3%/năm, lên 2,5%/năm. Lãi suất ngân hàng kỳ hạn 6-9 tháng được điều chỉnh tăng nhẹ 0,1%/năm, lên 3,3%/năm.
Cách đây khoảng một tháng, “ông lớn” này cũng là ngân hàng duy nhất trong nhóm Big4 tăng lãi suất huy động.
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) mới đây đã phát hành 5.000 tỷ đồng chứng chỉ tiền gửi, kỳ hạn 7 năm, lãi suất 7,1% cố định trong năm đầu tiên. Lãi suất các năm tiếp theo sẽ được điều chỉnh linh hoạt theo thị trường.
Cụ thể, Sacombank tăng lãi suất 0,4% ở kỳ hạn 6 và 9 tháng, đưa lãi suất kỳ hạn 6 tháng là 4,2%/năm; kỳ hạn 9 tháng là 4,3%/năm; kỳ hạn 12 tháng là 4,9%/năm.
Về chứng chỉ tiền gửi của Sacombank có mệnh giá 1 triệu đồng, tiền gốc được thanh toán một lần khi đến hạn và tiền lãi được trả định kỳ mỗi năm. Điểm đáng chú ý là người mua chứng chỉ tiền gửi Sacombank được rút một phần hoặc toàn bộ vốn trước hạn, được chuyển nhượng, cầm cố để vay vốn với lãi suất ưu đãi…
Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương tín (VietBank) cũng vừa tiếp tục tăng lãi suất huy động các kỳ hạn ngắn. Theo đó, lãi suất huy động trực tuyến kỳ hạn 1-4 tháng tăng thêm 0,2%/năm. Hiện lãi suất huy động kỳ hạn 1 tháng tại ngân hàng này là 3,8%/năm, kỳ hạn 2 tháng 3,9%/năm, kỳ hạn 3 tháng 4%/năm, kỳ hạn 4 tháng 4,1%/năm.
Trước đó, trong tháng 8, đã một số ngân hàng tăng lãi suất huy động với mức tăng dao động trong khoảng 0,1-0,8%, bao gồm: Eximbank, HDBank, Sacombank, Saigonbank, TPBank, CB, VIB, Dong A Bank, Techcombank, VietBank, SHB, PVCombank, Cake by VPBank và Nam A Bank.
Số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho thấy, tăng trưởng tín dụng tính đến ngày 16/8 tăng 6,25% so với cuối năm 2023. Trước đó, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống ngân hàng đến hết quý II đạt 6,1%, nhưng đến cuối tháng 7 chỉ còn tăng 5,66% so với cuối năm 2023.
Như vậy, tín dụng đã phục hồi trở lại vào nửa đầu tháng 8/2024. Đây sẽ là cơ sở quan trọng để các ngân hàng có thể tiếp tục đà tăng lãi suất huy động trong những tháng cuối năm.
Lãi suất huy động vẫn có dư địa tăng
Trong báo cáo triển vọng vĩ mô mới đây, Công ty cổ phần Chứng khoán KBSV kỳ vọng lãi suất huy động có thể tăng thêm 0,5% từ nay tới cuối năm.
Theo KBSV, NHNN cũng đã đưa ra thông báo điều chỉnh hạn mức tín dụng cho các ngân hàng đã hoàn thành 80% chỉ tiêu tín dụng được cấp đầu năm. Điều này, một lần nữa cho thấy kỳ vọng về tín hiệu đảo chiều chính sách của Fed, DXY suy giảm để củng cố sự tự tin cho NHNN duy trì chính sách nới lỏng.
KBSV dự phóng lãi suất huy động sẽ tăng 30-50 điểm trong những tháng còn lại của năm 2024 do thanh khoản hệ thống được hỗ trợ từ những động thái của NHNN; áp lực tỷ giá suy giảm; mặt bằng lãi suất cho vay có thể tăng nhẹ nhưng vẫn được duy trì ở mức thấp theo chủ trương hỗ trợ nền kinh tế, thúc đẩy nhu cầu tín dụng của NHNN.
Báo cáo phân tích mới nhất của Công ty cổ phần Chứng khoán MB (MBS) chỉ ra nguyên nhân các ngân hàng tăng lãi suất huy động và thu hút vốn qua các kênh khác như chứng chỉ tiền gửi lãi suất cao là nhằm nâng cao tính cạnh tranh của kênh tiết kiệm so với các kênh đầu tư khác.
Nhóm phân tích MBS cho rằng lãi suất tiền gửi đi lên còn do tín dụng tiếp tục tăng khi nhu cầu vốn thường tăng tốc mạnh trong những tháng cuối năm
Nhóm chuyên gia từ Công ty cổ phần Chứng khoán Vietcombank cho biết, mặc dù lãi suất huy động đang có xu hướng tăng dần lên từ mức đáy, mặt bằng lãi suất hiện tại vẫn đang thấp hơn mức trung bình 3 năm trước giai đoạn dịch Covid-19 là 5,05%/năm. Áp lực tăng lãi suất có thể từ quý IV, kỳ vọng cả năm lãi suất có thể tăng từ 0,5-1%.
Tại cuộc họp báo thường kỳ Chính phủ mới đây, Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú đánh giá lãi suất huy động tăng nhưng lãi suất cho vay giảm, điều đó đồng nghĩa các ngân hàng thương mại đã chia sẻ với doanh nghiệp rất nhiều. Mặc dù tiền gửi phải tăng lên để trả lãi suất cao hơn cho người gửi nhưng tiền cho vay lại giảm thì chênh lệch giữa đầu vào và đầu ra sẽ thu hẹp.
NVB, BAB, SGB, VBB ghi nhận tỷ lệ nợ có vấn đề hình thành mới cao
Theo VIS Rating, rủi ro tài sản và khả năng sinh lời của ngành ngân hàng nhìn chung vẫn ổn định, các ngân hàng nhỏ phải đối mặt với nhiều vấn đề về nợ xấu và thanh khoản.
Báo cáo của VIS Rating 6 tháng đầu năm 2024 cho biết, tỷ lệ nợ có vấn đề của ngành ngân hàng vẫn giữ ổn định so với quý trước ở mức 2,2%, các ngân hàng nhỏ suy giảm chất lượng tài sản nhiều nhất. Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân (ROAA) của các ngân hàng tăng nhẹ lên 1,6% trong 6 tháng đầu năm 2024 từ mức 1,5% trong năm 2023, nhờ tăng trưởng tín dụng doanh nghiệp mạnh mẽ hơn và biên lãi ròng (NIM) cao hơn.
Một số ngân hàng nhỏ sẽ dễ bị tổn thương hơn trước rủi ro thanh khoản do tăng nguồn vốn thị trường ngắn hạn trong bối cảnh tăng trưởng tiền gửi thấp. VIS Rating kỳ vọng chất lượng tài sản và lợi nhuận của các ngân hàng sẽ giữ ổn định trong nửa sau của năm 2024 nhờ việc cải thiện điều kiện kinh doanh.
Các ngân hàng nhỏ suy giảm chất lượng tài sản rõ rệt nhất. NVB, BAB, SGB, VBB ghi nhận tỷ lệ nợ có vấn đề (NPL) hình thành mới cao hơn so với các ngân hàng khác, chủ yếu từ phân khúc bán lẻ và SME. Trong số các ngân hàng quốc doanh (SOB), tỷ lệ nợ có vấn đề của CTG và BID tăng lên do lĩnh vực liên quan đến xây dựng và bất động sản.
Một số ngân hàng lớn đã giảm nợ có vấn đề bằng cách sử dụng dự phòng để xử lý trái phiếu VAMC như VPB hoặc giảm nợ có vấn đề từ khách hàng lớn như MBB. Tỷ lệ NPL hình thành mới của TPB duy trì ở mức thấp nhờ vào việc thắt chặt điều kiện cho vay đối với các khoản vay tiêu dùng mới. Chúng tôi kỳ vọng môi trường lãi suất thấp và các biện pháp chính sách nhằm hỗ trợ hoạt động kinh doanh ở nhiều lĩnh vực khác nhau sẽ giúp tăng khả năng trả nợ và giúp giảm các khoản nợ quá hạn.
Các ngân hàng tư nhân lớn hưởng lợi nhiều nhất từ việc tăng trưởng tín dụng cao hơn và NIM cải thiện. TCB, HDB, VPB, LPB ghi nhận mức tăng trưởng cho vay cao hơn mức 7,7% của trung bình ngành trong 6 tháng năm 2024, dẫn dắt bởi cho vay khách hàng doanh nghiệp (KHDN) trong các lĩnh vực liên quan đến bất động sản, thương mại và sản xuất.
NIM của các ngân hàng này đã tăng từ 30-60 điểm cơ bản, dẫn đến ROAA cao hơn mức trung bình ngành, đạt trung bình 2,2%. Thu phí đã tăng ở một số ngân hàng, bao gồm TCB, LPB và TPB. Ngược lại, lợi nhuận của các ngân hàng tập trung vào bán lẻ như VIB, OCB giảm do tăng trưởng cho vay mua nhà kém khả quan, thu nhập từ đầu tư thấp hơn và chi phí dự phòng cao hơn.
Các chuyên gia của VIS Rating kỳ vọng, ROAA của ngành sẽ tiếp tục được hưởng lợi từ nhu cầu vay vốn mạnh mẽ của các doanh nghiệp, sự cải thiện cho vay mua nhà khi nguồn cung nhà ở mới ra thị trường hồi phục, cũng như NIM ổn định bởi lãi suất thấp.
Quy mô vốn của hầu hết các ngân hàng suy giảm trong 6 tháng năm 2024. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu chung hữu hình (TCE) toàn ngành giảm 0,3 điểm cơ bản so với quý trước, do một số ngân hàng lớn như VPB, MBB, ACB, TCB trả cổ tức tiền mặt cho cổ đông.
“Chúng tôi kỳ vọng quy mô vốn của các ngân hàng sẽ tiếp tục ở mức thấp trong nửa năm sau của 2024 do kế hoạch huy động vốn cổ phần mới hạn chế. Ngoài ra, tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLCR) của ngành giảm xuống 82% từ mức 89% trong 3 tháng đầu năm 2024, với SOB như CTG, BID ghi nhận sự sụt giảm đáng kể nhất do tỷ lệ nợ có vấn đề cao hơn. Ngược lại, LLCR của một số ngân hàng tư nhân tăng lên nhờ cải thiện chất lượng tài sản như MBB, TPB và tăng trích lập dự phòng như OCB”, báo cáo của VIS Rating cho biết.
Tỷ lệ cho vay trên tiền gửi (LDR) toàn ngành tăng, các ngân hàng nhỏ có mức tăng trưởng tiền gửi thấp và phải bù đắp bằng tăng nguồn vốn thị trường ngắn hạn. Tỷ lệ tiền gửi CASA của ngành giữ ổn định ở mức 20% tổng dư nợ cho vay. MBB duy trì tỷ lệ này cao nhất nhờ vào việc tiếp tục tăng trưởng tiền gửi cá nhân trên mức trung bình của ngành.
LDR của toàn ngành tăng lên 106% trong 6 tháng năm 2024 từ mức 104% trong 3 tháng đầu năm 2024. Trong số các ngân hàng nhỏ, ABB và BVB gặp khó khăn trong việc tăng trưởng tiền gửi do cạnh tranh huy động ngày càng gay gắt và phải tăng sử dụng nguồn vay liên ngân hàng ngắn hạn để hỗ trợ tăng trưởng cho vay. Trong khi đó, tài sản thanh khoản chiếm 21% tổng tài sản ngành, không thay đổi so với quý trước.
“Tài sản thanh khoản của các ngân hàng nhỏ đã giảm 6% trong 6 tháng năm 2024, trái ngược với mức tăng 5% của ngành. Vì vậy, chúng tôi cho rằng các ngân hàng nhỏ này sẽ dễ bị tổn thương hơn trước rủi ro thanh khoản”, VIS Rating lưu ý.
Chuyển sàn và cơ hội với cổ phiếu “vua”
Nửa cuối năm nay, một số ngân hàng sẽ xem xét tình hình thị trường để triển khai kế hoạch đưa cổ phiếu lên sàn niêm yết đã được cổ đông thông qua.
Làn sóng chuyển sàn
Trong ngành ngân hàng, hiện có 7 ngân hàng TMCP đang giao dịch cổ phiếu trên thị trường UPCoM, gồm VietABank, ABBank, Kienlongbank, VietBank, PGBank, SaigonBank và BVBank.
Theo kế hoạch, Saigonbank (mã SGB) sẽ đưa cổ phiếu lên niêm yết trên HOSE, hoặc HNX trong năm 2024. Ông Vũ Quang Lãm, Chủ tịch Hội đồng quản trị Saigonbank cho hay, hiện các chỉ số tài chính của Saigonbank đã đáp ứng điều kiện niêm yết trên HOSE, Ngân hàng đã ký hợp đồng với công ty tư vấn. Tuy vậy, theo ông Lãm, “đây là quá trình dài và phức tạp”.
Năm nay, VietBank (mã VBB) cũng có kế hoạch niêm yết cổ phiếu VBB trên sàn HOSE. Thực tế, kế hoạch này đã được đại hội đồng cổ đông VietBank thông qua trong mùa đại hội trước.
Theo giải thích của lãnh đạo VietBank, việc niêm yết cổ phiếu VBB trên HOSE trong năm 2023 sẽ không phản ánh đúng giá trị cổ phiếu và đảm bảo quyền lợi của cổ đông, vì vậy, Ngân hàng chưa thực hiện việc niêm yết cổ phiếu VBB như kế hoạch trước đó.
Mục tiêu của VietBank khi chuyển sàn HOSE là nâng cao vị thế, uy tín trên thị trường, thu hút thêm nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh, cải thiện năng lực hoạt động và khả năng cạnh tranh của Ngân hàng.
VietABank (mã VAB) cũng cho biết sẽ đưa cổ phiếu lên sàn niêm yết khi điều kiện thị trường thuận lợi và theo đúng trình tự, thủ tục của pháp luật. Việc lựa chọn niêm yết trên sàn HOSE, hay HNX sẽ do Hội đồng quản trị Ngân hàng quyết định và sau khi được Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận. VietABank kỳ vọng sẽ hoàn thành mục tiêu niêm yết trong năm 2024.
BVBank (mã BVB) đã trình cổ đông thông qua việc chuyển sàn từ UPCoM sang HOSE. Trước đó, kế hoạch này đã được đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2023 thông qua nhưng Ngân hàng chưa thực hiện do bối cảnh thị trường không thuận lợi.
Trong năm 2024, BVBank dự báo nền kinh tế có triển vọng khởi sắc và tình hình kinh doanh năm 2024 của sẽ phục hồi, do đó, Ngân hàng tiếp tục trình phương án niêm yết cổ phiếu trên HOSE.
Đồng thời, năm nay, Ngân hàng tăng vốn điều lệ thêm gần 890 tỷ đồng, nâng vốn điều lệ lên tối đa 6.408 tỷ đồng bằng hình thức phát hành cổ phiếu ra công chúng và phát hành cổ phiếu ưu đãi cho người lao động (ESOP).
Ông Đào Mạnh Kháng, Chủ tịch ABBank cũng cho biết, Ban lãnh đạo Ngân hàng mong muốn đưa cổ phiếu ABB lên sàn HOSE để huy động vốn thị trường tốt hơn và việc niêm yết giúp quản trị thông tin minh bạch hơn. Theo ông Kháng, việc chuyển sàn phải diễn ra trong điều kiện thuận lợi.
Trong năm 2024, 86,2% tổ chức tín dụng kỳ vọng lợi nhuận trước thuế tăng trưởng dương so với năm 2023.
Bên cạnh đó, vẫn có 11% tổ chức tín dụng lo ngại lợi nhuận tăng trưởng âm trong năm 2024 (cao hơn tỷ lệ 10,1% tổ chức tín dụng kỳ vọng tại kỳ điều tra trước) và 2,8% ước tính lợi nhuận không thay đổi.
Về định giá, tính đến ngày 16/7/2024, cổ phiếu ngành ngân hàng đang được giao dịch ở mức P/E và P/B trailing là 9,71 lần và 1,54 lần, thấp hơn so với P/E và P/B trung bình 3 năm là 10,26 lần và 1,67 lần.
Lãnh đạo các nhà băng cho rằng, việc niêm yết cổ phiếu là cần thiết để mở ra cơ hội huy động vốn, nâng cao năng lực tài chính, sức cạnh tranh, thanh khoản cổ phiếu cũng như thương hiệu trên thị trường, tuy nhiên, khi thị trường thuận lợi thì niêm yết sẽ đem lại lợi ích tốt hơn cho cổ đông.
Theo TS. Lê Anh Tuấn, Giám đốc Khối Chứng khoán, Dragon Capital, các quỹ đầu tư và nhà đầu tư cũng muốn rót vốn vào doanh nghiệp niêm yết.
Đặc biệt, lĩnh vực ngân hàng luôn đòi hỏi tính minh bạch cao nên yêu cầu niêm yết trên sàn HOSE hay HNX là cần thiết. Vì khi niêm yết, đòi hỏi các ngân hàng phải công bố thông tin và các báo cáo tài chính phải được kiểm toán để tăng độ minh bạch của hoạt động ngân hàng.
Cơ hội với cổ phiếu “vua”
Việc chuyển sàn từ UPCoM lên sàn niêm yết sẽ giúp cổ phiếu nâng cao tính minh bạch của doanh nghiệp cũng như tính thanh khoản của cổ phiếu. Chính vì vậy, các cổ phiếu chuyển sàn thường thu hút sự chú ý của nhà đầu tư hơn.
Đáng chú ý, các ngân hàng trong năm nay đồng loạt chia cổ tức bằng tiền và/hoặc chia cổ tức bằng cổ phiếu. HDBank, ACB, Nam A Bank, OCB… đều chia cổ tức theo tỷ lệ trên dưới 25%.
Thậm chí, Techcombank không chỉ chia cổ tức mà còn thưởng cổ phiếu tỷ lệ cao để tăng vốn điều lệ gấp đôi, từ 35.225 tỷ đồng lên 70.450 tỷ đồng. Các nhà băng quy mô vừa và nhỏ cũng không nằm ngoài cuộc đua tăng vốn.
Ngành ngân hàng sẽ tiếp tục là nhóm thu hút dòng tiền trong năm nay và phù hợp với những nhà đầu tư ưa thích nắm giữ trong trung và dài hạn. Thực tế, nhóm cổ phiếu ngân hàng đã thể hiện rõ vai trò nâng đỡ thị trường chứng khoán tại nhiều thời điểm, đặc biệt là khi hoạt động của ngành vẫn ghi nhận lợi nhuận tích cực trong nửa đầu năm.
Đồng thời, tăng trưởng tín dụng dần được cải thiện sẽ tác động lên kết quả kinh doanh của các nhà băng.
Theo số liệu thống kê từ Ngân hàng Nhà nước, trong quý II/2024, tín dụng của ngành ngân hàng đã cho thấy sự cải thiện tích cực, kéo tăng trưởng tín dụng toàn nền kinh tế tính đến cuối tháng 6/2024 lên mức 6% so với cuối năm ngoái, đạt mục tiêu Chính phủ đặt ra trong nửa đầu năm.
Tuy nhiên, theo PGS-TS. Nguyễn Hữu Huân, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, bức tranh lợi nhuận quý II/2024 của các ngân hàng sẽ có sự phân hóa rõ nét.
Trong đó, một số ngân hàng có tiềm lực, triển vọng sẽ có lợi nhuận tăng trưởng vượt trội, lên đến hơn 50% so cùng kỳ năm trước và cũng có nhiều ngân hàng chỉ tăng trưởng ở mức một con số, hoặc tăng trưởng âm.
Ông Huân dự báo, lợi nhuận cả năm 2024 của ngành ngân hàng có thể tăng khoảng 10 -15%. Động lực chính đến từ nhiều yếu tố như hoạt động kinh tế được kỳ vọng hồi phục tích cực hơn trong nửa cuối năm 2024, giúp tăng trưởng tín dụng khởi sắc và giảm căng thẳng về nợ xấu; NIM kỳ vọng cải thiện nhờ chi phí huy động giảm nhanh hơn lãi suất cho vay.
Kết quả điều tra các tổ chức tín dụng vừa được Ngân hàng Nhà nước đưa ra cho thấy, tình hình kinh doanh tổng thể và lợi nhuận trước thuế của các ngân hàng trong quý II/2024 có cải thiện nhưng chưa thực sự rõ nét so với quý I/2024 và chưa đạt được như kỳ vọng của tổ chức tín dụng tại kỳ điều tra trước.
70 - 75,5% tổ chức tín dụng kỳ vọng tình hình kinh doanh sẽ khả quan hơn trong quý III/2024 và cả năm 2024.
Trong năm 2024, 86,2% tổ chức tín dụng kỳ vọng lợi nhuận trước thuế tăng trưởng dương so với năm 2023. Bên cạnh đó, vẫn có 11% tổ chức tín dụng lo ngại lợi nhuận tăng trưởng âm trong năm 2024 (cao hơn tỷ lệ 10,1% tổ chức tín dụng kỳ vọng tại kỳ điều tra trước) và 2,8% ước tính lợi nhuận không thay đổi.
Về định giá, tính đến ngày 16/7/2024, cổ phiếu ngành ngân hàng đang được giao dịch ở mức P/E và P/B trailing là 9,71 lần và 1,54 lần, thấp hơn so với P/E và P/B trung bình 3 năm là 10,26 lần và 1,67 lần.
Cùng với định giá hấp dẫn và tăng trưởng thu nhập kỳ vọng tiếp tục phục hồi, cổ phiếu ngành ngân hàng còn thu hút nhà đầu tư bởi câu chuyện tăng vốn, bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, nâng hạng thị trường và tỷ lệ cổ tức khá đều đặn.
Dựa vào những cơ sở đã đưa ra ở trên, kỳ vọng ngành ngân hàng sẽ tiếp tục là nhóm ngành thu hút dòng tiền trong năm nay và phù hợp với những nhà đầu tư ưa thích nắm giữ trong trung và dài hạn.
Theo bà Bùi Thị Thao Ly, Giám đốc Phân tích Công ty Chứng khoán Shinhan Việt Nam, lợi nhuận doanh nghiệp niêm yết trên HOSE tăng khoảng 11,5% so với cùng kỳ năm trước và ước tính cả năm tăng 15%, chủ yếu nhờ lợi nhuận của ngân hàng duy trì đà tăng và sự phục hồi của lĩnh vực bất động sản nửa cuối năm.
Lãi suất tiền gửi tiếp đà tăng, xuất hiện ngày càng nhiều mức lãi trên 6%/năm
Từ đầu tháng 7 đến nay, thị trường ghi nhận 10 ngân hàng thương mại tăng lãi suất huy động và mốc lãi suất 6% xuất hiện ngày càng nhiều ở các kỳ hạn dài.
Ngân hàng TMCP Kiên Long (Kienlongbank) vừa công bố biểu lãi suất huy động mới áp dụng từ ngày 12/7 với việc điều chỉnh tăng mạnh suất huy động tại tất cả kỳ hạn chính.
Theo biểu lãi suất huy động trực tuyến dành cho khách hàng cá nhân - sản phẩm có lãi suất cao nhất tại ngân hàng này - kỳ hạn từ một đến 3 tháng tăng 0,7%/năm lên 3,7%/năm. Đây là một trong những mức tăng lãi suất mạnh nhất kể từ đầu năm đến nay.
Lãi suất huy động kỳ hạn 6 tháng được tăng thêm 0,5%/năm, lên 5,2%/năm và kỳ hạn 9 tháng tăng mạnh 0,6& lên 5,3%/năm. Lãi suất các kỳ hạn 12 - 15 tháng cũng đồng loạt tăng thêm 0,4-0,6%/năm, lên mức 5,6%/năm.
Trong khi đó, lãi suất các kỳ hạn 18 - 36 tháng chỉ tăng nhẹ 0,1%/năm, được niêm yết ở mức 5,7%/năm.
Trong tuần qua, thị trường chứng kiến thêm Ngân hàng TMCP Việt Nam Thường Tín (VietBank) thay đổi lãi suất, ghi nhận tăng 0,1 - 0,3 điểm % tại tất cả các kỳ hạn.
Biểu lãi suất tiền gửi online của VietBank ghi nhận thay đổi tăng 0,3 điểm % với kỳ hạn một tháng lên 3,4%/năm; kỳ hạn 3 tháng lên 3,6%/năm và kỳ hạn 6 tháng lên 4,9%/năm.
Các kỳ hạn từ 9 đến 36 tháng được ngân hàng này tăng nhe 0,1 điểm % với thay đổi ở kỳ hạn 9 tháng lên 4,7%/năm; kỳ hạn 12 tháng lên 5,3%/năm và kỳ hạn từ 18 đến 36 tháng lên 5,9%/năm.
Ngân hàng TMCP Bản Việt (BVBank) cũng thay đổi lãi suất trong ngày 12/7, theo biểu lãi suất trực tuyến mới, lãi suất huy động các kỳ hạn dưới 6 tháng đồng loạt tăng thêm 0,3%/năm.
Cụ thể, lãi suất ngân hàngkỳ hạn một tháng là 3,7%/năm, kỳ hạn 2 tháng 3,75%/năm, kỳ hạn 3 tháng 3,8%/năm, kỳ hạn 4 tháng 3,85%/năm, kỳ hạn 5 tháng 3,9%/năm.
BVBank tăng thêm 0,2%/năm đối với lãi suất tiền gửi kỳ hạn 6 tháng, lên 5,1%/năm; đồng thời tăng thêm 0,25%/năm lãi suất tiền gửi kỳ hạn 7 tháng, lên 5,2%/năm - trở thành một trong số ít ngân hàng đang áp dụng mức lãi suất trên 5%/năm cho tiền gửi kỳ hạn 6 - 7 tháng bên cạnh NCB, BaoViet Bank, CBBank, ABBank và Eximbank.
Đối với các kỳ hạn dài hơn, BVBank niêm yết lãi suất 8 tháng ở mức 5,3%/năm, tăng 0,2 điểm % so với kỳ hạn cũ. Mức tăng mạnh nhất diễn ra đối với kỳ hạn 9 tháng, tăng 0,45%/năm lên 5,5%/năm, trong khi kỳ hạn 10 tháng cũng tăng mạnh 0,4%/năm để lên mức lãi suất 5,5%/năm.
Lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 11 tháng cũng tăng mạnh 0,45%/năm, lên mức 5,6%/năm, trong khi lãi suất các kỳ hạn 12 và 15 tháng lần lượt là 5,8% và 5,9%/năm sau khi tăng thêm 0,2%.
Với kỳ hạn 18 đến 24 tháng, BVBank đã chính thức gia nhập “câu lạc bộ” nhà băng niêm yết lãi suất huy động từ 6%/năm sau khi tăng thêm 0,2%/năm.
Các ngân hàng khác cũng đang niêm yết mức lãi suất trên 6% bao gồm ABBank với kỳ hạn 12 tháng ở mức 6%/năm - đây cũng là mức lãi suất dẫn đầu thị trường tại kỳ hạn này.
Ngân hàng HDBank hiện đang niêm yết biểu lãi suất kỳ hạn 18 tháng với mốc lãi 6,1%/năm. Mức lãi suất này cũng xuất hiện tại NCB đối với kỳ hạn 18 - 36 tháng.
OceanBank hiện niêm yết mức lãi 6,1%/năm với gói tiền gửi tiết kiệm trực tuyến, kỳ hạn 36 tháng. Theo sau là OCB, SeABank hiện niêm yết lãi suất 6,0%/năm tại cùng kỳ hạn.
Theo thống kê của WiGroup, hiệu suất các kênh đầu tư trong 6 tháng đầu năm lần lượt như sau: Vàng nhẫn 21,34%; cổ phiếu 10,04%; trái phiếu doanh nghiệp 7,84%; vàng SJC 4,03%; USD 3,99%; tiền gửi 2,42% và trái phiếu chính phủ 1,41%.
Trong báo cáo chiến lược mới công bố, Chứng khoán KB Việt Nam (KBSV) cho biết, việc các ngân hàng tăng lãi suất huy động đến từ việc thiếu hụt thanh khoản trên thị trường do những động thái can thiệp ổn định tỷ giá của NHNN.
KBSV nhận định, lãi suất huy động sẽ tiếp tục tăng thêm 0,7 - 1,0 điểm % từ nay cho tới cuối năm, lên mức tương đương vùng đáy Covid-19 giai đoạn 2020 - 2021 do áp lực từ tỷ giá và cầu tín dụng hồi phục.
Cùng chung nhận định, Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) cũng cho rằng lãi suất huy động tăng trở lại là một kịch bản phù hợp dựa trên dự báo về tỷ giá và tăng trưởng tín dụng nhưng mức tăng sẽ không đột biến như 2022 do bối cảnh vĩ mô là khác nhau.
"Năm 2024 còn thiếu những nhân tố gây "shock" về cầu tín dụng và sự thay đổi đột ngột về chính sách tiền tệ như năm 2022 để gây ra sự đột biến về mặt bằng lãi suất. Bên cạnh đó, áp lực rút ròng ngoại tệ sẽ dịu lại đáng kể nếu có thêm hiệu ứng "hội tụ" về lãi suất (FED giảm lãi suất trong khi NHNN tăng lãi suất trong nửa cuối năm)", báo cáo chiến lược mới đây tại VDSC viết.
Vì vậy, chuyên gia VDSC cho rằng mặt bằng lãi suất tăng thêm khoảng 0,5 – 1,0 điểm % để trở về mức trung bình trước dịch là một kịch bản hợp lý.
Ngày 12/06, bà Thái Kiều Hương – Thành viên HĐQT CTCP Chứng khoán Sen Vàng (OTC: GLS) đã hoàn tất mua thêm gần 1.4 triệu cp GLS, nâng sở hữu 15.13% vốn, chính thức trở thành cổ đông lớn. Giao dịch này cũng đồng thời gia tăng sở hữu của nhóm cổ đông liên quan.
Sở hữu thượng tầng tiếp tục biến động
Bà Thái Kiều Hương
Cụ thể, giao dịch được thực hiện bằng hình thức thỏa thuận, với bên mua được công bố là bà Thái Kiều Hương – thành viên HĐQT GLS, còn bên bán là cổ đông Nguyễn Khoa Đức. Sau giao dịch, bà Hương nâng sở hữu từ hơn 668 ngàn cp (tỷ lệ 4.95%) lên hơn 2 triệu cp (tỷ lệ 15.13%), chính thức trở thành cổ đông lớn GLS. Ngược lại, ông Đức giảm sở hữu về 0% và không còn là cổ đông.
Theo tìm hiểu, bà Thái Kiều Hương sinh năm 1973 tại Hà Nội. Hiện bà đang sinh sống tại tòa nhà D’. Le Roi Soleil, quận Tây Hồ, TP Hà Nội.
Bà Hương còn là người có liên quan với Công ty TNHH Thương mại Nông nghiệp Khang An – tổ chức cũng đang nắm giữ 2.7 triệu cp GLS, tương đương 20% vốn. Do đó, sau giao dịch kể trên, tổng sở hữu của nhóm cổ đông này đã lên đến hơn 4.74 triệu cp, tương đương 35.13% vốn điều lệ GLS.
Công ty TNHH Thương mại Nông nghiệp Khang An được thành lập ngày 12/02/2018 với tên Công ty TNHH Sữa dê Ninh Bình, hoạt động chuyên về chăn nuôi dê và cừu, có trụ sở chính đặt tại tòa nhà Xuân Thiện, khu đô thị Xuân Thành, phường Ninh Khánh, TP Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình.
Thời điểm mới thành lập, Công ty có vốn điều lệ 1,000 tỷ đồng với 3 cổ đông sáng lập gồm Công ty TNHH Xuân Thiện Ninh Bình (thành viên thuộc Tập đoàn Xuân Thiện) nắm 98%, CTCP Tư vấn Đầu tư DTH Quốc tế và CTCP Nam Anh Tú chia đều nhau 2% còn lại. Khi này, Công ty do ông Nguyễn Huy Hoàng làm Tổng Giám đốc kiêm đại diện pháp luật.
Tháng 7/2023, Công ty chính thức đổi tên thành Công ty TNHH Thương mại Nông nghiệp Khang An như hiện tại, hoạt động chính chuyển sang sản xuất và chế biến nông sản, rau, củ, quả, trái cây. Cơ cấu sở hữu cũng có sự thay đổi lớn, khi bà Thái Kiều Hương nắm 99% và ông Nguyễn Đức Toàn nắm 1% còn lại. Riêng ông Toàn giữ vai trò Tổng Giám đốc kiêm đại diện pháp luật, nhưng đến tháng 5/2024 được thay thế bởi ông Đỗ Viết Tập.
Trước đó, trong ngày 11/04, bà Hương, Công ty Khang An cùng 2 cá nhân khác gồm ông Hồ Ngọc Bạch và ông Lê Huy Dũng đã nhận chuyển nhượng tổng cộng gần 6.6 triệu cp, tương ứng tỷ lệ 48.53% vốn GLS từ ông Cao Tấn Thành. Ngoài ra, ông Lê Huy Dũng còn nhận thêm hơn 2.2 triệu cp (tỷ lệ 3.7%) từ ông Chu Tuấn An. Sau giao dịch nhóm cổ đông này này nắm 64.86% vốn.
Giao dịch chuyển nhượng vốn của GLS ngày 11/04/2024
Nguồn: Người viết tổng hợpSau giao dịch chỉ vài ngày (15/04/2024), HĐQT GLS thông qua việc miễn nhiệm chức danh Chủ tịch HĐQT của ông Cao Tấn Thành và được thay thế bởi ông Lê Huy Dũng.
Được biết, ông Lê Huy Dũng sinh năm 1967 tại Hà Nội, từng giữ nhiều vai trò quan trọng tại Vietbank (VBB) như Phó Tổng giám đốc, Quyền Tổng Giám đốc, Tổng Giám đốc và Phó Tổng Giám đốc kiêm Giám đốc vùng Hà Nội trong giai đoạn tháng 8/2017 đến tháng 1/2024 . Những năm trước đó, ông kinh qua nhiều vị trí tại hàng loạt ngân hàng như ACB, Đại Á Bank, Vietcombank và Habubank.
Với ông Cao Tấn Thành, lượng lớn cổ phiếu do ông sở hữu được nhận từ 4 cổ đông khác gồm ông Trần Phương, bà Nguyễn Thùy Quyên, bà Phùng Thị Cẩm Nhung và ông Nguyễn Anh Dũng, vào ngày 29/12/2023.
Như vậy, sự đến và rời đi chóng vánh của ông Thành cho thấy cá nhân này rất có thể là người đại diện đứng ra gom cổ phiếu để chuyển nhượng toàn bộ cho nhóm cổ đông mới.
Nguồn: BCTC kiểm toán năm 2023 của GLS
Sen Vàng muốn đổi tên thành Xuân Thiện
Về phần GLS, bên cạnh nhiều biến động thường tầng, nhiều diễn biến cho thấy GLS đang chuyển mình. ĐHĐCĐ thường niên 2024 ngày 15/04 đã thông qua nhiều nội dung quan trọng với hoạt động của Công ty.
Đầu tiên là kế hoạch chào bán riêng lẻ 500 triệu cp cho nhà đầu tư chuyên nghiệp trong quý 2-4/2024, tăng vốn điều lệ thêm 5,000 tỷ đồng. Giá chào bán 10,000 đồng/cp. Phần lớn số tiền thu về sẽ được bổ sung cho hoạt động cho vay ký quỹ (3,000 tỷ đồng), tự doanh (1,800 tỷ đồng).
Kế hoạch sử dụng vốn huy động của GLS
Nguồn: GLSCông ty cũng đang lên kế hoạch bổ sung nghiệp vụ tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán và kinh doanh chứng khoán phái sinh. Hiện tại, GLS chỉ còn nghiệp vụ môi giới và tư vấn đầu tư; mất kết nối với 2 sở giao dịch chứng khoán và đang trong diện kiểm soát.
Một nội dung khác là việc thay đổi trụ sở Công ty từ Lầu 3-4, số 164 Nguyễn Công Trứ, quận 1, TPHCM sang Tòa nhà D’. Le Roi Soleil, quận Tây Hồ, TP Hà Nội - cũng chính là tòa nhà nơi thành viên HĐQT Thái Kiều Hương đang sống.
Ngoài ra, Công ty còn muốn đổi tên thành CTCP Chứng khoán Xuân Thiện, viết tắt là XTSC.
Năm 2024, Công ty xây dựng kế hoạch tập trung vào việc xin ra khỏi diện kiểm soát, khôi phục các nghiệp vụ và kết nối 2 sở. Theo đó, Công ty lên kế hoạch thận trọng gồm doanh thu 5.1 tỷ đồng và lãi trước thuế gần 91 triệu đồng, lần lượt giảm 32% và 90% so với năm trước.
Kế hoạch kinh doanh năm 2024 của GLSĐvt: VNDNguồn: GLS
Huy Khải
FILI
交易股票、貨幣、商品、期貨、債券、基金等金融工具或加密貨幣屬高風險行為,這些風險包括損失您的部分或全部投資金額,所以交易並非適合所有投資者。
做出任何財務決定時,應該進行自己的盡職調查,運用自己的判斷力,並諮詢合格的顧問。本網站的內容並非直接針對您,我們也未考慮您的財務狀況或需求。本網站所含資訊不一定是即時提供的,也不一定是準確的。本站提供的價格可能由造市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他財務決定均應完全由您負責,並且您不得依賴通過網站提供的任何資訊。我們不對網站中的任何資訊提供任何保證,並且對因使用網站中的任何資訊而可能造成的任何交易損失不承擔任何責任。
未經本站書面許可,禁止使用、儲存、複製、展現、修改、傳播或分發本網站所含數據。提供本網站所含數據的供應商及交易所保留其所有知識產權。