行情
新聞
分析
使用者
快訊
財經日曆
學習
數據
- 名稱
- 最新值
- 前值
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
公:--
預: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
公:--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
--
預: --
前: --
無匹配數據
最新觀點
最新觀點
最近更新
港股投資的風險預警
儘管香港法律體系和監管框架相對健全,但港股市場仍存在一些特定的風險和挑戰,如港幣與美元掛鉤,外地投資者可能會面臨匯率波動;中國內地的政策變化和經濟狀況對港股的影響等 。
投資港股費用架構與稅務
港股市場的交易成本包括總投資成本為買賣股票的交易費用、印花稅、結算費用等,對於外地投資者,可能會涉及兌換港幣所產生匯率轉換費用,以及依照所在地的相關法規需繳納的稅款。
港股產業分析:非必需消費產業
港股市場非必需消費產業涵蓋汽車、教育、旅遊、餐飲、服飾等多個領域,在643家上市公司中35%為中國內地公司,佔總市值的65%,因此受中國經濟影響深遠。
港股產業分析:地產建築業
地產建築業在港股指數中的份額近年來已明顯下降,但截至2022年,它依然在市場上佔有約10%的份額。 包含了房地產開發、建築工程、房地產投資和物業管理等各個方面。
中國·香港
越南·胡志明
杜拜
奈及利亞·拉各斯
埃及·開羅
查看所有搜尋結果
暫無數據
Vẫn đi đúng hướng: Chiến lược đầu tư cuối năm
Đánh giá thị trường qua 4 biến số quan trọng nhất: vĩ mô nền kinh tế - yếu tố dòng tiền - vĩ mô ngành nghề - nội tại cổ phiếu.
Nội dung chính:
- Cổ phiếu tấn công - phòng thủ
- Cổ phiếu đi ngược thị trường
Thêm vào đấy, sẽ có những phần phân tích chuyên sâu ngành nghề và doanh nghiệp.
Khuyến nghị mua bán, quản trị danh mục đầu tư.
Bí quyết thành công với cổ phiếu chu kỳ: tận dụng sóng tăng trưởng kinh tế
Cổ phiếu thuộc nhóm ngành chu kỳ thường là chìa khóa thành công của các nhà đầu tư khi nắm bắt đúng thời điểm. Dưới đây là các nhóm ngành tiêu biểu với ví dụ thực tế về sự tăng trưởng trong quá khứ để giúp nhà đầu tư dễ dàng nắm bắt:
1. Nhóm Bất Động Sản
Đặc điểm: Phụ thuộc mạnh vào tăng trưởng kinh tế và lãi suất thấp.
Ví dụ thực tế:
VHM: Tăng hơn 30% từ tháng 7 đến tháng 11/2021 nhờ các dự án bất động sản cao cấp và lãi suất giảm mạnh.
DIG: Tăng gần 200% từ đầu năm 2021 đến cuối năm, nhờ hưởng lợi từ làn sóng đầu tư công và phát triển quỹ đất.
2. Nhóm Xây Dựng và Đầu Tư Công
Đặc điểm: Hưởng lợi từ các gói kích cầu và đầu tư công của Chính phủ.
Ví dụ thực tế:
HBC: Tăng hơn 150% từ quý 4/2020 đến quý 3/2021, nhờ các dự án xây dựng lớn từ các chủ đầu tư bất động sản.
C4G: Tăng hơn 100% từ năm 2021, khi Chính phủ đẩy mạnh đầu tư hạ tầng giao thông.
3. Nhóm Ngân Hàng
Đặc điểm: Phụ thuộc vào tín dụng và tăng trưởng kinh tế.
Ví dụ thực tế:
VCB: Tăng hơn 50% từ quý 4/2020 đến quý 3/2021 nhờ tăng trưởng tín dụng mạnh.
BID: Tăng gần 80% từ tháng 10/2020 đến tháng 12/2021, nhờ dòng tiền ngoại mua ròng liên tục.
4. Nhóm Chứng Khoán
Đặc điểm: Nhạy cảm với biến động thị trường chứng khoán.
Ví dụ thực tế:
SSI: Tăng gần 250% từ đầu năm 2021 khi thanh khoản thị trường đạt mức cao kỷ lục.
VND: Tăng hơn 300% trong cùng giai đoạn nhờ xu hướng nhà đầu tư cá nhân tham gia mạnh mẽ.
5. Nhóm Năng Lượng và Hóa Dầu
Đặc điểm: Phụ thuộc vào giá dầu và nhu cầu năng lượng toàn cầu.
Ví dụ thực tế:
GAS: Tăng hơn 40% từ đầu năm 2022 khi giá dầu thế giới vượt mức 100 USD/thùng.
BSR: Tăng gần 80% trong giai đoạn 2021-2022, nhờ hưởng lợi từ giá dầu cao và nhu cầu xăng dầu phục hồi.
6. Nhóm Hàng Tiêu Dùng Không Thiết Yếu
Đặc điểm: Tăng trưởng mạnh khi kinh tế phục hồi, chi tiêu tăng.
Ví dụ thực tế:
MWG: Tăng hơn 50% trong năm 2020 nhờ nhu cầu mua sắm trực tuyến tăng mạnh.
PNJ: Tăng gần 100% từ quý 4/2021 đến quý 3/2022 nhờ nhu cầu vàng và trang sức bùng nổ.
7. Nhóm Vật Liệu Xây Dựng
Đặc điểm: Gắn liền với bất động sản và đầu tư công.
Ví dụ thực tế:
HPG: Tăng hơn 200% từ năm 2020 đến năm 2021 nhờ nhu cầu thép trong xây dựng tăng cao.
HSG: Tăng gần 300% trong cùng giai đoạn, hưởng lợi từ xuất khẩu thép tăng trưởng mạnh.
8. Nhóm Xuất Khẩu (Thủy Sản, Dệt May, Cao Su)
Đặc điểm: Phụ thuộc vào nhu cầu toàn cầu và hiệp định thương mại.
Ví dụ thực tế:
VHC: Tăng hơn 100% trong năm 2021 khi nhu cầu thủy sản tại Mỹ và EU phục hồi.
TCM: Tăng gần 120% từ cuối năm 2020 đến giữa năm 2021, nhờ hưởng lợi từ đơn hàng xuất khẩu dệt may tăng mạnh.
Lời Khuyên Đầu Tư:
Ưu điểm: Nhóm cổ phiếu chu kỳ tăng mạnh khi kinh tế phục hồi, là cơ hội để tối ưu hóa lợi nhuận.
Nhược điểm: Dễ chịu ảnh hưởng trong giai đoạn suy thoái.
Chiến lược: Nhà đầu tư cần theo dõi sát các yếu tố vĩ mô như GDP, lãi suất, giá dầu và chính sách tài khóa để nhận diện thời điểm phù hợp.
"Hãy tận dụng triệt để chu kỳ kinh tế để gia tăng tài sản từ các cổ phiếu chu kỳ hàng đầu!
Bất động sản bất ngờ được dự báo vô địch tăng trưởng lợi nhuận quý 4/2024
Nhóm Bất động sản bất ngờ được dự báo sẽ dẫn đầu mức tăng trưởng lên tới 1.005% so với cùng kỳ, sau đó là hàng không tăng 591%, bán lẻ tăng 162% so với cùng kỳ từ nền thấp cùng kỳ. ..
Chứng khoán MBS vừa đưa ra dự báo lợi nhuận toàn thị trường trong quý 4/2024 với ước tính mức tăng trưởng vượt bậc đạt 25% so với cùng kỳ, đây là mức cao nhất kể từ Q2/2022, được hỗ trợ bởi môi trường lãi suất thấp và sản xuất đang trên đà phục hồi.
Theo đó lợi nhuận cả năm 2024 có thể đạt mức tăng 18% so với mức giảm 4% của năm 2023, đánh dấu một giai đoạn phục hồi và tăng trưởng bắt đầu. Bất động sản bất ngờ dẫn đầu mức tăng trưởng lên tới 1.005% so với cùng kỳ, sau đó là hàng không tăng 591%, bán lẻ tăng 162% so với cùng kỳ từ nền thấp cùng kỳ.
Một số ngành ước tính tăng trưởng lợi nhuận giảm như Khu công nghiệp giảm 14% do còn đợi hoàn thiện khung chính sách hay dầu khí giảm 23% do giá dầu suy giảm so với cùng kỳ.
Cụ thể, với nhóm bất động sản, ở thị trường phía Bắc, theo CBRE, nguồn cung căn hộ mới Q4/2024 sẽ ghi nhận thêm hơn 10.000 căn, là nguồn cung cao nhất trong vòng 5 năm qua, chủ yếu tập trung ở phân khúc cao cấp. Nguồn cung mới thấp tầng tại Hà Nội trong Q4/2024 sẽ có thêm gần 5.000 căn mở bán mới, chủ yếu ở phía Tây và phía Đông của Hà Nội. Nguồn cung mới chủ yếu thuộc phân khúc cao cấp, khiến mặt bằng giá bán bình quân tăng lên.
Ở thị trường phía Nam, nguồn cung căn hộ trong Q4/2024 tại TP.Hồ Chí Minh dự kiến đạt hơn 3.000 căn hộ, tương đương với khoảng 5.000 căn hộ mở bán mới tính chung cho cả năm 2024. Tính đến hết T11/2024, nguồn cung sơ cấp khu vực phía Nam tăng 5,4% so với cùng kỳ, chủ yếu đến từ TP.Hồ Chí Minh và Bình Dương, lần lượt chiếm 60,6% và 35,7%.
Nguồn cung thấp tầng Q4/2024 dự kiến ghi nhận 300 căn mở bán mới, góp phần đưa tổng nguồn cung cả năm nay đạt gần 600 căn, chủ yếu đến từ các dự án mới nằm tại rìa khu Đông và khu Tây thành phố nên giá bán dự kiến thấp hơn giá trung bình của thị trường.
Ngoài ra, tín hiệu tích cực từ việc gỡ mắc pháp lý sẽ giúp tái khởi động nhiều dự án cũ. Kết quả kinh doanh Q4/24 các doanh nghiệp bất động sản sẽ có sự tăng trưởng mạnh, một phần đến từ mức nền thấp cùng kỳ, một phần đến từ khả năng bàn giao tại các dự án lớn.
Các doanh nghiệp bất động sản phía Bắc như VHM sẽ có thể ghi nhận lợi nhuận cao từ việc bàn giao các đại dự án như Royal Island, Ocean Park 2&3 trong khi các doanh nghiệp bất động sản phía Nam sẽ ghi nhận lợi nhuận từ việc bàn giao tại một số dự án nổi bật như Privia (KDH), Akari (NLG), Gem Sky World (DXG).
Dự báo lợi nhuận quý 4/2024 của các doanh nghiệp bất động sản.
Trong đó, VHM được dự báo lợi nhuận tăng 1.775%. Lợi nhuận tăng trưởng đột biến trên mức nền thấp cùng kỳ năm ngoái nhờ ghi nhận lợi nhuận từ dự án Royal Island, OCP2&3, Grand Park và Golden Avenue.
KDH lợi nhuận dự báo tăng 555%, tăng trưởng đột biến nhờ bàn giao khoảng 400 căn thuộc dự án Privia so với số ít sản phẩm thuộc Classia cùng kì; DXG lợi nhuận tăng 168% nhờ bàn giao khoảng 200 lô đất nền tại Gem Sky World và chi phí tài chính giảm 30% so với cùng kỳ trong bối cảnh lãi suất duy trì ở mức thấp. NLG dự báo lợi nhuận tăng 67% nhờ bàn giao khoảng 450 căn thuộc dự án Akari (so với khoảng 200 căn thuộc dự án Southgate và Izumi cùng kì năm 2023).
Ngành Bất động sản khu công nghiệp trên đà khởi sắc trở lại. Dòng vốn FDI có dấu hiệu chững lại trong thời gian gần đây do nhà đầu tư nước ngoài đang chờ đợi chính sách mới dưới thời Tổng thống Mỹ Trump và chính sách hỗ trợ đầu tư từ Chính phủ Việt Nam để ra quyết định đầu tư.
Kết quả kinh doanh trong Q4/2024 của các doanh nghiệp Bất động sản Khu công nghiệp có sự phân hóa nhưng nhìn chung vẫn tích cực. Đối với SZC, lợi nhuận ròng có thể tăng 71% so với cùng kỳ trong Q4/24 nhờ bàn giao đất cho khách hàng đã ký thuê từ đầu năm. Đối với IDC và BCM, trong Q4/24, lợi nhuận ròng có thể giảm từ mức nền cao của cùng kỳ năm ngoái, lần lượt giảm 69% và 49% so với cùng kỳ.
Còn với KBC, kết quả kinh doanh quý 4/2024 tăng trưởng đột biến 440% trên mức nền thấp cùng kỳ năm ngoái nhưng, nhìn chung cả năm, kết quả kinh doanh gây thất vọng do tiến độ bàn giao đất chậm, các dự án trọng điểm chưa hoàn thiện pháp lý như kế hoạch công ty đặt ra.
MBS: VN-Index dự kiến đạt 1.400 - 1.420 điểm trong năm 2025
MBS kỳ vọng VN-Index sẽ đạt 1.400 – 1.420 trong năm 2025 với kịch bản lợi nhuận doanh nghiệp tăng trưởng 18% và định giá 12,5 - 13 lần P/E. VN-Index hiện đang giao dịch ở mức P/E TTM là 13.5, thấp hơn mức trung bình 3 năm (13.8x) và giảm 20% so với đỉnh 3 năm (16.7x vào Q4/21)...
Theo thống kê của MBS, Viễn thông, Hàng hóa công nghiệp và Công nghệ là các ngành có diển biến tốt nhất trong năm 2024.
Thanh khoản thị trường tăng tốc trong nửa đầu năm 2024, theo đà tăng của chỉ số, nhưng sau đó giảm xuống còn khoảng 15.000 tỷ đồng mỗi phiên giao dịch trong giai đoạn tháng 10 – tháng 12. Tính cho cả năm, giá trị giao dịch trung bình hàng ngày trên HOSE đạt 21.500 tỷ đồng tăng khoảng 23% so với cùng kỳ năm trước.
Việt Nam nằm trong số các thị trường mới nổi ghi nhận dòng vốn đầu tư nước ngoài rút ròng kể từ đầu năm 2024. Nhà đầu tư nước ngoài ghi nhận mức bán ròng kỷ lục hơn 3,3 tỷ USD trên toàn thị trường. Tốc độ rút ròng của khối ngoại tại Việt Nam chỉ thua mỗi Trung Quốc và Thái Lan.
MBS kỳ vọng VN-Index sẽ đạt 1.400 – 1.420 trong năm 2025 với kịch bản lợi nhuận doanh nghiệp tăng trưởng 18% và định giá 12,5 - 13 lần P/E. Tính đến ngày 5 tháng 12, VN-Index đang giao dịch ở mức P/E TTM là 13.5, thấp hơn mức trung bình 3 năm (13.8x) và giảm 20% so với đỉnh 3 năm (16.7x vào Q4/21).
Xét theo nhóm ngành, nhiều nhóm ngành đang có định giá P/E thấp hơn so với trung bình 3 năm gần nhất, mở ra nhiều cơ hội đầu tư tích lũy các cổ phiếu của các doanh nghiệp đầu ngành.
MBS đưa ra 8 chủ đề đầu tư cho năm 2025. Đầu tiên là Bất động sản nhà ở khởi động chu kỳ phát triển mới. Một chu kỳ mới đang bắt đầu dựa trên 3 yếu chính: lãi suất thấp – cải thiện cơ sở hạ tầng – thay đổi khung pháp lý. Ngành bất động sản nhà ở hiện đang giao dịch với mức định giá tương đối thấp so với triển vọng phục hồi tích cực
Tăng tốc giải ngân Đầu tư công: Năm 2025 đánh dấu năm cuối cùng thực hiện kế hoạch đầu tư trung hạn 2021-2025, Chính phủ đã đề ra mục tiêu đầu tư đầy tham vọng là 790.7 nghìn tỷ VND (30,8 tỷ USD). Với dự báo giải ngân đầu tư sẽ đạt khoảng 85% kế hoạch, giá trị sẽ tăng 24 – 31% so với năm 2024. Ngoài nhóm doanh nghiệp xây dựng hạ tầng, thép, đá, sẽ là những nhóm ngành được hưởng lợi.
Những câu chuyện riêng của ngành ngân hàng: MBS tin rằng chính sách tiền tệ nới lỏng toàn cầu và tăng trưởng cầu tiêu dùng nội địa (bao gồm cả sản xuất khối doanh nghiệp trong nước ) sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngành ngân hàng đẩy mạnh tín dụng và tăng chất lượng tài sản.
Hiệu ứng từ các gói kích thích kinh tế của Trung Quốc: Tác động tích cực đến một số hàng hóa cơ bản đại diện cho sự phục hồi kinh tế của Trung Quốc như cao su, hóa chất, đồng, nickel.
Tiêu thụ điện năng tăng lên: Vào năm 2025, nền kinh tế quốc gia dự kiến sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. Theo đó, Bộ Công Thương đã đặt ra một kịch bản cơ sở cho tăng trưởng tiêu thụ điện ở mức cao 11-12%, vượt qua cả kịch bản cao trong PDP8, dự báo 9.8%. Từ năm 2025-2030, tăng trưởng nhu cầu dự kiến duy trì tỷ lệ tăng trưởng hàng năm kép (CAGR) cao khoảng 9.1%.
Chính sách Trump 2.0 vẫn chưa chắc chắn và có thể sẽ ảnh hưởng đến các ngành xuất khẩu của Việt Nam, nhưng bất động sản công nghiệp có khả năng là ngành hưởng lợi lớn nhất dù có nhiều thách thức.
Sự xuất hiện của các ngành công nghiệp mới: Việt Nam có vị thế tốt để nắm bắt cơ hội từ các ngành công nghiệp mới, ví dụ: trung tâm dữ liệu, công nghệ 5G và chất bán dẫn. Ngoài nhóm ngành công nghệ được hưởng lợi trực tiếp, nhu cầu tiêu thụ điện và nhu cầu thuê bất động sản khu công nghiệp sẽ tăng mạnh.
Câu chuyện nâng hạng của thị trường chứng khoán Việt Nam đang dần trở thành hiện thực: Các cổ phiếu vốn hóa lớn và có sẵn room cho nhà đầu tư nước ngoài và các công ty chứng khoán sẽ là các nhóm được hưởng lợi.
Dự báo yếu tố "kìm chân" khiến ngân hàng khó cải thiện NIM năm 2025
Theo NHNN, tổng lượng tiền gửi tính đến 7/12 đạt khoảng 14,8 triệu tỷ đồng, tăng 7,36% so với đầu năm), chậm hơn đáng kể so với mức tăng trưởng tín dụng là 12,5%.
MBS dự báo NIM của các ngân hàng khó có thể tăng đáng kể năm 2025. Bởi trong khi lãi suất huy động khó có thể duy trì ở mức thấp, chịu nhiều áp lực tăng dần, thì các ngân hàng có thể vẫn tiếp tục hạ lãi suất cho vay trong 6-9 tháng tới vì nhiều nguyên do.
Trong báo cáo chiến lược Vững bước tiến tới “kỷ nguyên vươn mình” vừa phát hành, Công ty cổ phần Chứng khoán MB (MBS) dự báo các ngân hàng sẽ tiếp tục hạ lãi suất cho vay trong 6-9 tháng tới để hỗ trợ khách hàng vì nhu cầu tín dụng vẫn chưa phục hồi hoàn toàn.
Việc phục hồi chậm của các khoản vay mua nhà, do nguồn cung bất động sản bị hạn chế, chủ yếu làm chậm lại hoạt động vay bán lẻ vào năm 2024 và xu hướng này có thể kéo dài trong 06 tháng tới, làm giảm thêm lợi suất tài sản của các ngân hàng vào năm 2025.
Hội tụ ba yếu tố, tăng trưởng tín dụng sẽ vượt trội
Tính riêng quý III/2024, biên lãi thuần (NIM) của các ngân hàng niêm yết giảm 4 điểm cơ bản theo quý và giảm 15 điểm cơ bản so với năm 2023, đạt 3,37%. Nhìn chung, hầu hết các ngân hàng đều ghi nhận mức giảm NIM trong 9 tháng năm 2024, trong đó MB và VIB có mức giảm lớn nhất lần lượt là 119 điểm cơ bản và 113 điểm cơ bản so với năm 2023.
Cũng theo MBS, lãi suất huy động duy trì ở mức thấp và nhu cầu tín dụng bán lẻ yếu trong nửa đầu năm khuyến khích các ngân hàng giảm lãi suất cho vay trong quý III/2024.
Hơn nữa, Thông tư 06/2023/TT-NHNN yêu cầu các ngân hàng thương mại phải công bố lãi suất cho vay mới, thúc đẩy tính minh bạch. Chính sách này làm tăng cường cạnh tranh giữa các ngân hàng, góp phần làm giảm đáng kể lãi suất cho vay vào quý III/2024.
Ngoài ra, tác động của cơn bão Yagi thúc đẩy các ngân hàng liên tục hạ lãi suất và tung ra các gói vay ưu đãi để hỗ trợ doanh nghiệp và cá nhân trong quý III/2024.
Tính đến 7/12, tín dụng toàn hệ thống tăng trưởng 12,5% so với đầu năm, nhanh hơn so với cùng kỳ năm ngoái và tiến gần mục tiêu 14-15% của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho cả năm. Nhờ tốc độ giải ngân đầu tư công mạnh mẽ và nhu cầu tín dụng cao hơn của quý 4, nhóm nghiên cứu cho rằng mức tăng trưởng 14-15% là khả thi.
Nhìn nhận các yếu tố thúc đẩy hoạt động tín dụng năm 2025, MBS chỉ rõ sự phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam vào năm 2025 được thúc đẩy bởi sự phục hồi của hoạt động sản xuất và thương mại, nhờ nhu cầu trong và ngoài nước tăng lên. Điều này dựa trên việc NHNN duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng vào năm 2025.
"Thúc đẩy đầu tư công mạnh mẽ hơn trong năm 2025 dự kiến sẽ tạo việc làm và hỗ trợ nhu cầu tín dụng, phù hợp với mục tiêu phục hồi kinh tế và triển khai các dự án cơ sở hạ tầng lớn của Việt Nam trong giai đoạn 2021-2025" - MBS đánh giá.
Trong đó, các ngân hàng có hội tụ đủ ba điều kiện sẽ có mức tăng trưởng tín dụng cao hơn vào năm 2025. Một là, những nhà băng sử dụng hiệu quả và tối đa hạn mức tín dụng trong năm 2024 sẽ có lợi thế cạnh tranh trong việc đảm bảo hạn mức tín dụng tương đương cho năm tài chính 2025.
Hai là, tăng trưởng chi phí dự phòng và cải thiện chất lượng tài sản. Việc tăng cường chi phí trích lập dự phòng trong năm 2024, cùng với chất lượng tài sản cải thiện sẽ giảm bớt áp lực gia tăng của NPL (nợ xấu) trong năm 2025 khi tăng trưởng tín dụng bán lẻ phục hồi.
Ba là, sự phục hồi mạnh mẽ của NIM trong năm 2024 sẽ cho phép các ngân hàng có thêm dư địa giảm lãi suất cho vay, mang lại lợi thế quan trọng trong việc mở rộng tín dụng vào năm 2025.
Tăng trưởng huy động thua xa tín dụng kích hoạt cuộc đua lãi suất
Còn về tăng trưởng huy động, theo MBS, tính đến hết tháng 9 năm 2024, tổng cung tiền (M2) đạt 16,949 nghìn tỷ đồng, tăng 5.94% so với đầu năm. Tiền gửi cá nhân tăng mạnh hơn ở mức 6,5%, cao hơn tiền gửi doanh nghiệp (tăng 3,4% so với đầu năm).
Đáng chú ý, M2 trong tháng 9 năm 2024 ghi nhận mức tăng trưởng 1,75% so với tháng trước, được thúc đẩy bởi chính sách tiền tệ linh hoạt của NHNN và việc các ngân hàng vừa và nhỏ tăng lãi suất huy động kể từ tháng 4 năm 2024 để cải thiện tăng trưởng tiền gửi.
Tổng số dư tiền gửi của các ngân hàng niêm yết tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, LPBank, MSB và Sacombank dẫn đầu tăng trưởng huy động trong số các ngân hàng, đạt mức ấn tượng lần lượt là 14,3%; 12,2% và 11%.
Theo ghi nhận, lãi suất tiền gửi bắt đầu tăng trở lại vào tháng 4 do việc rút dần tiền gửi của công chúng khỏi hệ thống ngân hàng khiến huy động khó khăn.
Xu hướng tăng trở nên rõ rệt hơn từ tháng 6, khi tăng trưởng tín dụng tăng tốc từ 3,4% vào cuối tháng 5 lên 6,1% vào cuối tháng 6. Tăng trưởng tín dụng vượt xa tăng trưởng huy động từ 2-3 lần thúc đẩy cuộc cạnh tranh tăng lãi suất tiền gửi, với một số ngân hàng vượt quá 6%/năm tại một số thời điểm.
Tính đến cuối tháng 11, lãi suất tiền gửi bình quân kỳ hạn 12 tháng của các ngân hàng thương mại ở mức 5%, tăng 14 điểm cơ bản so với đầu năm. Trong khi đó, lãi suất tại các ngân hàng thương mại nhà nước vẫn ở mức 4,7%, thấp hơn 26 điểm cơ bản so với đầu năm.
Dự báo về mặt bằng lãi suất tiền gửi, MBS cho rằng lãi suất huy động sẽ tăng thêm 20 điểm cơ bản vào cuối năm, dao động trong khoảng 5,1-5,2% do tăng trưởng tín dụng đang tăng nhanh gần gấp đôi so với huy động vốn.
Nhiều nhóm cổ phiếu đang có định giá thấp hơn trung bình 3 năm
Trong báo cáo mới đây, MBS cho rằng kinh tế vĩ mô vững chắc, chính sách hỗ trợ tích cực, các nút thắt pháp lý được tháo gỡ, môi trường lãi suất thuận lợi kết hợp với yếu tăng trưởng lợi nhuận hoạt động kinh doanh sẽ là nền tảng vững chắc một chu kỳ tăng trưởng toàn diện của TTCK trong năm tới.
MBS ước tính tăng trưởng lợi nhuận của các DN niêm yết đạt 18% - 19% giai đoạn 2025 - 26 đóng góp bởi sự ổn định của ngành ngân hàng, bán lẻ, cũng như từ phục hồi từ đáy của ngành bất động sản, xây dựng. Bên cạnh đó, Việt Nam đang tiến gần hơn đến cơ hội được tham gia vào nhóm các TTCK mới nổi. Kỳ vọng chu kỳ nới lỏng của Mỹ sẽ kích hoạt dòng vốn đầu tư nước ngoài quay trở lại các TTCK mới nổi, trong đó có Việt Nam.
Về định giá, VN-Index đang giao dịch ở mức P/E TTM là 13,5, thấp hơn mức trung bình 3 năm (13,8x) và giảm 20% so với đỉnh 3 năm (16,7x vào Q4/21). Sự phục hồi gần đây của các cổ phiếu vốn hóa vừa và nhỏ đã đưa định giá của VNMID lên mức 17,3x P/E 12 tháng, cao hơn khoảng 17% so với VN-Index.
Thậm chí, các cổ phiếu vốn hóa vừa hiện tại được giao dịch với mức P/B tương đương với các cổ phiếu vốn hóa lớn. Trong khi đó, định giá của các cổ phiếu vốn hóa lớn (đại diện bởi VN30 và VNX50) thấp hơn khoảng 11% so với mức trung bình của thị trường. Đội ngũ phân tích tin rằng định giá cổ phiếu vốn hóa lớn vẫn hấp dẫn hơn khi xét về tiềm năng tăng trưởng lợi nhuận kinh doanh giai đoạn 2025-2026 so với các nhóm cổ phiếu khác.
Xét theo nhóm ngành, nhiều nhóm ngành đang có định giá P/E thấp hơn so với trung bình 3 năm gần nhất, mở ra nhiều cơ hội đầu tư tích lũy các cổ phiếu của các doanh nghiệp đầu ngành. Trong kịch bản cơ sở, với mức tăng trưởng 18% lợi nhuận của các DN niêm yết, và định giá 12,5 – 13 lần P/E MBS kỳ vọng VN-Index sẽ đạt 1.400 – 1.420 trong năm 2025.
VN-Index được dự báo đạt 1.420 điểm năm 2025, cổ phiếu vốn hóa lớn hấp dẫn nhất
Rủi ro cho thị trường là chính sách điều hành khó dự đoán của thời kỳ Trump 2.0 có thể tác động đến triển vọng kinh tế thế giới và Việt Nam
Trong kịch bản cơ sở, với mức tăng trưởng 18% lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết, và định giá 12.5 – 13 lần P/E, kỳ vọng VN-Index sẽ đạt 1.400 – 1.420 trong năm 2025.
Thị trường chứng khoán Việt Nam có khởi đầu thuận lợi trong nửa đầu 2024, nhưng sau đó các lo ngại về tỷ giá và hoạt động bán ròng của nhà đầu tư nước ngoài đã kéo chỉ số chững lại trong nửa cuối năm 2024. Do đó, mức tăng trưởng của VN-Index thấp hơn đà tăng của thị trường chứng khoán toàn cầu nhưng vẫn cao thị trường khu vực ASEAN.
Theo thống kê của MBS, Mid-cap và small-cap tăng lần lượt là 9,8% và 4,1% kể từ đầu năm, thấp hơn so với VN-Index. Dòng tiền đổ vào các cổ phiếu blue-chip đẩy chỉ số VN30 tăng 18, 2%.
Thanh khoản thị trường tăng tốc trong nửa đầu năm 2024, theo đà tăng của chỉ số, nhưng sau đó giảm xuống còn khoảng 15.000 tỷ đồng mỗi phiên giao dịch trong giai đoạn tháng 10 – tháng 12. Tính cho cả năm, giá trị giao dịch trung bình hàng ngày trên HOSE đạt 21.500 tỷ đồng tăng khoảng 23% so với cùng kỳ năm trước.
Năm 2024, MBS dự báo lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết toàn thị trường tăng 18% so với cùng kỳ từ nền thấp của năm 2023. Động lực chính cho sự cải thiện lợi nhuận toàn thị trường đến từ các nhóm ngành như ngân hàng tăng 15%, bán lẻ tăng 230%, vật liệu xây dựng tăng 81% và xuất khẩu tăng 40%.
Trong thời gian tới, nền tảng vĩ mô vững chắc, thể chế cải cách và chính sách tiền tệ thuận lợi sẽ lan tỏa đến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp nghiệp. Lợi nhuận thị trường năm 2025 - 2026 dự báo tăng trưởng lần lượt 18% và 19%, trong đó các ngành ngân hàng +20%/ +24%; vật liệu xây dựng +35%/31%; bất động sản nhà ở +14%/+6%; bán lẻ (27%/26%) và bất động sản công nghiệp 6%/17%.
Trong khi lợi nhuận năm 2024 chủ yếu được thúc đẩy bởi tăng trưởng doanh thu so với nền thấp của năm 2023, việc cải thiện biên lợi nhuận gộp sẽ là yếu tố then chốt cho tăng trưởng năm 2025. Giữa bối cảnh lãi suất giảm, chi phí đầu vào thấp (giá dầu Brent, hàng hóa,...), và mức tăng lương vừa phải, biên lợi nhuận gộp của nhiều ngành sẽ có sự cải thiện đáng kể.
Tính đến ngày 5 tháng 12, VN-Index đang giao dịch ở mức P/E TTM là 13.5, thấp hơn mức trung bình 3 năm (13.8x) và giảm 20% so với đỉnh 3 năm (16.7x vào Q4/21). Trong kịch bản cơ sở, với mức tăng trưởng 18% lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết, và định giá 12.5 – 13 lần P/E, MBS kỳ vọng VN-Index sẽ đạt 1.400 – 1.420 trong năm 2025.
Các yếu tố hỗ trợ cho thị trường gồm: Năm 2025 sẽ đánh dấu sự chuyển mình của nền kinh tế với mục tiêu phát triển đột phá 7 – 8% trong thập kỷ tới; Lợi nhuận thị trường năm 2025 - 2026 dự báo sẽ tăng trưởng lần lượt 18% và 19%, hỗ trợ cho đà tăng của chỉ số; Việt Nam đang tiến gần hơn đến cơ hội được tham gia vào nhóm các thị trường chứng khoán mới nổi; Kỳ vọng chu kỳ nới lỏng của Mỹ sẽ kích hoạt dòng vốn đầu tư nước ngoài quay trở lại các thị trường mới nổi, trong đó có Việt Nam.
Rủi ro cho thị trường là chính sách điều hành khó dự đoán của thời kỳ Trump 2.0 có thể tác động đến triển vọng kinh tế thế giới và Việt Nam, có thể làm chậm lại quá trình cắt giảm lãi suất của FED; Áp lực tỷ giá trong bối cảnh đồng VND yếu; Thị trường bất động sản nhà ở có thể phục hồi chậm hơn dự kiến, tạo gánh nặng lên tài sản đảm bảo của hệ thống ngân hàng.
Sự phục hồi gần đây của các cổ phiếu vốn hóa vừa và nhỏ đã đưa định giá của VNMID lên mức 17.3x P/E 12 tháng, cao hơn khoảng 17% so với VN-Index. Thậm chí, các cổ phiếu vốn hóa vừa hiện tại được giao dịch với mức P/B tương đương với các cổ phiếu vốn hóa lớn. Trong khi đó, định giá của các cổ phiếu vốn hóa lớn đại diện bởi VN30 và VNX50 thấp hơn khoảng 11% so với mức trung bình của thị trường.
MBS tin rằng định giá cổ phiếu vốn hóa lớn vẫn hấp dẫn hơn khi xét về tiềm năng tăng trưởng lợi nhuận kinh doanh giai đoạn 2025-2026 so với các nhóm cổ phiếu khác. Xét theo nhóm ngành, nhiều nhóm ngành đang có định giá P/E thấp hơn so với trung bình 3 năm gần nhất, mở ra nhiều cơ hội đầu tư tích lũy các cổ phiếu của các doanh nghiệp đầu ngành.
交易股票、貨幣、商品、期貨、債券、基金等金融工具或加密貨幣屬高風險行為,這些風險包括損失您的部分或全部投資金額,所以交易並非適合所有投資者。
做出任何財務決定時,應該進行自己的盡職調查,運用自己的判斷力,並諮詢合格的顧問。本網站的內容並非直接針對您,我們也未考慮您的財務狀況或需求。本網站所含資訊不一定是即時提供的,也不一定是準確的。本站提供的價格可能由造市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他財務決定均應完全由您負責,並且您不得依賴通過網站提供的任何資訊。我們不對網站中的任何資訊提供任何保證,並且對因使用網站中的任何資訊而可能造成的任何交易損失不承擔任何責任。
未經本站書面許可,禁止使用、儲存、複製、展現、修改、傳播或分發本網站所含數據。提供本網站所含數據的供應商及交易所保留其所有知識產權。