行情
新闻
分析
用户
快讯
财经日历
学习
数据
- 名称
- 最新值
- 前值
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
公:--
预: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
公:--
预: --
公:--
预: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
公:--
预: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
--
预: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
无匹配数据
最新观点
最新观点
最近更新
港股投资的风险预警
尽管香港法律体系和监管框架相对健全,但港股市场仍然存在一些特定的风险和挑战,如港币与美元挂钩,外地投资者可能会面临汇率波动;中国内地的政策变化和经济状况对港股的影响等。
投资港股费用结构与税务
港股市场的交易成本包括总投资成本为买卖股票的交易费用、印花税、结算费用等,对于外地投资者,可能会涉及兑换港币所产生汇率转换费用,以及按照所在地的相关法规需缴纳的税款。
港股行业分析:非必需消费行业
港股市场非必需消费行业覆盖汽车、教育、旅游、餐饮、服装等多个领域,在643家上市公司中35%为中国内地公司,占总市值的65%,因此受中国经济影响深远。
港股行业分析:地产建筑业
地产建筑业在港股指数中的份额近年已明显下降,但截2022年,它依然在市场上占有约10%的份额。包含了房地产开发、建筑工程、房地产投资和物业管理等各个方面。
中国·香港
越南·胡志明
阿联酋·迪拜
尼日利亚·拉各斯
埃及·开罗
查看所有搜索结果
暂无数据
Cổ phiếu ngành nước sẽ có mức tăng trưởng tích cực trong năm nay?
Nhiều cổ phiếu ngành nước đang được dự báo sẽ ghi nhận mức tăng trưởng tích cực trong năm nay.
Trong báo cáo phân tích mới đây, SSI Research cho biết cổ phiếu ngành nước đã tăng 7% trong năm 2022, vượt trội 39% so với VN-Index nhờ lợi nhuận tăng mạnh.
Về triển vọng năm 2023, với các công ty có hệ thống phân phối nước được sự quản lý của Ủy ban Nhân dân Tỉnh (gồm BWE, DNW, Sawaco, Hawaco, CTW, HPW, DNA, BWS, HDW, NBW, GDW, LKW, BDW, NAW, NQB, PJS , TAW, VPW,…), hiệu quả hoạt động của các công ty này phụ thuộc vào tỷ lệ thất thoát nước cũng như mật độ dân số trên địa bàn phân phối. SSI ước tính doanh thu nhóm này tăng 8% so với cùng kỳ vào năm 2023. Cụ thể, lượng nước tiêu thụ trung bình tăng 6% so với cùng kỳ, trong khi giá nước bán lẻ bình quân tăng 3% so với cùng kỳ.
Dẫn số liệu từ Hội Cấp thoát nước Việt Nam (VWSA), SSI cho biết nhu cầu sử dụng nước của các hộ gia đình ước tính đạt từ 8,2 triệu m3 đến 8,6 triệu m3 mỗi ngày (tăng 6% so với cùng kỳ) vào năm 2023.
Theo quy hoạch tổng thể ngành nước đến năm 2030, mức tiêu thụ nước bình quân đầu người sẽ tăng từ 105-110 lít/người/ngày trong năm 2021 lên 120 lít/người/ngày năm 2030. Tỷ lệ dân số nông thôn được cấp nước qua hệ thống cấp nước ước tính sẽ tăng từ 43,5% hiện nay lên 47% vào năm 2030.
"Do vậy, hiệu quả hoạt động của các công ty phân phối nước sẽ tiếp tục được cải thiện. Chúng tôi kỳ vọng xu hướng này sẽ tiếp tục được duy trì trong trung hạn. Tỷ lệ thất thoát nước trung bình dự kiến sẽ giảm từ 17,5% vào năm 2022 xuống còn 16,5% vào năm 2023, khi các công ty cấp nước áp dụng hệ thống phát hiện rò rỉ nước cải tiến, bên cạnh việc cải thiện mạng lưới đường ống dẫn nước cho người tiêu dùng cuối", báo cáo của SSI nêu rõ.
Đối với doanh nghiệp sở hữu nhà máy nước gồm DNP, TDM, VCW. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của nhà máy xử lý nước bao gồm: khoản đầu tư nhà máy nước; khoảng cách từ nhà máy đến nguồn nguyên liệu (nước mặt hoặc nước ngầm); và sản lượng và giá bán cho các công ty phân phối.
Với nhóm này, SSI khuyến nghị theo dõi cổ phiếu TDM vì mức tiêu thụ nước ổn định (tăng trưởng khoảng 10% so với cùng kỳ) ở khu vực Dĩ An và Bàu Bàng; LNST năm 2023 dự báo tăng trưởng 38% so với cùng kỳ nhờ tăng trưởng hữu cơ và nhận khoản chi trả cổ tức từ BWE; bên cạnh đó mã này còn có động lực tăng trưởng từ thương vụ M&A với CTCP Cấp nước Cần Thơ từ năm 2023 cùng đòn bẩy thấp với tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu ở mức 0,12 lần.
Cùng chung quan điểm, Chứng khoán Bản Việt (VCSC) cũng duy trì quan điểm tích cực cho TDM do công ty này có sức mạnh độc quyền tại tỉnh Bình Dương và sở hữu 37% cổ phần của BWE - nhà cung cấp và phân phối nước lớn thứ hai tại Việt Nam.
Ngoài ra, VCSC khuyến nghị từ mua thành khả quan đối với cổ phiếu BWE do giá cổ phiếu này đã tăng xấp xỉ 30% trong 3 tháng qua. Đồng thời dự báo lợi nhuận 2023 của BWE sẽ tăng 15% so với cùng kỳ năm trước nhờ mảng xử lý chất thải có diễn biến khả quan và lỗ tỷ giá thấp hơn năm trước.
Phát lộ thêm những cái tên "vay nóng" Trustlink
Những đối tác, khách hàng của CTCP Dịch vụ và Đầu tư Trustlink và nhóm VNDirect không chỉ có CRE, C4G và FCN, tìm hiểu của VietTimes còn phát lộ thêm những cái tên khác như: VCW, STG,…
Trung tuần tháng 12/2019, không lâu sau lùm xùm ô nhiễm nguồn nước sông Đà, CTCP Đầu tư Nước sạch Sông Đà (Viwasupco – Mã CK: VCW) bất ngờ công bố việc trở thành cổ đông lớn của CTCP Viwaco (Mã CK: VAV).
Theo đó, VCW đã mua vào 195.000 cổ phiếu VAV, qua đó nâng tỉ lệ sở hữu từ 4,56% lên 5,78% vốn điều lệ và trở thành cổ đông lớn tại đây.
VAV tiền thân là CTCP Đầu tư xây dựng và Kinh doanh nước sạch, được thành lập nhằm tiếp nhận và phân phối một phần nước sạch từ Dự án xây dựng nhà máy nước mặt sông Đà cho khu vực Tây Nam thành phố Hà Nội. Doanh nghiệp này cũng là 1 trong 3 khách hàng lớn của VCW - bên cạnh các doanh nghiệp quốc doanh như Công ty TNHH MTV Nước sạch Hà Nội (Hawaco) và Công ty TNHH MTV Nước sạch Hà Đông (Hadowa).
Khá thú vị nếu biết rằng, các ‘tay chơi’ lớn ở VCW đều từng ‘ngồi ghế’ cổ đông lớn ở VAV, trong đó có thể kể tới CTCP Đầu tư và phát triển Sinh Thái (Sinh Thái), CTCP Cơ điện lạnh (Mã CK: REE).
Trở lại với giao dịch của VCW, doanh nghiệp này sau đó chi tiếp 76,9 tỉ đồng gom mua thêm 1,48 triệu cổ phiếu VAV để nâng tỉ lệ sở hữu lên mức 15,09% vốn điều lệ (tính đến ngày 26/2/2020). Ít ai biết rằng, trước khi ‘xuống tiền’, HĐQT VCW đã phê duyệt chủ trương vay vốn tại CTCP Dịch vụ và Đầu tư Trustlink (Trustlink) nhằm mục đích mua cổ phần VAV.
Ở một chi tiết khác, dữ liệu của VietTimes thể hiện, CTCP Chứng khoán VNDirect (Mã CK: VND) đã ‘giải ngân’ cho VCW số tiền 6,7 tỉ đồng và thu hồi ngay trong quý 1/2020.
Tương tự VCW, CTCP Kho vận Miền Nam (Mã CK: STG) cũng phải ‘cậy nhờ’ Trustlink.
Cụ thể, tính đến ngày 30/6/2020, STG ghi nhận khoản vay ngắn hạn với Trustlink nhằm mục đích tài trợ nhu cầu vốn lưu động có số dư 139,7 tỉ đồng. Khoản vay này đáo hạn vào ngày 31/8/2020, lãi suất 13,5%/năm và được bảo đảm bằng 3,75 triệu cổ phiếu PDN của CTCP Cảng Đồng Nai.
Số cổ phiếu tương đương 20,25% vốn điều lệ PDN được dùng làm tài sản bảo đảm cho khoản vay của STG với Trustlink, lưu ý rằng, cũng đúng bằng số cổ phiếu mà Tổng Công ty cổ phần Thiết bị điện Việt Nam (Gelex - Mã CK: GEX) từng nắm giữ.
GEX trở thành cổ đông lớn của PDN từ tháng 4/2019 sau khi mua vào 2,5 triệu cổ phiếu của doanh nghiệp này. Số cổ phiếu này tăng lên 3,75 triệu đơn vị sau khi CTCP Cảng Đồng Nai chia thưởng bằng cổ phiếu, tỉ lệ 2:1, cho cổ đông hiện hữu.
Đến ngày 13/5/2020, GEX bất ngờ bán ra 2,98 triệu cổ phiếu PDN và không còn cổ đông lớn. Bên mua, theo các dữ liệu cho thấy, là VND. Công ty chứng khoán của nữ doanh nhân Phạm Minh Hương cũng không ‘ngồi ghế’ cổ đông lớn PDN quá lâu, bởi đến ngày 16/6/2020, VND đã bán ra 2,12 triệu cổ phiếu PDN và không còn là cổ đông lớn tại đây.
3,75 triệu cổ phiếu PDN, như đã đề cập, đã được STG mua vào hôm 19/6/2020 – ít ngày sau giao dịch của VND.
Nguồn tin của VietTimes cho biết một thông tin đáng chú ý, rằng từ lâu, ở VND đã tồn tại một mẫu hợp đồng, trong đó đề sẵn các nội dung liên quan tới Trustlink, đi kèm với các điều khoản bảo mật thông tin./.
Hà Nội yêu cầu "nóng" với nhà máy nước sạch sông Đà khi mực nước xuống thấp
Hà Nội vừa yêu cầu Viwasupco có giải pháp bơm nước thô từ sông Đà khi mực nước thấp để lấy nước cho nhà máy nước sông Đà hoạt động.
Thông tin từ Sở Xây dựng Hà Nội cho biết, do tác động của biến đổi khí hậu, ảnh hưởng từ việc vận hành nhà máy Thủy điện Hòa Bình cũng như công tác duy tu, bảo dưỡng tuyến mương lấy nước thô từ sông Đà về nhà máy nước mặt sông Đà chưa được quan tâm, tiềm ẩn nguy cơ nhà máy nước mặt sông Đà dừng hoạt động do thiếu nước.
Để bảo đảm cung cấp nước sạch ổn định, Sở Xây dựng Hà Nội yêu cầu đơn vị sản xuất, cấp nước sạch cho Hà Nội từ nguồn nước sạch sông Đà (Công ty cổ phần Đầu tư nước sạch sông Đà - Viwasupco) bổ sung ngay giải pháp lắp đặt trạm bơm nước thô từ sông Đà khi mực nước thấp để lấy nước cho Nhà máy nước mặt sông Đà hoạt động.
Đồng thời, yêu cầu đơn vị thực hiện cải tạo tuyến kênh dẫn nước thô từ sông Đà vào công trình thu trạm bơm cấp I, bảo đảm việc khai thác vận hành nhà nước hoạt động ổn định, không phụ thuộc vào chế độ phát điện của nhà máy Thủy điện Hòa Bình.
Mặt khác, Sở Xây dựng Hà Nội cũng yêu cầu các công ty Nước sạch Hà Nội, Nước sạch Hà Đông, cổ phần Viwaco, Nước mặt sông Đuống phối hợp vận hành hiệu quả tuyến truyền dẫn nước sạch DN800 trên đường Vành đai 3, đường Phan Trọng Tuệ, bảo đảm kết nối nguồn nước sạch sông Đà với nguồn nước sạch sông Đuống để hỗ trợ bổ sung nguồn nước sạch từ Nhà máy nước mặt sông Đuống cho khu vực Hoàng Mai, Thanh Xuân...
Việc phối hợp trên trong trường hợp nguồn nước sạch sông Đà không đáp ứng yêu cầu do phải dừng hoạt động để sửa chữa, bảo dưỡng, không lấy được nước thô để sản xuất.
Trước đó, như Dân Việt đưa tin, Công ty cổ phần Đầu tư nước sạch Sông Đà (Viwasupco) - đơn vị sản xuất, cung cấp nước sạch từ nguồn nước mặt sông Đà đã có thông báo giảm áp lực cấp nước trên hệ thống và khuyến cáo khách hàng sử dụng nước tiết kiệm trong thời gian tới...
Theo Viwasupco, năm 2021 không xuất hiện lũ trên lưu vực sông Đà nên lượng nước hiện nay ở các hồ chứa thủy điện đều thấp hơn nhiều so với mọi năm. Mực nước hồ Hoà Bình hiện chỉ tương đương 61% so với mọi năm.
Để bảo đảm việc cấp nước xuống hạ du, đặc biệt là phục vụ vụ Đông Xuân năm 2021- 2022, Nhà máy Thủy điện Hòa Bình đang vận hành ở mức thấp và tiếp tục tích nước hồ thủy điện, phối hợp vận hành điều tiết lưu lượng xả nước để Nhà máy nước sạch sông Đà có thể lấy được nước.
Phó Tổng Giám đốc Công ty Viwasupco Trịnh Văn Nam cho biết, chế độ vận hành của Nhà máy Thủy điện Hòa Bình hiện điều tiết theo giờ không ổn định để trạm bơm của Nhà máy nước sạch sông Đà bơm liên tục chuyển tiếp lên hồ Đầm Bài và cấp cho nhà máy nước.
Trong khi đó, hồ Đầm Bài dự trữ và trung chuyển cấp nước cho Nhà máy nước sạch sông Đà của công ty cũng gần cạn kiệt. Vì vậy, để không phải dừng và khởi động lại hệ thống cấp nước, vào các giờ thấp điểm, ngày nghỉ, Công ty Viwasupco có thể sẽ điều tiết giảm áp lực và lưu lượng trên tuyến ống truyền tải phù hợp với lịch xả nước của Nhà máy Thủy điện Hòa Bình để ổn định hệ thống.
"Một số khách hàng ở cuối nguồn nước có thể bị ảnh hưởng do áp lực không đủ. Còn lại vẫn có thể sử dụng nước bình thường", đại diện Viwasupco cho hay.
Được biết, công suất sản xuất cấp nước của Nhà máy nước sạch sông Đà hiện nay là khoảng 300.000m3/ngày - đêm, phục vụ cấp nước cho khu vực phía Tây Nam của TP.Hà Nội, gồm các quận, huyện: Quốc Oai, Thạch Thất, Hoài Đức, Đan Phượng, Thanh Trì, Hoàng Mai, Thanh Xuân, Hà Đông, Cầu Giấy, Nam Từ Liêm.
Gelex mua thành công 1,5 triệu cổ phiếu VCW
CTCP Hạ tầng Gelex đã thông báo mua vào thành công 1,5 triệu cổ phiếu VCW của CTCP Đầu tư Nước sạch Sông Đà
Thời gian thực hiện giao dịch từ 16 đến 20/8/2021
Nguồn VCW
Công ty liên quan đến Chủ tịch VCW đăng ký mua 1.5 triệu cổ phiếu
Nhằm tăng tỷ lệ sở hữu, CTCP TNHH MTV Năng lượng Gelex vừa đăng ký mua vào 1.5 triệu cp VCW của Đầu tư Nước sạch Sông Đà (UPCoM: VCW) từ ngày 11/06-10/07/2020 theo phương thức thỏa thuận và khớp lệnh.
Ông Lương Thanh Tùng - Chủ tịch HĐQT VCW - hiện đang là Tổng Giám đốc Công ty MTV Năng lượng Gelex.
Trước đó, Năng lượng Gelex không sở hữu cổ phiếu VCW nào. Nếu giao dịch thành công, Năng lượng Gelex sẽ nắm giữ 2% vốn (tương đương 1.5 triệu cp) tại VCW.
Về kết quả kinh doanh quý 1, VCW ghi nhận doanh thu gần 116 tỷ đồng, tăng nhẹ 6% so với cùng kỳ năm trước. Ngược lại, lãi sau thuế giảm đến 45%, xuống chỉ còn hơn 27 tỷ đồng.
Theo giải trình của VCW, nguyên nhân dẫn đến lãi sụt giảm là do trong quý 1, Công ty đã hoàn thành đầu tư xây dựng hạng mục trạm điều tiết Tây Mỗ và tuyến ống truyền tải nước sạch dài 6.4 km, dẫn đến khấu hao, lãi vay tăng hơn 19 tỷ đồng và trong kỳ Công ty thực hiện trích lập dự phòng giảm giá khoản đầu tư dài hạn với giá trị hơn 10 tỷ đồng, do đó tổng chi phí trong quý 1 tăng 54% so với cùng kỳ.
1.450 tỷ đồng chảy về Gelex nửa năm qua từ kênh trái phiếu
Tổng Công ty cổ phần Thiết bị điện Việt Nam (Gelex) vừa công bố kết quả phát hành trái phiếu đợt 1 năm 2020. Tài sản bảo đảm cho lô trái phiếu này là 13,5 triệu cổ phiếu VCW của Gelex Energy.
Theo đó, ngày 13/5/2020, Tổng Công ty cổ phần Thiết bị điện Việt Nam (Gelex) đã phát hành thành công 300 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp không chuyển đổi, không kèm chứng từ và có tài sản bảo đảm. Số trái phiếu này có kỳ hạn 3 năm, lãi suất cố định 9,5%/năm. Trái chủ được nhận trái tức 6 tháng/lần.
Để bảo đảm cho lô trái phiếu này, Gelex sử dụng 13,5 triệu cổ phần Công ty cổ phần Đầu tư Nước sạch Sông Đà (Mã CK: VCW). Số cổ phần này thuộc sở hữu của Công ty TNHH MTV Năng lượng Gelex (Gelex Energy) – công ty 100% thuộc sở hữu của Gelex. Giá trị tài sản bảo đảm ước tính là 472,5 tỷ đồng.
Tổ chức thu xếp đợt phát hành trái phiếu của Gelex lần này là Công ty cổ phần Chứng khoán IB (IBSC).
Vừa qua, Gelex có 2 lô trái phiếu trị giá 700 tỷ đồng đến kỳ đáo hạn. Trong đó, lô trái phiếu đáo hạn trong tháng 4/2020 có giá trị 300 tỷ đồng và lô trái phiếu đáo hạn trong tháng 5/2020 có giá trị 400 tỷ đồng. Được biết, Gelex cũng sử dụng 27 triệu cổ phiếu VCW thuộc sở hữu của Gelex Energy để bảo đảm cho 2 lô trái phiếu này.
Trước đó, cuối năm 2019, Gelex đã phát hành thành công 1.150 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp, không chuyển đổi, kỳ hạn 10 năm, lãi suất cố định 6,95%/năm. Trái chủ được nhận trái tức 6 tháng/lần.
Gelex được nhiều hợp đồng đặt mua trái phiếu từ các công ty bảo hiểm như: Công ty TNHH Bảo hiểm Nhân thọ Prudential Việt Nam (đặt mua 310 tỷ đồng), Công ty TNHH Bảo hiểm Hanwha Life Việt Nam (đặt mua 300 tỷ đồng), Công ty TNHH Bảo hiểm AIA Việt Nam (đặt mua 170 tỷ đồng), Công ty TNHH Bảo hiểm Dai-ichi Việt Nam (đặt mua 150 tỷ đồng), Công ty TNHH Bảo hiểm Generali Việt Nam (đặt mua 100 tỷ đồng), Công ty TNHH Bảo hiểm Chubb Việt Nam (đặt mua 90 tỷ đồng), Công ty TNHH Bảo hiểm Nhân thọ Sun Life Việt Nam (đặt mua 30 tỷ đồng).
Tài sản bảo đảm cho các trái phiếu này bao gồm 18 triệu cổ phiếu THI (Công ty Thibidi) và 18,2 triệu cổ phiếu CAV (Công ty Cadivi) thuộc sở hữu của Gelex Energy.
Lô trái phiếu này được bảo lãnh thanh toán bởi Credit Guarantee And Investment Facility (CGIF) – một quỹ ủy thác của Ngân hàng phát triển Châu Á.
Trước đây, đầu năm 2016, CGIF cũng bảo lãnh thanh toán cho lô trái phiếu trị giá 3.000 tỷ đồng của Tập đoàn Vingroup - đây là giao dịch lớn nhất của CGIF tại Việt Nam thời điểm đó.
Như vậy, từ cuối năm 2019 đến nay, Gelex đã huy động thành công 1.450 tỷ đồng từ 2 lần phát hành trái phiếu doanh nghiệp./.
Cổ phiếu ngành nước bắt đầu được chú ý
Mặc dù có các chỉ tiêu tài chính tương đối tốt nhưng cổ phiếu ngành nước vẫn chưa thu hút được nhiều sự chú ý của nhà đầu tư. Tuy nhiên, với làn sóng đẩy mạnh cổ phần hóa và các hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A), triển vọng đối với cổ phiếu ngành này đang có những thay đổi.
Phân hóa do lĩnh vực kinh doanh và địa bàn hoạt động
Cùng với ngành điện, cổ phiếu ngành nước được coi là nhóm cổ phiếu phòng thủ trên thị trường chứng khoán (TTCK) vì nước sạch là mặt hàng thiết yếu trong sinh hoạt và sản xuất, kinh tế càng phát triển, tốc độ đô thị hóa càng cao, thì nhu cầu sử dụng nước sạch sẽ ngày càng tăng.
Khi nguồn nước ngầm, nước mặt đối diện nguy cơ ngày càng cạn kiệt và ô nhiễm, nhu cầu sử dụng nước trong tự nhiên được thay thế bởi nguồn nước sạch do công ty cấp nước cung cấp sẽ giúp các doanh nghiệp này có triển vọng tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận.
Hiện nay, có 12 mã cổ phiếu thuộc ngành nước đang được niêm yết trên thị trường, tuy nhiên mức độ phân hoá trong biên lợi nhuận gộp giữa các doanh nghiệp này là khá rõ nét. Những doanh nghiệp có biên lợi nhuận gộp cao nhất hiện nay có thể kể đến như Công ty cổ phần Đầu tư nước sạch Sông Đà (VCW) với gần 60%; Công ty cổ phần Nước Thủ Dầu Một (TDM) trên 50%; Công ty cổ phần Cấp nước Đà Nẵng (DNN) với 50%...
Ở chiều ngược lại, một số doanh nghiệp có biên lợi nhuận gộp ở mức “khiêm tốn” hơn là Công ty cổ phần Cấp nước Bến Thành (BTW) với khoảng 30%; Công ty cổ phần VIWACO khoảng 22%; Công ty cổ phần Cấp nước Chợ Lớn (CLW) chỉ ở mức 10%.
Sự khác biệt về biên lợi nhuận của các doanh nghiệp ngành nước được cho là đến từ lĩnh vực kinh doanh và địa bàn hoạt động của những doanh nghiệp này. Những doanh nghiệp tập trung vào công tác sản xuất (tức chỉ sản xuất hoặc kết hợp sản xuất và phân phối) thì có biên lợi nhuận cao hơn đáng kể so với nhóm doanh nghiệp chỉ làm phân phối mà không có nhà máy sản xuất.
Điển hình như tại TDM, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bắt đầu ngay từ khâu sản xuất nước sạch với việc sở hữu hai nhà máy nước Dĩ An và Bàu Bàng nên chủ động được nguồn chi phí sản xuất đầu vào. Về đầu ra, gần như toàn bộ sản lượng nước sản xuất của TDM hiện nay đều được phân phối qua kênh bán sỉ cho cho Công ty cổ phần Nước - Môi trường Bình Dương (BWE), sau đó được BWE phân phối đến người tiêu dùng.
Lợi thế của các doanh nghiệp sản xuất đến từ việc kiểm soát được chi phí đầu vào, đồng thời giá bán đầu ra cũng thuận lợi hơn so với các doanh nghiệp bán lẻ.
Ở phương diện chính sách, đối với giá mua bán sỉ nước sinh hoạt, Thông tư liên tịch số 75/2012/TTLT-BTC-BXD-BNNPTNT quy định, giá bán buôn nước sạch do hai bên tự thỏa thuận để đảm bảo cả hai đều bù đắp được chi phí sản xuất, có lợi nhuận hợp lý và không cao hơn giá bán lẻ do cấp thẩm quyền quy định.
Với giá bán lẻ, Bộ Tài chính quy định, khung giá tiêu thụ nước sạch sinh hoạt áp dụng trong phạm vi cả nước và ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh phê duyệt và ban hành biểu giá nước sạch sinh hoạt cụ thể trên địa bàn của tỉnh.
Hệ quả là trong khi giá nước bán sỉ nhìn chung là do bên mua và bên bán có thể chủ động điều tiết theo chi phí gia tăng hàng năm, giúp doanh nghiệp sản xuất duy trì, thậm chí cải thiện biên lợi nhuận, thì với doanh nghiệp bán lẻ, mức giá tại từng địa phương sẽ do UBND tỉnh điều chỉnh, có khi cần rất nhiều thời gian, dẫn đến việc giá mua nước không tăng theo giá bán, gây tác động tới biên lợi nhuận.
Ngoài giá bán, các doanh nghiệp chuyên về phân phối còn chịu tác động từ yếu tố địa bàn kinh doanh, qua đó ảnh hưởng đến triển vọng tăng trưởng. Nguyên nhân là bởi mỗi doanh nghiệp ngành nước hiện chỉ được giao phụ trách một địa bàn nhất định. Điều này khiến khả năng mở rộng địa bàn kinh doanh gặp nhiều hạn chế.
Dần chuyển động tích cực
Mặc dù có các chỉ tiêu tài chính tương đối tốt nhưng cổ phiếu ngành nước vẫn chưa thu hút được nhiều sự chú ý của nhà đầu tư. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, do đặc thù xuất phát điểm là đơn vị nhà nước, mỗi công ty hầu như chỉ phụ trách cung cấp nước sạch cho một vài quận, huyện thuộc các tỉnh, thành phố khiến doanh nghiệp cấp nước có địa bàn kinh doanh giới hạn, quy mô tài sản, nguồn vốn khá nhỏ, thường chỉ ở mức dưới vài trăm tỉ đồng, phần nào kém hấp dẫn với các nhà đầu tư lớn.
Thứ hai, do là ngành kinh doanh thiết yếu, chịu sự quản lý khá chặt chẽ bởi các chính sách giá của Nhà nước, mức tăng giá bán hàng năm thường chỉ bù đắp được mức tăng của tỷ lệ lạm phát, hầu hết đều không đầu tư ngoài ngành khiến doanh thu và lợi nhuận của các công ty cấp nước khó tăng đột biến.
Thứ ba, yếu tố địa phương trong hoạt động kinh doanh cũng khiến triển vọng của doanh nghiệp cấp nước ít được nhà đầu tư khu vực khác biết tới, nhất là khi các doanh nghiệp chưa chú trọng đến công tác quảng bá tên tuổi.
Thứ tư, sự sở hữu chi phối của cổ đông lớn nhà nước khiến lượng cổ phiếu tự do chuyển nhượng lưu hành ít, các cổ đông hiện hữu chủ yếu là nắm giữ dài hạn, dẫn đến thanh khoản cổ phiếu ngành nước đã thấp lại càng thấp hơn.
Tuy nhiên, thời gian trở lại đây, với làn sóng đẩy mạnh cổ phần hóa, triển vọng đối với cổ phiếu và doanh nghiệp trong ngành nước được đánh giá đang thay đổi. Điều này một mặt đến từ việc ngày càng có nhiều nhà đầu tư lớn nhìn thấy sự hấp dẫn của ngành nước với đặc điểm là ngành kinh doanh mặt hàng thiết yếu, có nhiều yếu tố mang tính độc quyền, triển vọng tăng trưởng sáng nên đã tích cực M&A doanh nghiệp trong ngành, đẩy mạnh đầu tư, tạo nên những doanh nghiệp quy mô lớn hơn, hấp dẫn nhà đầu tư hơn.
Một số những nhà đầu tư đáng chú ý vào ngành nước thời gian qua có thể kể đến như Công ty cổ phần Nhựa Đồng Nai (DNP), Công ty cổ phần Cơ điện lạnh (REE)...
Không chỉ tăng sức cầu cổ phiếu trên thị trường, tạo nên đột biến trong giao dịch, mà chính hoạt động kinh doanh, quy mô của các doanh nghiệp ngành nước cũng đang dần thay đổi khi thoát khỏi cái bóng nhà nước. Sự năng động, linh hoạt của quản lý tư nhân kỳ vọng sẽ khai thác tốt hơn các tài sản hiện hữu, cải thiện hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp ngành này.
交易股票、货币、商品、期货、债券、基金等金融工具或加密货币属高风险行为,这些风险包括损失您的部分或全部投资金额,所以交易并非适合所有投资者。
做出任何财务决定时,应该进行自己的尽职调查,运用自己的判断力,并咨询合格的顾问。本网站的内容并非直接针对您,我们也未考虑您的财务状况或需求。本网站所含信息不一定是实时提供的,也不一定是准确的。本站提供的价格可能由做市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他财务决定均应完全由您负责,并且您不得依赖通过网站提供的任何信息。我们不对网站中的任何信息提供任何保证,并且对因使用网站中的任何信息而可能造成的任何交易损失不承担任何责任。
未经本站书面许可,禁止使用、存储、复制、展现、修改、传播或分发本网站所含数据。提供本网站所含数据的供应商及交易所保留其所有知识产权。