行情
新闻
分析
用户
快讯
财经日历
学习
数据
- 名称
- 最新值
- 前值
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
公:--
预: --
公:--
预: --
公:--
预: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
公:--
预: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
无匹配数据
最新观点
最新观点
最近更新
港股投资的风险预警
尽管香港法律体系和监管框架相对健全,但港股市场仍然存在一些特定的风险和挑战,如港币与美元挂钩,外地投资者可能会面临汇率波动;中国内地的政策变化和经济状况对港股的影响等。
投资港股费用结构与税务
港股市场的交易成本包括总投资成本为买卖股票的交易费用、印花税、结算费用等,对于外地投资者,可能会涉及兑换港币所产生汇率转换费用,以及按照所在地的相关法规需缴纳的税款。
港股行业分析:非必需消费行业
港股市场非必需消费行业覆盖汽车、教育、旅游、餐饮、服装等多个领域,在643家上市公司中35%为中国内地公司,占总市值的65%,因此受中国经济影响深远。
港股行业分析:地产建筑业
地产建筑业在港股指数中的份额近年已明显下降,但截2022年,它依然在市场上占有约10%的份额。包含了房地产开发、建筑工程、房地产投资和物业管理等各个方面。
中国·香港
越南·胡志明
阿联酋·迪拜
尼日利亚·拉各斯
埃及·开罗
查看所有搜索结果
暂无数据
Cổ phiếu SHB - Có nên mua? Nợ xấu tiềm ẩn? Cho vay sân sau?
Lê Thắng xin chào A/C/E cộng đồng 24h Money, Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội, hay còn gọi là ngân hàng SHB (mã CK: SHB) được thành lập vào năm 1993 tiền thân là ngân hàng nông thôn Nhơn Ái ở Cần Thơ. Đến năm 2005, SHB đổi chủ mới là ông "bầu" Đỗ Quang Hiển, chủ tịch tập đoàn T&T, một doanh nhân có tiếng tại Hà Nội.
Một năm vừa qua, cổ phiếu SHB đã khiến rất nhiều nhà đầu tư "đứng ngồi không yên" khi mà giá không tăng trưởng.
Câu hỏi mà nhiều A/C nhà đầu tư quan tâm lúc này:
- Lý do gì giá cổ phiếu SHB không tăng 1 năm qua?
- Kết quả kinh doanh của ngân hàng SHB 6 tháng cuối năm thế nào?
- Có nên mua cổ phiếu SHB lúc này?
Tất cả câu hỏi đó được Thắng trả lời trong video này.
Mời cả nhà xem và chia sẻ ý kiến tích cực.
Cổ phiếu SHB - Có nên mua?
Lê Thắng xin chào A/C/E cộng đồng 24h Money, Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội, hay còn gọi là ngân hàng SHB (mã CK: SHB) được thành lập vào năm 1993 tiền thân là ngân hàng nông thôn Nhơn Ái ở Cần Thơ. Đến năm 2005, SHB đổi chủ mới là ông "bầu" Đỗ Quang Hiển, chủ tịch tập đoàn T&T, một doanh nhân có tiếng tại Hà Nội.
Một năm vừa qua, cổ phiếu SHB đã khiến rất nhiều nhà đầu tư "đứng ngồi không yên" khi mà giá không tăng trưởng.
Câu hỏi mà nhiều A/C nhà đầu tư quan tâm lúc này:
- Lý do gì giá cổ phiếu SHB không tăng 1 năm qua?
- Kết quả kinh doanh của ngân hàng SHB 6 tháng cuối năm thế nào?
- Có nên mua cổ phiếu SHB lúc này?
Tất cả câu hỏi đó được Thắng trả lời trong video này.
Mời cả nhà xem và chia sẻ ý kiến tích cực.
Cổ phiếu SHB tháng 9/2024 - Giá này đã rẻ chưa? Điều gì cần đặc biệt lưu ý?
SHB là một trong những mã cổ phiếu được nhiều anh chị nhà đầu tư quan tâm và có nắm giữ trong thời gian qua, vì mức giá quanh 10-11, cảm giác như là khá rẻ nếu so với các mã khác.
Tuy vậy, SHB có thực sự định giá rẻ như chúng ta nghĩ? Và có tiềm năng gì để nhà đầu tư có thể đồng hành với cổ phiếu này giai đoạn cuối năm? Điều gì cần đặc biệt lưu ý nếu chọn mua SHB? Tất cả sẽ có trong video của Hoàng hôm nay.
Bình luận bên dưới về quan điểm cá nhân của anh chị nhé.
Ngân hàng có dư nợ cao chính thức được nới room
Tổng hợp báo cáo tài chính quý II/2024 của các ngân hàng, top 8 ngân hàng nhỏ nhất có mức nợ xấu tăng vọt, gần 35.800 tỷ đồng, tương đương tăng 43% so với quý II/2023.
Tăng trưởng tín dụng của hệ thống không đều, Ngân hàng Nhà nước quyết định phân bổ lại chỉ tiêu tăng trưởng từ ngân hàng thừa sang nhà băng thiếu. Ngân hàng có quyết định, từ đầu năm đến nay ngân hàng nào đã cho vay trên 80% chỉ tiêu tín dụng sẽ được điều chỉnh tăng thêm dư nợ...
Tín dụng toàn hệ thống tăng trưởng chậm
Theo Ngân hàng Nhà nước thông báo đến ngày 26/8, tín dụng toàn hệ thống tăng 6,63% so với cuối năm 2023. Với mục tiêu của Chính phủ là 15%, vì vậy trong 4 tháng còn lại của năm, cần phải đẩy thêm 8,37%, tương đương 1.135.723 tỷ đồng vào nền kinh tế. Trong khi đó mức tăng trưởng tín dụng của các nhà băng không đồng đều, có đơn vị tăng thấp, thậm chí tăng trưởng âm trong khi một số tổ chức tín dụng tăng sát chỉ tiêu được giao. Do đó Ngân hàng Nhà nước quyết định phân bổ lại chỉ tiêu tăng trưởng từ ngân hàng thừa sang nhà băng thiếu, thông báo đã được gửi tới các tổ chức tín dụng vào ngày 28/8.
Tổng hợp số liệu báo cáo tài chính quý II/2024 của 27 ngân hàng thương mại niêm yết cho thấy: nhóm các ngân hàng quốc doanh gồm BIDV, Vietinbank và Vietcombank duy trì mức tăng trưởng tín dụng từ 6-8%, các ngân hàng tư nhân lớn có kết quả ấn tượng hơn, mức phổ biến nằm từ 10-14%. Trong khi đó, các ngân hàng tư nhân có quy mô vốn ở “top dưới” có mức tăng trưởng tín dụng từ 1,8% đến 4%. Một điểm đáng chú ý trong nhóm ngân hàng tư nhân nhỏ, Ngân hàng Quốc Dân (NCB) lại dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng tín dụng, tới 16%. Trong khi đó, các ngân hàng tư nhân lớn có kết quả ấn tượng hơn, mức phổ biến nằm từ 10-14%, như: LPBank 15,2%; Techcombank 14,2%; ABC 12,8%; HDBank 12,5%; MSB 11,6%...
Các ngân hàng tư nhân có quy mô vốn ở “top dưới” có mức tăng trưởng tín dụng từ 4% - 8% như: Eximbank 7,7%; PVCombank 5,5%; SHB 5,2%; TPBank 4%..., đặc biệt ABBank vẫn âm hơn 7%. Công thức tính chỉ tiêu tăng trưởng cho từng nhà băng được Ngân hàng Nhà nước dựa trên các yếu tố đầu vào gồm: dư nợ tín dụng năm 2023, điểm xếp hạng năm 2022, các khoản bán dư nợ tín dụng trong 2024 và chưa thu hồi được tiền.
Các tổ chức tín dụng, trừ ngân hàng 100% vốn nước ngoài và ngân hàng liên doanh, không được vượt quá mức dư nợ tín dụng quy định tại bất cứ thời điểm nào trong năm. Còn với các nhà băng 100% vốn nước ngoài và liên doanh, dư nợ tín dụng tại thời điểm cuối 2024 không được vượt quá mức được cấp.
Riêng nhóm 7 ngân hàng có quy mô tài sản lớn nhất (BIDV, Vietcombank, Vietinbank, MB, Techcombank, VPBank, ACB) đã chiếm hơn 65% thị phần tín dụng tương ứng gần gấp đôi quy mô của 20 ngân hàng còn lại. Sự chênh lệch về nguồn lực và thị phần này đã đặt các ngân hàng nhỏ vào thế yếu trong cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Đặc biệt, các ngân hàng nhỏ như Ngân hàng Bắc Á, Ngân hàng Bản Việt, Ngân hàng Kiên Long, Ngân hàng An Bình (ABBank)… việc thúc đẩy tăng trưởng tín dụng vẫn khá “chật vật”.
Áp lực lớn đối với các ngân hàng “top dưới” nếu quá chú trọng vào tốc độ tăng trưởng tín dụng. Vì tăng trưởng tín dụng của nhóm này lại tiềm ẩn nhiều rủi ro, tỷ lệ nợ xấu dao động từ 2,2% đến 3,5% so với mức phổ biến dưới 2% của nhóm ngân hàng lớn. Ngân hàng Quốc dân tăng trưởng tín dụng tốt nhưng tỷ lệ nợ xấu dẫn đầu ngành, nằm ở mức lo ngại hơn 35%.
Tổng hợp báo cáo tài chính quý II/2024 của các ngân hàng, top 8 ngân hàng nhỏ nhất có mức nợ xấu tăng vọt, gần 35.800 tỷ đồng, tương đương tăng 43% so với quý II/2023. Điều này đặt ra vấn đề không chỉ thách thức lớn trong việc kiểm soát chất lượng tín dụng mà còn là khả năng chọn lọc khách hàng cho vay còn bị hạn chế của các ngân hàng nhỏ.
4 ngân hàng sẽ được nới "room" tín dụng
NHNN, các ngân hàng tiếp tục được yêu cầu cấp tín dụng an toàn, lành mạnh, hỗ trợ DN, đảm bảo tăng trưởng tín dụng phù hợp với năng lực quản lý rủi ro. Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục bám sát diễn biến thị trường trong nước và quốc tế, sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản tạo điều kiện cho các TCTD cung ứng tín dụng cho nền kinh tế và kịp thời có giải pháp điều hành chính sách tiền tệ phù hợp.
Báo cáo mới nhất, Chứng khoán VPBankS đã công bố thống kê về các ngân hàng đã hoàn thành khoảng 80% chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng trở lên bao gồm HDBank (HDB), Techcombank (TCB), LPBank (LPB) và ACB. Mức tăng thêm sẽ dao động từ 2% - 2,5% tùy từng ngân hàng. Sau khi tăng, "room" tín dụng mới của 4 ngân hàng này nằm trong khoảng 18% - 18,7%.
VPBankS Research đánh giá, chính sách này sẽ là động lực cho các ngân hàng cạnh tranh mạnh mẽ hơn trong việc giành room tín dụng và thị phần. Do đó, chính sách lãi suất sẽ có xu hướng ưu đãi hơn, có lợi cho người vay nhưng có thể dẫn đến NIM giảm nhẹ. Một trong những yếu tố được cơ quan quản lý đề cập trong văn bản gửi các tổ chức tín dụng là sẽ tiếp tục triển khai chủ trương của Quốc hội, Chính phủ về dỡ bỏ dần biện pháp giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng.
Theo PGS-TS Nguyễn Đức Trung, Hiệu trưởng Trường ĐH Ngân hàng TP HCM chia se4r: Trong bối cảnh của nền kinh tế hiện tại là chưa thể "tháo van" hoàn toàn room tín dụng, nhất là NHNN đang điều hành chính sách tiền tệ gắn với kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô… NH cũng là một DN đặc thù, nếu bỏ room tín dụng, thiếu sự kiểm soát bằng công cụ này của cơ quan quản lý, sẽ gia tăng rủi ro. Khi đó nền kinh tế có thể bị ảnh hưởng, nên các chính sách cần hài hòa. Tuy nhiên, nếu kinh tế Việt Nam đủ lớn thì nên bỏ room tín dụng.
SHB tăng lãi suất tiết kiệm từ ngày hôm nay (19/8)
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội (SHB) vừa áp dụng biểu lãi suất huy động mới kể từ hôm nay (19/8). Đây là lần thứ hai ngân hàng này tăng lãi suất tiền gửi trong vòng 3 tuần trở lại đây.
Cụ thể, với tiền gửi trực tuyến – sản phẩm có lãi suất cao nhất tại SHB, tiền gửi kỳ hạn 3-4 tháng và 18 tháng được điều chỉnh tăng thêm 0,2%/năm; tiền gửi các kỳ hạn từ 4 đến 15 tháng tăng thêm 0,3%/năm.
Theo đó, lãi suất kỳ hạn 3-4 tháng được điều chỉnh tăng lên 3,8%/năm, kỳ hạn 5 tháng tăng lên 3,9%/năm.
Lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 6-8 tháng cũng đã tăng trở lại ngưỡng 5%/năm. Lãi suất kỳ hạn 9-11 tháng tăng lên 5,1%/năm. Tiền gửi kỳ hạn 12-15 tháng có lãi suất huy động mới là 5,6%/năm và kỳ hạn 18 tháng có lãi suất mới là 5,7%/năm.
SHB giữ nguyên lãi suất kỳ hạn 1-2 tháng tại mức 3,5%/năm, lãi suất kỳ hạn 24 tháng là 5,8%/năm và lãi suất kỳ hạn 24 tháng trở lên tại mức 6,1%/năm.
Mức lãi suất 6,1%/năm được áp dụng cho tiền gửi kỳ hạn từ 36 tháng trở lên không chỉ là lãi suất huy động cao nhất tại SHB mà còn cao nhất thị trường hiện nay.
Bức tranh tín dụng và nợ xấu của các ngân hàng
Việc chạy chỉ tiêu tín dụng trong tháng 6 không chỉ giúp các ngân hàng hoàn thành tiến độ kế hoạch, mà theo đó cũng giúp kìm hãm tỷ lệ nợ xấu không tăng quá nhanh, giúp làm đẹp sổ sách báo cáo tài chính bán niên. Việc tín dụng giảm trở lại trong tháng 7 đã phản ánh điều này…
Nợ xấu tiếp tục đi lên từ đầu năm 2024 đến nay, nhưng nhờ dư nợ cho vay bất ngờ tăng trưởng mạnh mẽ trong tháng 6-2024, đã giúp tỷ lệ nợ xấu của nhiều ngân hàng “hãm phanh”, thậm chí còn giảm so với cuối năm 2023.
Nợ xấu đi lên là xu hướng chung
Gần 283.000 tỉ đồng là tổng số nợ xấu nội bảng đến ngày 30-6-2024 của 29 ngân hàng đã công bố báo cáo tài chính quí 2-2024, tăng 35.400 tỉ đồng, tương đương tăng 14,8% so với cuối năm 2023. Tổng tỷ lệ nợ xấu của 29 ngân hàng này là 2,3%, tăng nhẹ 0,15% so với cuối năm 2023. Như vậy, sau khi đã tăng mạnh trong năm 2023, nợ xấu của toàn ngành tiếp tục đi lên trong nửa đầu năm nay, trong bối cảnh kinh tế vẫn đối mặt nhiều thách thức và hoạt động của nhiều doanh nghiệp chưa thoát khỏi khó khăn.
Có đến 24 trong số 29 ngân hàng chứng kiến nợ xấu tăng so với đầu năm, phản ánh xu hướng chung của toàn ngành là chất lượng tín dụng suy giảm. Tăng mạnh nhất gồm VietinBank tăng 8.000 tỉ đồng; BIDV tăng 6.300 tỉ đồng; NCB tăng 6.200 tỉ đồng; VPBank tăng 5.400 tỉ đồng và Vietcombank tăng 4.000 tỉ đồng. Có thể thấy riêng năm ngân hàng này đã tăng tổng cộng là 29.900 tỉ đồng, chiếm 82% tổng mức tăng nợ xấu của 29 ngân hàng.
Xét theo quy mô, có 10 ngân hàng có nợ xấu tuyệt đối trên 10.000 tỉ đồng, trong đó năm ngân hàng có nợ xấu lớn nhất với tổng nợ xấu của năm ngân hàng này là hơn 146.000 tỉ đồng, chiếm 52% tổng nợ xấu của 29 ngân hàng.
Đặc biệt, có đến chín ngân hàng ghi nhận tỷ lệ nợ xấu trên mốc 3%. Trong số này, ngoại trừ OCB có tỷ lệ nợ xấu giảm 0,7% và PVCombank giảm 0,4% so với cuối năm 2023, bảy ngân hàng còn lại đều tăng. Còn nếu tính theo tỷ lệ nợ quá hạn, có đến 22 ngân hàng có tỷ lệ từ 3% trở lên.
Trong xu hướng chung nợ xấu gia tăng như vậy, vẫn có năm ngân hàng ngược dòng. Có thể kể đến như MBBank giảm được 8.000 tỉ đồng nợ xấu so với cuối năm 2023, theo đó tỷ lệ nợ xấu cũng giảm từ mốc 3,1% về chỉ còn 1,6%. OCB giảm 800 tỉ đồng, đưa tỷ lệ nợ xấu từ 4,7% về 4%; SHB giảm 362 tỉ đồng và từ 3% xuống 2,8%; PVCombank giảm 190 tỉ đồng và từ 3,8% xuống 3,4%; cuối cùng là PGbank giảm nhẹ 50 tỉ đồng, đưa tỷ lệ nợ xấu từ 2,9% xuống 2,6%.
Con số tỷ lệ nợ xấu 2,3% của 29 ngân hàng nói trên cũng khá tương thích với tỷ lệ nợ xấu nội bảng của các tổ chức tín dụng là 2,07% (không tính ba ngân hàng 0 đồng và ngân hàng đang kiểm soát đặc biệt) mà Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố gần đây. Còn nếu tính chung toàn ngành, tỷ lệ nợ xấu nội bảng là 4,56%, tỷ lệ nợ xấu gộp (tính luôn nợ bán cho VAMC và nợ tiềm ẩn thành nợ xấu) lên đến 6,44%.
Với quy mô dư nợ toàn ngành đến cuối tháng 6-2024 là hơn 14,39 triệu tỉ đồng, tương ứng nợ xấu nội bảng toàn ngành là hơn 656.000 tỉ đồng và tổng nợ xấu gộp là hơn 927.000 tỉ đồng. So với thời điểm cuối năm 2023, nợ xấu nội bảng tăng thêm hơn 39.000 tỉ đồng nhưng nợ xấu gộp lại giảm hơn 9.100 tỉ đồng. Tuy nhiên, nếu xét theo tỷ lệ thì tỷ lệ nợ xấu nội bảng chỉ tăng thêm 0,01% và tỷ lệ nợ xấu gộp lại giảm đến 0,46%. Có được kết quả này là nhờ vào dư nợ cho vay đã tăng trưởng nhanh hơn trong nửa đầu năm 2024, đặc biệt tính riêng trong tháng cuối cùng của quí 2-2024.
Tín dụng tăng tốc giúp kìm hãm tỷ lệ nợ xấu
Cụ thể, nếu như tại thời điểm cuối tháng 5-2024, dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế là hơn 14,03 triệu tỉ đồng, mới tăng 3,4% so với cuối năm 2023, thì đến cuối tháng 6-2024 đã tăng lên mức 14,39 triệu tỉ đồng, tương ứng tăng 6,1%. Trong đó, tính riêng tháng 6 đã tăng gần 2,7%, tương ứng đã có hơn 362.000 tỉ đồng tín dụng được bơm ra nền kinh tế chỉ trong vòng một tháng, chiếm gần 44% tổng mức tăng của sáu tháng.
Có thể thấy sau những tháng trì trệ đầu năm, dư nợ cho vay của các ngân hàng đã tăng vọt trong quí 2, đặc biệt tập trung trong tháng cuối cùng của quí. Báo cáo tài chính quí 2-2024 cũng cho thấy có đến 11 ngân hàng ghi nhận tốc độ tăng trưởng tín dụng nửa đầu năm lên đến hai con số, trong đó có thể kể đến như NCB tăng 16%; LPBank tăng hơn 15%; Techcombank tăng hơn 14%; ACB tăng gần 13%…
Ngoại trừ ABBank giảm 7,2% so với cuối năm 2023, 28 ngân hàng còn lại đều chứng kiến tín dụng tăng trưởng. Tuy nhiên, ngay cả ABBank nếu tính riêng trong quí 2 thì tín dụng cũng đã tăng trưởng tích cực hơn (quí 1 ngân hàng này ghi nhận dư nợ giảm đến 19%). Tính chung dư nợ cho vay của 29 ngân hàng đến ngày 30-6-2024 là gần 12,53 triệu tỉ đồng, tăng 845.000 tỉ đồng, tương đương tăng 7,2% so với cuối năm 2023; và hiện chiếm 87% tổng dư nợ của toàn nền kinh tế.
Nếu tính theo số tuyệt đối, các ngân hàng có dư nợ tăng cao nhất là BIDV tăng 105.000 tỉ đồng, tương đương tăng 5,9% so với cuối năm 2023; Vietcombank tăng lần lượt 99.000 tỉ đồng và 7,8%; VietinBank tăng 98.000 tỉ đồng và 6,7%; Techcombank tăng 73.000 tỉ đồng và 14,2%; MBBank tăng gần 63.000 tỉ đồng và 10,3%.
Việc NHNN phân bổ hết chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các ngân hàng ngay từ đầu năm đã tạo điều kiện cho các ngân hàng có thể tăng tốc cho vay vào giai đoạn cuối quí 2 dựa trên mục tiêu đã được giao, thay vì như mọi năm phải đợi room tín dụng được nới thêm vào đầu quí 3 hoặc quí 4. Ngoài ra, không loại trừ khả năng các ngân hàng càng phải nỗ lực sử dụng hết hạn mức được phân bổ, vì lo ngại nếu không sử dụng hết chỉ tiêu có thể bị điều chuyển sang ngân hàng khác.
Đây cũng là định hướng mà nhà điều hành từng nêu ra hồi đầu năm nay, nhằm thúc đẩy các ngân hàng phải tích cực giải ngân vốn cho vay ra, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Trong buổi làm việc với lãnh đạo NHNN vào chiều 5-8, Thủ tướng Chính phủ một lần nữa nhắc lại quan điểm NHNN xem xét thu hồi chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng từ ngân hàng không sử dụng hết, bổ sung cho các ngân hàng có khả năng tăng trưởng.
Ngoài ra, việc Thông tư 06/2024/TT-NHNN ban hành ngày 18-6-2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 02/2023/TT-NHNN, theo đó kéo dài thời hạn tái cơ cấu nợ đến hết năm 2024, có lẽ cũng đã khuyến khích các ngân hàng tập trung tái cơ cấu nợ cho khách hàng trong nửa cuối tháng 6 theo hướng lãi nhập gốc, từ đó góp phần đẩy tín dụng tăng vọt trong khoảng thời gian này.
Về phần mình, việc chạy chỉ tiêu tín dụng trong tháng 6 không chỉ giúp các ngân hàng hoàn thành tiến độ kế hoạch, mà theo đó cũng giúp kìm hãm tỷ lệ nợ xấu không tăng quá nhanh, giúp làm đẹp sổ sách báo cáo tài chính bán niên. Việc tín dụng giảm trở lại trong tháng 7 đã phản ánh điều này, khi số liệu cập nhật đến cuối tháng 7 cho thấy dư nợ tín dụng toàn ngành đã giảm trở lại xuống gần 14,33 triệu tỉ đồng, chỉ còn tăng 5,66% so với cuối năm 2023.
Các ngân hàng phát hành 33.5 ngàn tỷ đồng trái phiếu trong tháng 7, chiếm gần 90% tổng số tiền huy động. Phần nhỏ còn lại chủ yếu từ doanh nghiệp bất động sản.
Diễn biến giá trị TPDN hàng tháng từ đầu năm 2024 (Đvt: tỷ đồng)Nguồn: Người viết tổng hợp
Tháng 7/2024, các doanh nghiệp chào bán 38 lô trái phiếu, mang về hơn 37.5 ngàn tỷ đồng (theo mệnh giá), tương đương con số cùng kỳ năm ngoái. Mức đỉnh thuộc về tháng 7/2021 khi số tiền lên tới 81.7 ngàn tỷ đồng. Dù giá trị đã giảm hơn một nửa so với tháng 6, quy mô phát hành nhìn chung vẫn đang trong xu hướng đi lên - tăng 19% so với tháng 5.
Các ngân hàng thu 33.5 ngàn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 90%; nhiều nhất là MBB với 10 ngàn tỷ đồng, sau đó là HDB với 6.2 ngàn tỷ đồng. CTG có đợt huy động đầu tiên trong năm. Nhóm bất động sản nổi bật nhất là Đầu tư và Phát triển Bất động sản Hải Đăng với lô trái phiếu 2.85 ngàn tỷ đồng.
Vietinbank “ra quân”
Sau nửa đầu năm “án binh bất động”, Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (Vietinbank, HOSE: CTG) liên tiếp chào bán riêng lẻ 5 lô trái phiếu có thời gian đáo hạn 8-15 năm, lãi suất thấp nhất từ 5.88%/năm (kỳ hạn 8 năm) đến 6.5%/năm (kỳ hạn 15 năm). Ngân hàng thu về gần 5 ngàn tỷ đồng, bằng một nửa năm ngoái; trong đó, nhiều nhất là lô 3 ngàn tỷ đồng, kỳ hạn 10 năm, lãi suất 6.08%/năm.
8, 10 và 15 năm là các kỳ hạn ưa thích của CTG. Thống kê từ Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) cho thấy, ngân hàng quốc doanh này còn đang lưu hành 56 lô trái phiếu với tổng giá trị hơn 31.5 ngàn tỷ đồng, toàn bộ đều có kỳ hạn từ 8-15 năm và sẽ đáo hạn sau năm 2030.
Cuối tháng 7, Ngân hàng TMCP Quân Đội phát hành riêng lẻ 5 lô trái phiếu, kỳ hạn từ 2-3 năm. Mỗi lô 20,000tp có mệnh giá 100 triệu đồng/tp và trả lãi 5.45%/năm; tổng giá trị 10 ngàn tỷ đồng, nâng tổng số tiền huy động trong năm 2024 lên 18.5 ngàn tỷ đồng, cao nhất trong 4 năm trở lại đây dù chỉ mới qua hơn nửa năm.
Kế hoạch trước đó của lãnh đạo MBB là chào bán riêng lẻ tối đa 20 ngàn tỷ đồng trái phiếu không chuyển đổi, không kèm chứng quyền, không được đảm bảo bằng tài sản và không phải nợ thứ cấp của Ngân hàng.
Ngân hàng TMCP Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh vừa vay trái chủ thêm 6 lô trái phiếu, tổng cộng 6.2 ngàn tỷ đồng, gần gấp đôi 2 tháng liền trước cộng lại. Đợt này, các lô trái phiếu của HDB đều là loại “3 không” kéo dài từ 3-8 năm, lãi suất 5.7 - 7.47%/năm. Nhiều nhất là lô 3 ngàn tỷ đồng, lãi suất 5.7%/năm trong 3 năm.
Tương tự MBB, HDB có kế hoạch sẽ vay trái chủ 20 ngàn tỷ đồng trong năm 2024, chia làm 2 lần: 8 ngàn tỷ đồng và 12 ngàn tỷ đồng. Số tiền đến nay đạt 9.7 ngàn tỷ đồng, gần bằng mức 11 ngàn tỷ đồng của cả năm 2023, nhưng chỉ khoảng 1/2 số tiền năm 2021.
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam phát hành 3.2 ngàn tỷ đồng trái phiếu, lãi suất từ 5.78 - 5.88%/năm cho các kỳ hạn kéo dài 7-8 năm. BID đã vay qua kênh này gần 14 ngàn tỷ đồng từ đầu năm, tương đương cả năm 2023 nhưng chỉ bằng một nửa năm 2022.
Chỉ trong vòng 2 tháng ngắn ngủi, Ngân hàng TMCP Á Châu đã thu về 23.6 ngàn tỷ đồng từ trái phiếu; riêng trong tháng 7 là 1.4 ngàn tỷ đồng, ngang ngửa năm 2021. 3 lô lần này đều là loại “3 không”, trả lãi 6 - 6.1%/năm cho các kỳ hạn 3 và 5 năm.
Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội và Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam cũng mới trở lại sau hơn nửa năm vắng bóng. SHB vay trái chủ 2 lô trái phiếu trị giá 3 ngàn tỷ đồng trong 3 năm với lãi suất 6 - 6.3%/năm. Trong khi đó, VIB chỉ huy động 2 ngàn tỷ đồng, nhưng trả lãi thấp hơn - chỉ 5.8% cho kỳ hạn 3 năm.
Danh mục TPDN do các ngân hàng phát hànhNguồn: Người viết tổng hợp
Vay trái phiếu lãi suất 0%/năm
Ngoài nhóm ngân hàng, nổi bật trong tháng 7 phải kể đến lô trái phiếu 500 tỷ đồng của Phát triển Khu Công nghệ Thông tin Đà Nẵng (Danang IT Park) với lãi suất 0%/năm, thời hạn 30 tháng. Trái chủ sẽ không nhận lãi định kỳ mà thay vào đó được mua ở giá chiết khấu (so với mệnh giá) và được nhận lại toàn bộ (bằng mệnh giá) khi đáo hạn.
Theo HNX, đây là khoản vay qua kênh trái phiếu duy nhất của Doanh nghiệp, được đảm bảo bằng một loạt tài sản liên quan tới hệ sinh thái của Trungnam Group.
Cụ thể, tài sản đảm bảo gồm 100 triệu cp phổ thông phát hành bởi CTCP Năng lượng tái tạo Trung Nam (TNRE). Trong đó có gần 79.6 triệu cp TNRE thuộc sở hữu của CTCP Đầu tư và Phát triển Năng lượng Trung Nam, hơn 20.4 triệu cp TNRE thuộc sở hữu của ông Nguyễn Tâm Tiến.
Đầu tư và Phát triển Bất động sản Hải Đăng vừa hoàn tất huy động riêng lẻ hơn 2.8 ngàn tỷ đồng từ lô trái phiếu HDRCB2426003. Công ty vay 18 tháng, dự kiến đến hạn vào tháng 1/2026 và trả lãi cố định 9.8%/năm trong 4 kỳ tính lãi đầu tiên. Trái phiếu được bảo lãnh thanh toán của tổ chức tín dụng.
Từ đầu năm tới nay, doanh nghiệp có trụ sở tại khu đô thị sinh thái Dream City, tỉnh Hưng Yên đã mang về hơn 5.3 ngàn tỷ đồng từ 3 đợt phát hành trái phiếu.
Một doanh nghiệp bất động sản khác là Phát triển Tổng hợp Hưng Thịnh Phát cũng chào bán xong 412 tỷ đồng lô trái phiếu kéo dài đến tháng 7/2028. Doanh nghiệp trả lãi 12%/năm cho 2 kỳ tính lãi đầu tiên. Trái phiếu được bảo đảm bằng bảo lãnh thanh toán của HDB. Tổ chức đăng ký, lưu ký là Chứng khoán HD (HDBS).
Hưng Thịnh Phát còn có lô hơn 2.8 ngàn tỷ đồng mới huy động hồi tháng 12/2023 và kỳ hạn cũng 48 tháng, đáo hạn vào tháng 12/2027. Lãi suất, tài sản bảo đảm, tổ chức đăng ký và lưu ký của lô này cũng tương tự.
Ngày 22/7, Đầu tư Hạ tầng Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh đã phát hành thành công lô trái phiếu 300 tỷ đồng. CII vay 3 năm, lãi suất 9.95%/năm. Tài sản bảo đảm cho trái phiếu là 10 triệu cp Đầu tư Năm Bảy Bảy N (tương đương gần 10% vốn) và gần 5.3 triệu cp Đầu tư Cầu đường CII (tương đương 2.7% vốn).
Chứng khoán Dầu khí P là cái tên duy nhất trong nhóm chứng khoán tham gia đợt này. Công ty thu về 20 tỷ đồng từ trái phiếu riêng lẻ thuộc loại không chuyển đổi và không có tài sản bảo đảm nhằm cơ cấu lại nợ. Bên mua được xác định là Quản lý quỹ VinaCapital. Trái chủ hưởng lãi suất cố định 8.9%/năm trong vòng 18 tháng, đến tháng 1/2026.
Danh mục TPDN không bao gồm nhóm ngân hàngNguồn: Người viết tổng hợp
Tử Kính
FILI
交易股票、货币、商品、期货、债券、基金等金融工具或加密货币属高风险行为,这些风险包括损失您的部分或全部投资金额,所以交易并非适合所有投资者。
做出任何财务决定时,应该进行自己的尽职调查,运用自己的判断力,并咨询合格的顾问。本网站的内容并非直接针对您,我们也未考虑您的财务状况或需求。本网站所含信息不一定是实时提供的,也不一定是准确的。本站提供的价格可能由做市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他财务决定均应完全由您负责,并且您不得依赖通过网站提供的任何信息。我们不对网站中的任何信息提供任何保证,并且对因使用网站中的任何信息而可能造成的任何交易损失不承担任何责任。
未经本站书面许可,禁止使用、存储、复制、展现、修改、传播或分发本网站所含数据。提供本网站所含数据的供应商及交易所保留其所有知识产权。