行情
新闻
分析
用户
快讯
财经日历
学习
数据
- 名称
- 最新值
- 前值
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
公:--
预: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
公:--
预: --
--
预: --
前: --
公:--
预: --
--
预: --
前: --
公:--
预: --
公:--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
无匹配数据
最新观点
最新观点
最近更新
港股投资的风险预警
尽管香港法律体系和监管框架相对健全,但港股市场仍然存在一些特定的风险和挑战,如港币与美元挂钩,外地投资者可能会面临汇率波动;中国内地的政策变化和经济状况对港股的影响等。
投资港股费用结构与税务
港股市场的交易成本包括总投资成本为买卖股票的交易费用、印花税、结算费用等,对于外地投资者,可能会涉及兑换港币所产生汇率转换费用,以及按照所在地的相关法规需缴纳的税款。
港股行业分析:非必需消费行业
港股市场非必需消费行业覆盖汽车、教育、旅游、餐饮、服装等多个领域,在643家上市公司中35%为中国内地公司,占总市值的65%,因此受中国经济影响深远。
港股行业分析:地产建筑业
地产建筑业在港股指数中的份额近年已明显下降,但截2022年,它依然在市场上占有约10%的份额。包含了房地产开发、建筑工程、房地产投资和物业管理等各个方面。
中国·香港
越南·胡志明
阿联酋·迪拜
尼日利亚·拉各斯
埃及·开罗
查看所有搜索结果
暂无数据
5 DN sắp trả cổ tức bằng tiền, cao nhất 20%
5 doanh nghiệp trên sàn chứng khoán sẽ thực hiện việc chi trả cổ tức bằng tiền cho cổ đông với các tỷ lệ hấp dẫn.
1. CTCP Cảng Rau Quả (Mã VGP):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 30/8/2024
- Tỷ lệ cổ tức 2022: 6% (600 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 13/9/2024
2. CTCP Chế tạo Bơm Hải Dương (Mã CTB):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 30/8/2024
- Tỷ lệ cổ tức 2023: 20% (2.000 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 4/10/2024
3. CTCP KASATI (Mã KST):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 6/9/2024
- Tỷ lệ cổ tức 2023: 6% (600 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 30/9/2024
4. CTCP Bao bì đạm Phú Mỹ (Mã PMP):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 10/9/2024
- Tỷ lệ cổ tức 2023: 10% (1.000 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 25/9/2024
5. CTCP Xi măng Quán Triều - VVMI (Mã CQT):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 10/9/2024
- Tỷ lệ cổ tức 2023: 8% (800 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 1/10/2024
Sau 3 quý liên tục thua lỗ, ngành xi măng đã trở lại “mặt đất” khi có lãi trong quý 2/2024. Liệu đây có phải khởi đầu chu kỳ tăng trưởng trở lại của ngành xi măng?
Theo số liệu thống kê từ VietstockFinance của 17 doanh nghiệp xi măng trên sàn chứng khoán đã công bố BCTC từ quý 1/2022 - 2/2024. Ngành xi măng có lãi trở lại sau 3 quý liên tục thua lỗ, đạt hơn 33 tỷ đồng, giảm 9% so với cùng kỳ; trong khi doanh thu đạt 5,935 tỷ đồng, tăng 4%.
Thời gian qua, do ảnh hưởng tình hình thế giới, chiến tranh Trung Đông ngày càng căng thẳng khó lường; trong khi thị trường bất động sản trong nước chưa thực sự khởi sắc, nguồn cung xi măng vượt xa so với nhu cầu; giá nguyên, nhiên liệu đầu vào vẫn ở mức cao. Tiêu thụ trong nước và xuất khẩu sụt giảm, tồn kho tăng cao, một số nhà máy phải giảm năng suất hoặc dừng lò đã khiến nhiều Doanh nghiệp mảng này lao đao, chìm trong thua lỗ.
Doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp xi măng từ quý 1/2022 - quý 2/2024Nguồn: VietstockFinance
Số doanh nghiệp báo lãi đã nhiều hơn
Theo thống kê, trong 17 doanh nghiệp xi măng đã công bố BCTC quý 2/2024, có 4 doanh nghiệp tăng lãi, 3 giảm, 2 lỗ chuyển lãi. Còn lại 8 doanh nghiệp đều thua lỗ với 2 doanh nghiệp lãi chuyển lỗ và 6 tiếp tục thua lỗ.
Tuy vẫn còn nhiều doanh nghiệp lỗ, nhưng số lượng doanh nghiệp báo lãi đã nhiều hơn quý đầu năm (chỉ duy nhất một doanh nghiệp báo lãi).
Dẫn đầu mức tăng trưởng là CTCP VICEM Thương mại Xi măng T với lãi ròng gần 2 tỷ đồng, tăng 30% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, lũy kế 6 tháng, lãi ròng TMX lại giảm 43%, còn hơn 1 tỷ đồng.
Xi măng Sài Sơn S cũng lãi hơn 2 tỷ đồng trong quý 2, tăng 24%, nhờ nhà máy hoạt động ổn định, chi phí nguyên vật liệu đầu vào và chi phí lãi vay giảm do SCJ đã trả vốn trung hạn. Tuy nhiên, giống TMX, lãi ròng 6 tháng SCJ chỉ hơn 2 tỷ đồng, giảm 9%.
Bất chấp nhu cầu xi măng giảm, lãi ròng quý 2 của Xi măng La Hiên VVMI C vẫn tăng 10%, đạt hơn 12 tỷ đồng, nhưng lũy kế 6 tháng, giảm 41% còn 12 tỷ đồng.
Trong bối cảnh các doanh nghiệp cùng ngành ít nhiều có vài quý thua lỗ thời gian qua, riêng CLH đã ngược dòng với duy nhất một lần báo lỗ vào quý 3/2017 (hơn 2 tỷ đồng). CLH cho biết, thị trường bất động sản quý 2/2024 trầm lắng, nhu cầu xi măng suy giảm, mặt khác mưa nhiều nên sản lượng tiêu thụ giảm, đặc biệt giá bán sản phẩm cũng giảm. Tuy nhiên, Công ty đã đưa ra các giải pháp như tăng năng suất thiết bị, tiết kiệm chi phí trong sản suất. Bên cạnh đó, việc sửa chữa các thiết bị chính chủ yếu tập trung trong quý 3/2024, Công ty cũng tiết giảm chi phí tài chính nên giúp lợi nhuận tăng.
Ngoài các doanh nghiệp có lợi nhuận tăng trưởng, còn có thêm 2 cái tên lỗ chuyển lãi là Xi măng Bỉm Sơn B gần 26 tỷ đồng (cùng kỳ lỗ hơn 5 tỷ đồng) và Xi măng Yên Bình V gần 9 tỷ đồng (cùng kỳ lỗ gần 3 tỷ đồng).
KQKD của doanh nghiệp xi măng trong quý 2/2024 (Đvt: Tỷ đồng)Nguồn: VietstockFinance
Nhưng phần lớn vẫn đang bế tắc
Việc tiếp tục lỗ hơn 36 tỷ đồng trong quý 2/2024, Xi măng VICEM Bút Sơn B nối dài chuỗi thua lỗ lên quý thứ 7 liên tiếp (từ quý 4/2022).
Không khá hơn, Xi măng VICEM Hải Vân H cũng 5 quý liên tiếp (từ quý 2/2023) với khoản lỗ ròng gần 10 tỷ đồng. HVX cho biết, sản lượng tiêu thụ xi măng quý 2 giảm gần 48 ngàn tấn (trong đó, clinker là 27.8 ngàn tấn), tương ứng giảm 31% so với cùng kỳ là nguyên nhân chính khiến lợi nhuận giảm.
Quý 2/2024 đánh dấu quý thứ 13 Xi măng Phú Thọ P thua lỗ (từ quý 1/2021), gần 9 tỷ đồng. Lũy kế 6 tháng lỗ 18 tỷ đồng. PTE cho biết, 2024 tiếp tục là một năm khó khăn đối với ngành xi măng, nhu cầu xi măng trên thị trường liên tục sụt giảm cùng với đó là sự cạnh tranh gây gắt đã khiến lợi nhuận giảm.
2 doanh nghiệp khác mới gia nhập nhóm là CTCP Khoáng sản FECON F lỗ ròng hơn 11 tỷ đồng và Xi măng Quán Triều VVMI C lỗ hơn 2 tỷ đồng; trong khi cùng kỳ năm trước lãi lần lượt hơn 5 tỷ đồng và hơn 8 tỷ đồng.
Ông trùm xi măng Hà Tiên có kết quả khả quan hơn khi lãi ròng gần 46 tỷ đồng, giảm 22%. Lãi ròng 6 tháng hơn 21 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ gần 27 tỷ đồng.
Tương tự, Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh Q cũng có lãi quý 2 hơn 27 tỷ đồng, giảm 23%. Nửa đầu năm, QNC lãi gần 33 tỷ đồng, giảm 41%.
KQKD của doanh nghiệp xi măng trong nửa đầu năm 2024 (Đvt: Tỷ đồng)Nguồn: VietstockFinance
Kết quả quý 2 và 6 tháng đầu năm 2024 đã nói lên phần nào các khó khăn, vướng mắc vẫn còn, tiếp tục bám lấy ngành xi măng. Điều này cũng không bất ngờ khi đã được các doanh nghiệp xi măng nhận định và dự báo trước với nhiều kế hoạch 2024 tiếp tục thua lỗ.
Điển hình như Xi măng Bỉm Sơn đưa kế hoạch 2024 lỗ sau thuế gần 159 tỷ đồng, Xi măng VICEM Hoàng Mai H có kế hoạch lỗ gần 104 tỷ đồng, BTS kế hoạch lỗ 111 tỷ đồng.
HT1 và SCJ có vẻ lạc quan hơn khi đặt mục tiêu lãi sau thuế lần lượt hơn 23 tỷ đồng, tăng 31% và hơn 11 tỷ đồng, tăng 42% so với năm 2023. QNC đặt lãi sau thuế đi lùi 57%, đạt 34 tỷ đồng.
Nguồn: VietstockFinance
Về sản lượng, phần lớn doanh nghiệp đều đặt kế hoạch sản xuất tăng trưởng. Trong đó, HT1 dự kiến sản xuất clinker gần 4.1 triệu tấn và xi măng 5.66 triệu tấn, lần lượt tăng 8% và 5% so với năm trước. Hay BCC đặt kế hoạch sản xuất clinker hơn 2.3 triệu tấn, tăng 35% và xi măng (bao gồm gia công) gần 3 triệu tấn, tăng 6%.
Nguồn: VietstockFinance
Chưa đủ để bắt đầu chu kỳ tăng trưởng mới
Theo Bộ Xây dựng, sản xuất clinker và xi măng sụt giảm lớn từ năm 2023 đến nay. Theo đó, tổng sản lượng sản xuất năm qua chỉ đạt 92.9 triệu tấn, tương ứng 75% tổng công suất thiết kế. Tổng sản lượng tiêu thụ 2023 đạt 87.8 triệu tấn, giảm 12% so với năm 2022.
Năm 2023, tiêu thụ xi măng trong nước chỉ đạt 56,6 triệu tấn, giảm hơn 16% năm 2022, đây là mức sụt giảm lớn nhất từ trước đến nay trong lĩnh vực xi măng.
6 tháng đầu năm 2024, tổng sản lượng tiêu thụ clinker và xi măng đạt khoảng 44 triệu tấn, tương đương cùng kỳ. Lượng clinker xuất khẩu cũng chỉ đạt khoảng 5.4 triệu tấn, gần bằng cùng kỳ năm 2023.
Sở dĩ, sản lượng xuất khẩu tiếp tục giảm là do thị trường bất động sản Trung Quốc chưa có dấu hiệu phục hồi, xi măng cũng bị dư thừa và dự báo sẽ cạnh tranh với xi măng Việt Nam vào các thị trường xuất khẩu như Philippines, Trung Mỹ, Nam Phi… Bên cạnh đó, chi phí cước vận tải biển tăng cao, cộng với các quy định về hàng rào kỹ thuật tại phần lớn thị trường xuất khẩu.
Ngoài ra, tình hình tài chính của ngành gặp khó do các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, đặc biệt các doanh nghiệp xi măng đầu tư vốn lớn. Giai đoạn đầu khi mới vận hành nhà máy, các doanh nghiệp phải trả nợ vốn vay, cộng với lãi vay cao, dẫn đến áp lực trả nợ cả gốc và lãi rất lớn. Tiêu thụ chậm, nhiều doanh nghiệp đã phải dừng một số dây chuyền sản xuất, khiến nhóm ngành xi măng sản xuất không hiệu quả, thua lỗ; chưa kể đến tình hình kinh tế thế giới đang khó lường, chiến tranh Trung Đông khắc nghiệt hơn.
Các thông tin trên cho thấy tương lai ngành xi măng vẫn đang bất định, là dấu chấm hỏi đang kiếm lời giải. Dù có nhiều doanh nghiệp có lãi hơn, nhưng như vậy là chưa đủ, chưa thể kết luận được là chu kỳ tăng trưởng mới cho triển vọng ngành xi măng thời gian tới.
Thanh Tú
FILI
Xi măng Quán Triều cho biết ngành xi măng năm 2024 vẫn được xem là chịu nhiều khó khăn, không tiêu thụ được xi măng và clinker. Nhận định này cũng phản ánh kết quả kinh doanh kém sắc của Doanh nghiệp trong quý 1/2024.
Quý 1/2024, CTCP Xi măng Quán Triều VVMI ghi nhận doanh thu thuần gần 120 tỷ đồng, giảm 13% so với cùng kỳ, nhưng giá vốn hàng bán ở mức cao “bào mòn” gần hết lợi nhuận của Doanh nghiệp. Sau khấu trừ, lãi gộp CQT còn hơn 4 tỷ đồng, giảm 81%. Biên lãi gộp cũng giảm từ 17% (cùng kỳ) xuống còn gần 4%.
Điểm sáng trong kỳ là gần như các chi phí đều giảm. Trong đó, chi phí tài chính còn hơn 3 tỷ đồng, giảm 38%; chi phí bán hàng hơn 2 tỷ đồng và chi phí quản lý doanh nghiệp hơn 5 tỷ đồng, lần lượt giảm 8% và 11%. Dù vậy, vẫn chưa đủ để Doanh nghiệp tránh khỏi quý thua lỗ.
Kêt quả, CQT lỗ ròng hơn 6 tỷ đồng, cùng kỳ lãi 9 tỷ đồng.
Nguồn: VietstockFiance
Xi măng Quán Triều cho biết ngành xi măng năm 2024 vẫn được xem là chịu nhiều khó khăn, từ nhu cầu trong nước khó tăng cao, nguồn cung tiếp tục vượt xa cầu, một số dây chuyền mới đi vào sản xuất, thị trường bất động sản vẫn chưa thể sôi động trở lại… Tất cả khó khăn này đưa ngành xi măng vào thế khó là không tiêu thụ được xi măng và clinker. Bên cạnh đó, giá nhiên liệu và vật liệu, điện năng cũng tăng cao.
Theo đó, CQT đặt kết quả kinh doanh 2024 thận trọng với tổng doanh thu hơn 620 tỷ đồng, gần như không thay đổi so với năm 2023; trong khi lãi trước thuế gần 23 tỷ đồng, giảm 25%. So với kế hoạch năm, CQT đi được gần 1/5 chặng đường về chỉ tiêu tổng doanh thu và đang “dậm chân tại chỗ” về chỉ tiêu lãi trước thuế sau quý đầu năm.
Tính đến ngày 31/03/2024, tổng tài sản CQT ở mức hơn 587 tỷ đồng, xấp xỉ đầu năm. Trong đó, Doanh nghiệp nắm gần 12 tỷ đồng tiền và các khoản tương đương tiền, tăng 55%; hàng tồn kho gần 51 tỷ đồng, giảm 12%.
Bên kia bảng cân đối, CQT có nợ phải trả gần 310 tỷ đồng, tăng 2% so với đầu kỳ. Trong đó, tổng nợ vay tài chính ngắn và dài hạn hơn 158 tỷ đồng, chiếm 51% tổng nợ và chiếm 27% nguồn vốn của Doanh nghiệp.
Thanh Tú
FILI
Nhận định ngành xi măng vẫn gặp khó, CQT lỗ trong quý đầu năm
Xi măng Quán Triều cho biết ngành xi măng năm 2024 vẫn được xem là chịu nhiều khó khăn, không tiêu thụ được xi măng và clinker. Nhận định này cũng phản ánh kết quả kinh doanh kém sắc của Doanh nghiệp trong quý 1/2024.
Quý 1/2024, CTCP Xi măng Quán Triều VVMI (UPCoM: CQT) ghi nhận doanh thu thuần gần 120 tỷ đồng, giảm 13% so với cùng kỳ, nhưng giá vốn hàng bán ở mức cao “bào mòn” gần hết lợi nhuận của Doanh nghiệp. Sau khấu trừ, lãi gộp CQT còn hơn 4 tỷ đồng, giảm 81%. Biên lãi gộp cũng giảm từ 17% (cùng kỳ) xuống còn gần 4%.
Điểm sáng trong kỳ là gần như các chi phí đều giảm. Trong đó, chi phí tài chính còn hơn 3 tỷ đồng, giảm 38%; chi phí bán hàng hơn 2 tỷ đồng và chi phí quản lý doanh nghiệp hơn 5 tỷ đồng, lần lượt giảm 8% và 11%. Dù vậy, vẫn chưa đủ để Doanh nghiệp tránh khỏi quý thua lỗ.
Kêt quả, CQT lỗ ròng hơn 6 tỷ đồng, cùng kỳ lãi 9 tỷ đồng.
Nguồn: VietstockFiance
Xi măng Quán Triều cho biết ngành xi măng năm 2024 vẫn được xem là chịu nhiều khó khăn, từ nhu cầu trong nước khó tăng cao, nguồn cung tiếp tục vượt xa cầu, một số dây chuyền mới đi vào sản xuất, thị trường bất động sản vẫn chưa thể sôi động trở lại… Tất cả khó khăn này đưa ngành xi măng vào thế khó là không tiêu thụ được xi măng và clinker. Bên cạnh đó, giá nhiên liệu và vật liệu, điện năng cũng tăng cao.
Theo đó, CQT đặt kết quả kinh doanh 2024 thận trọng với tổng doanh thu hơn 620 tỷ đồng, gần như không thay đổi so với năm 2023; trong khi lãi trước thuế gần 23 tỷ đồng, giảm 25%. So với kế hoạch năm, CQT đi được gần 1/5 chặng đường về chỉ tiêu tổng doanh thu và đang “dậm chân tại chỗ” về chỉ tiêu lãi trước thuế sau quý đầu năm.
Tính đến ngày 31/03/2024, tổng tài sản CQT ở mức hơn 587 tỷ đồng, xấp xỉ đầu năm. Trong đó, Doanh nghiệp nắm gần 12 tỷ đồng tiền và các khoản tương đương tiền, tăng 55%; hàng tồn kho gần 51 tỷ đồng, giảm 12%.
Bên kia bảng cân đối, CQT có nợ phải trả gần 310 tỷ đồng, tăng 2% so với đầu kỳ. Trong đó, tổng nợ vay tài chính ngắn và dài hạn hơn 158 tỷ đồng, chiếm 51% tổng nợ và chiếm 27% nguồn vốn của Doanh nghiệp.
Dù đã có nhiều chính sách tháo gỡ vướng mắc cho thị trường bất động sản nhưng vẫn chưa tác động nhiều đến các doanh nghiệp ngành xi măng. Kết quả kinh doanh với gam màu tối trong quý 4/2023 cho thấy, nhiều doanh nghiệp xi măng vẫn loay hoay tìm lối thoát.
Đua nhau lập kỷ lục về đáy
Thống kê từ VietstockFinance, trong 17 doanh nghiệp xi măng trên sàn chứng khoán đã công bố BCTC quý 4/2023, chỉ có 3 doanh nghiệp lãi tăng và 1 doanh nghiệp lỗ chuyển lãi. Còn lại 13 doanh nghiệp (chiếm 76%) có kết quả kinh doanh không mấy khả quan, gồm: 3 giảm lãi, 5 lãi chuyển lỗ và 5 tiếp tục thua lỗ.
Tổng doanh thu của ngành trong quý 4 giảm 22% so với cùng kỳ, còn 5,484 tỷ đồng. Toàn bộ 17 doanh nghiệp đều giảm. Kết quả lợi nhuận ròng âm 124 tỷ đồng, cùng kỳ lãi 100 tỷ đồng.
Nguồn: VietstockFinance
2023 có lẽ là năm đáng buồn nhất của Xi măng Bỉm Sơn khi lỗ kỷ lục gần 194 tỷ đồng, cùng kỳ lãi 69 tỷ đồng. Tính riêng quý 4, BCC lỗ gần 86 tỷ đồng (chiếm 44% tổng thua lỗ năm 2023).
Lãi ròng BCC từ năm 2006 - 2023
Khó khăn tiếp tục bủa vây Xi măng VICEM Bút Sơn khi lỗ hơn 32 tỷ đồng trong quý 4/2023. Đây là quý thứ 5 liên tiếp doanh nghiệp này kinh doanh thua lỗ, tính từ quý 4/2022.
BTS cho biết, sản lượng tiêu thụ trong quý 4/2023 giảm gần 69 ngàn tấn so với cùng kỳ, khiến lợi nhuận Công ty giảm.
Với việc cả 4 quý không có lợi nhuận, lũy kế cả năm 2023, BTS lỗ hơn 96 tỷ đồng, cùng kỳ lãi gần 54 tỷ đồng. Đây cũng là kết quả kinh doanh tệ nhất của BTS từ năm 2014.
Lãi ròng BTS từ 2014 - 2023
Sau quý 2 và 3 đều thua lỗ, Xi măng VICEM Hải Vân tiếp tục lỗ trong quý 4/2023 với gần 30 tỷ đồng, cùng kỳ lãi gần 250 triệu đồng. Đây là quý HVX kinh doanh tệ nhất kể từ khi niêm yết trên sàn HOSE vào năm 2010.
Xi măng VICEM Hải Vân cho biết, do nhu cầu thị trường xây dựng về xi măng trên địa bàn miền Trung và Tây Nguyên thấp trong quý 4/2023, khiến tổng doanh thu chỉ đạt 56% so với cùng kỳ.
Lũy kế cả năm 2023, Xi măng VICEM Hải Vân đạt doanh thu 512 tỷ đồng, giảm 32%; lỗ hơn 64 tỷ đồng, cùng kỳ lãi gần 2 tỷ đồng. Với kết quả này, thêm một kỷ lục không đáng có nữa được thiết lập khi 2023 là năm HVX lỗ nặng nhất kể từ năm 2010.
Lãi ròng HVX từ 2010 - 2023
Không khá hơn các doanh nghiệp trong ngành, Xi măng VICEM Hoàng Mai cũng lỗ hơn 5 tỷ đồng, cùng kỳ lãi hơn 6 tỷ đồng. Đây cũng là quý thứ 2 liên tiếp HOM lỗ (quý 3/2023 lỗ hơn 26 tỷ đồng).
HOM cho biết, giá bán xi măng nội địa và xuất khẩu trong kỳ lần lượt giảm 72 ngàn đồng/tấn và 113 ngàn đồng/tấn so với cùng kỳ. Đồng thời, giá thu về clinker cũng giảm 135 ngàn đồng/tấn. Bên cạnh đó, giá điện năm 2023 tăng 2 lần (tăng 3% vào ngày 4/5 và 4.5% vào ngày 9/11) cũng làm thu hẹp lợi nhuận của HOM.
Khép lại năm 2023, HOM đạt doanh thu hơn 1,738 tỷ đồng, giảm 16% và lỗ hơn 31 tỷ đồng (cùng kỳ lãi trên 21 tỷ đồng). Kết quả này cũng tệ nhất và là lần đầu tiên HOM lỗ từ khi niêm yết trên HNX năm 2009.
Lãi ròng HOM từ 2009 - 2023
Rực sáng giữa vườn hoa đỏ
Mặc dù doanh thu thuần quý 4/2023 đạt gần 205 tỷ đồng, giảm 6% so với cùng kỳ, nhưng nhờ giá vốn và cắt giảm hầu hết chi phí nên Xi măng Quán Triều VVMI lãi quý 4 gần 18 tỷ đồng, gấp 2.6 lần cùng kỳ. Với kết quả này, CQT là doanh nghiệp có lợi nhuận tăng mạnh nhất ngành trong quý 4.
Tuy vậy, khép lại năm 2023, CQT chỉ đạt doanh thu 618 tỷ đồng và lãi ròng gần 28 tỷ đồng, lần lượt giảm 14% và 42%.
Xếp ngay sau là Xi măng Yên Bình với mức lãi hơn 12 tỷ đồng, tăng 12% so với cùng kỳ, nhờ phát sinh gần 16 tỷ đồng từ khoản thu nhập khác (phạt do vi phạm hợp đồng).
Quý 4, dù doanh thu giảm 11%, lợi nhuận ròng của Xi măng La Hiên VVMI vẫn tăng 11%, đạt hơn 17 tỷ đồng, nhờ giá vốn hàng bán giảm. Lũy kế cả năm, doanh thu của CLH hơn 659 tỷ đồng và lãi sau thuế hơn 47 tỷ đồng, lần lượt giảm 19% và 16% so với năm trước.
KQKD quý 4/2023 của các doanh nghiệp xi măngĐvt: Tỷ đồng
Nguồn: VietstockFinanceDoanh nghiệp đạt doanh thu ngàn tỷ trong năm 2023
Thống kê từ VietstockFinance, tổng doanh thu của 17 doanh nghiệp xi măng trong năm 2023 đạt 21,190 tỷ đồng, giảm 19% so với cùng kỳ năm 2022; kết quả cuối cùng đáng thất vọng với khoản lỗ 353 tỷ đồng, trong khi năm trước đó lãi 506 tỷ đồng.
Chỉ có 6/17 doanh nghiệp xi măng đạt doanh thu trên 1 ngàn tỷ đồng trong năm 2023, gồm: Xi Măng Vicem Hà Tiên (HOSE: HT1), BCC, BTS, HOM, Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh (UPCoM: QNC) và Xi măng Sài Sơn với tổng doanh thu đạt 17,040 tỷ đồng, chiếm 80%.
Nguồn: VietstockFinance
Doanh thu trên ngàn tỷ là vậy, nhưng năm 2023 khó khăn vừa qua khiến 6 doanh nghiệp này lỗ tới 221 tỷ đồng (chiếm 63% tổng thua lỗ ngành). Đáng nói, BCC lỗ nặng nhất với gần 194 tỷ đồng, chiếm hơn phân nửa tổng thua lỗ toàn ngành.
Nguồn: VietstockFinance
Ông lớn HT1 cũng không tránh khỏi quý ảm đạm khi doanh thu cả năm 2023 đạt 7,049 tỷ đồng, giảm 21%; lãi ròng vỏn vẹn 17 tỷ đồng, giảm mạnh 93%.
So với kế hoạch đề ra, HT1 mới hoàn thành được 78% chỉ tiêu doanh thu và 6% lãi sau thuế. 2023 cũng là năm ông lớn xi măng này có kết quả tệ nhất từ 2014.
KQKD năm 2023 của các doanh nghiệp xi măngĐvt: Tỷ đồng
Nguồn: VietstockFinanceLối đi nào cho ngành xi măng năm 2024?
Ông Lê Nam Khánh - Tổng Giám đốc VICEM nhận định, năm 2023 là năm khó khăn chưa từng có, ảnh hưởng bởi tình hình thế giới, thị trường bất động sản chưa có dấu hiệu phục hồi, nguồn cung xi măng vượt xa so với cầu; giá nguyên, nhiên liệu đầu vào cho sản xuất xi măng vẫn ở mức cao.
Cùng với đó, tiêu thụ xi măng trong nước và xuất khẩu sụt giảm, tồn kho tăng cao, một số nhà máy phải giảm năng suất hoặc dừng lò để hạn chế đổ clinker ra bãi, làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Xu hướng dịch chuyển nhu cầu từ xi măng bao sang xi măng rời tăng, giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của VICEM do giá trị thương hiệu gắn với xi măng bao.
Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, năm 2023, ngành xi măng đã xuất khẩu hơn 31.3 triệu tấn clinker và xi măng, tương đương hơn 1.32 tỷ USD, giảm hơn 1% về lượng, giảm hơn 4% về trị giá so với năm 2022.
Trong báo cáo triển vọng ngành xi măng năm 2024, SSI Research dự báo quý 1/2024, mức tiêu thụ xi măng trong nước sẽ ở mức thấp (chạm đáy) kể từ quý 3/2021, do vừa nghỉ tết Nguyên đán và nhu cầu vẫn ở mức yếu. Tuy nhiên, từ quý 2/2024, sản lượng xi măng bán ra được kỳ vọng sẽ cải thiện so với cùng kỳ, nhờ hoạt động xây dựng có dấu hiệu phục hồi.
Ngoài ra, các dự án đầu tư công lớn như sân bay Long Thành và các dự án đường cao tốc ở miền Trung và Nam có thể bù đắp nhu cầu yếu trong năm 2024.
Tăng trưởng ở thị trường xuất khẩu có phần hạn chế do Trung Quốc giảm nhập khẩu xi măng của Việt Nam. Năm 2023, xuất khẩu xi măng và clinker gần như đi ngang (giảm 1% so với cùng kỳ) do Trung Quốc giảm nhập khẩu 90% vì nhu cầu trên thị trường bất động sản yếu.
Ngược lại, Bangladesh là thị trường tăng trưởng khi xuất khẩu xi măng và clinker sang nước này tăng 40%, nhờ tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng.
Theo SSI Research, quý 4/2023, giá than trung bình ở châu Âu giảm hơn một nửa so với cùng kỳ, xuống 120 USD/tấn; giá than ở Úc giảm 65%, xuống 136 USD/tấn; giá than ở Trung Quốc giảm 35%, xuống 123 USD/tấn.
Trong nửa đầu năm 2024, SSI Research cho rằng, giá than sẽ duy trì ổn định như hiện tại khi mùa đông ở Bắc bán cầu đến gần (và các biện pháp trừng phạt đối với Nga vẫn có hiệu lực), giúp cân bằng với áp lực giảm từ giá dầu khí. Do đó, giá than đầu vào trung bình cho các doanh nghiệp sản xuất xi măng sẽ giảm trong năm 2024, do mức nền giá cao được thiết lập vào nửa đầu năm 2023. Vì vậy, biên lợi nhuận gộp của các doanh nghiệp sản xuất xi măng được kỳ vọng sẽ chạm đáy trong quý 1/2024, sau đó cải thiện ở các quý tiếp theo.
Thanh Tú
FILI
Giá vốn bán hàng tăng mạnh, CTCP Xi măng Quán Triều VVMI lỗ ròng hơn 7 tỷ đồng trong quý 3/2023, cùng kỳ lãi gần 11 tỷ đồng.
Kết quả kinh doanh quý 3 và 9 tháng đầu năm 2023 của CQT (Đvt: Tỷ đồng)
Nguồn: VietstockFinanceQuý 3, Xi măng Quán Triều ghi nhận doanh thu thuần gần 131 tỷ đồng, giảm 29% so với cùng kỳ; giá vốn hàng bán hơn 126 tỷ đồng, giảm 19%. Sau khấu trừ, lãi gộp Doanh nghiệp chỉ còn 4.5 tỷ đồng, giảm tới 83% so cùng kỳ. Qua đó, biên lợi nhuận gộp của CQT giảm từ 14% cùng kỳ xuống còn hơn 3%.
Kỳ này, CQT có chi phí tài chính gần 5 tỷ đồng, giảm 9% so cùng kỳ; trong đó, chi phí lãi vay gần 2 tỷ đồng, chiếm 37%. Chi phí bán hàng hơn 2 tỷ đồng và chi phí quản lý doanh nghiệp 5 tỷ đồng, lần lượt giảm 23% và 24% so cùng kỳ.
Mặc dù vậy, Xi măng Quán Triều vẫn lỗ ròng hơn 7 tỷ đồng, cùng kỳ lãi gần 11 tỷ đồng.
CQT cho biết Công ty lỗ trong quý 3 do giá bán bình quân các sản phẩm giảm 15,210 đồng/tấn làm cho doanh thu bán hàng giảm, sản xuất Clinker giảm 20.6% khiến giá vốn hàng bán giảm mạnh so cùng kỳ.
Cộng với kết quả nửa đầu năm, CQT ghi nhận doanh thu thuần hơn 413 tỷ đồng sau 9 tháng, giảm 17% so với cùng kỳ; lãi ròng hơn 10 tỷ đồng, giảm tới 75%. Với kết quả này, Xi măng Quán Triều mới thực hiện được 23% chỉ tiêu lãi trước thuế cả năm.
Trên bảng cân đối kế toán, quy mô tài sản tại thời điểm 30/09/2023 của CQT đạt hơn 613 tỷ đồng, giảm nhẹ 2% so đầu năm. Trong đó, CQT nắm gần 10 tỷ đồng tiền và các khoản tương đương tiền; trong khi hàng tồn kho hơn 61 tỷ đồng, tăng tới 142% so đầu năm, chiếm 72% là các chi phí sản xuất và kinh doanh dở dang. Mặt khác, chi phí xây dựng cơ bản dở dang của CQT chỉ còn hơn 100 triệu đồng, giảm 99% so đầu năm.
Kết thúc 9 tháng, CQT có nợ phải trả gần 347 tỷ đồng, giảm 2% so với đầu năm. Trong đó, vay ngắn hạn hơn 112 tỷ đồng, vay dài hạn 10 tỷ đồng.
Thanh Tú
FILI
Xi măng Quán Triều báo lỗ quý 3
Giá vốn bán hàng tăng mạnh, CTCP Xi măng Quán Triều VVMI (UPCoM: CQT) lỗ ròng hơn 7 tỷ đồng trong quý 3/2023, cùng kỳ lãi gần 11 tỷ đồng.
Kết quả kinh doanh quý 3 và 9 tháng đầu năm 2023 của CQT (Đvt: Tỷ đồng)
Nguồn: VietstockFinance
Quý 3, Xi măng Quán Triều ghi nhận doanh thu thuần gần 131 tỷ đồng, giảm 29% so với cùng kỳ; giá vốn hàng bán hơn 126 tỷ đồng, giảm 19%. Sau khấu trừ, lãi gộp Doanh nghiệp chỉ còn 4.5 tỷ đồng, giảm tới 83% so cùng kỳ. Qua đó, biên lợi nhuận gộp của CQT giảm từ 14% cùng kỳ xuống còn hơn 3%.
Kỳ này, CQT có chi phí tài chính gần 5 tỷ đồng, giảm 9% so cùng kỳ; trong đó, chi phí lãi vay gần 2 tỷ đồng, chiếm 37%. Chi phí bán hàng hơn 2 tỷ đồng và chi phí quản lý doanh nghiệp 5 tỷ đồng, lần lượt giảm 23% và 24% so cùng kỳ.
Mặc dù vậy, Xi măng Quán Triều vẫn lỗ ròng hơn 7 tỷ đồng, cùng kỳ lãi gần 11 tỷ đồng.
CQT cho biết Công ty lỗ trong quý 3 do giá bán bình quân các sản phẩm giảm 15,210 đồng/tấn làm cho doanh thu bán hàng giảm, sản xuất Clinker giảm 20.6% khiến giá vốn hàng bán giảm mạnh so cùng kỳ.
Cộng với kết quả nửa đầu năm, CQT ghi nhận doanh thu thuần hơn 413 tỷ đồng sau 9 tháng, giảm 17% so với cùng kỳ; lãi ròng hơn 10 tỷ đồng, giảm tới 75%. Với kết quả này, Xi măng Quán Triều mới thực hiện được 23% chỉ tiêu lãi trước thuế cả năm.
Trên bảng cân đối kế toán, quy mô tài sản tại thời điểm 30/09/2023 của CQT đạt hơn 613 tỷ đồng, giảm nhẹ 2% so đầu năm. Trong đó, CQT nắm gần 10 tỷ đồng tiền và các khoản tương đương tiền; trong khi hàng tồn kho hơn 61 tỷ đồng, tăng tới 142% so đầu năm, chiếm 72% là các chi phí sản xuất và kinh doanh dở dang. Mặt khác, chi phí xây dựng cơ bản dở dang của CQT chỉ còn hơn 100 triệu đồng, giảm 99% so đầu năm.
Kết thúc 9 tháng, CQT có nợ phải trả gần 347 tỷ đồng, giảm 2% so với đầu năm. Trong đó, vay ngắn hạn hơn 112 tỷ đồng, vay dài hạn 10 tỷ đồng.
交易股票、货币、商品、期货、债券、基金等金融工具或加密货币属高风险行为,这些风险包括损失您的部分或全部投资金额,所以交易并非适合所有投资者。
做出任何财务决定时,应该进行自己的尽职调查,运用自己的判断力,并咨询合格的顾问。本网站的内容并非直接针对您,我们也未考虑您的财务状况或需求。本网站所含信息不一定是实时提供的,也不一定是准确的。本站提供的价格可能由做市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他财务决定均应完全由您负责,并且您不得依赖通过网站提供的任何信息。我们不对网站中的任何信息提供任何保证,并且对因使用网站中的任何信息而可能造成的任何交易损失不承担任何责任。
未经本站书面许可,禁止使用、存储、复制、展现、修改、传播或分发本网站所含数据。提供本网站所含数据的供应商及交易所保留其所有知识产权。