行情
新闻
分析
用户
快讯
财经日历
学习
数据
- 名称
- 最新值
- 前值
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
公:--
预: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
公:--
预: --
公:--
预: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
公:--
预: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
--
预: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
无匹配数据
最新观点
最新观点
最近更新
港股投资的风险预警
尽管香港法律体系和监管框架相对健全,但港股市场仍然存在一些特定的风险和挑战,如港币与美元挂钩,外地投资者可能会面临汇率波动;中国内地的政策变化和经济状况对港股的影响等。
投资港股费用结构与税务
港股市场的交易成本包括总投资成本为买卖股票的交易费用、印花税、结算费用等,对于外地投资者,可能会涉及兑换港币所产生汇率转换费用,以及按照所在地的相关法规需缴纳的税款。
港股行业分析:非必需消费行业
港股市场非必需消费行业覆盖汽车、教育、旅游、餐饮、服装等多个领域,在643家上市公司中35%为中国内地公司,占总市值的65%,因此受中国经济影响深远。
港股行业分析:地产建筑业
地产建筑业在港股指数中的份额近年已明显下降,但截2022年,它依然在市场上占有约10%的份额。包含了房地产开发、建筑工程、房地产投资和物业管理等各个方面。
中国·香港
越南·胡志明
阿联酋·迪拜
尼日利亚·拉各斯
埃及·开罗
查看所有搜索结果
暂无数据
Cổ phiếu vận tải biển và cảng nổi sóng, vì đâu?
Nhiều cổ phiếu vận tải và cảng biển tăng giá mạnh từ giữa tháng 11 đến nay. Triển vọng ngành vận tải và cảng biển sáng nhờ xu hướng tăng sản lượng thông qua và thay đổi liên minh giữa các hãng tàu.
Ngành vận tải và cảng biển đang đứng trước nhiều cơ hội trong năm 2025. Ông Đào Hồng Dương, Giám đốc Phân tích Ngành và Cổ phiếu, CTCP Chứng khoán VPBank đánh giá có 4 xu hướng cần chú ý đối với ngành này trong năm sau. Thứ nhất, giá cước cho thuê tàu định hạn và tàu container 40 feet đã điều chỉnh nhưng vẫn cao hơn nhiều so với trước dịch bệnh COVID-19. Căng thẳng biển độ, tác cảng Hồng Kông, Singapore đều đã phản ánh và các chủ tàu đã thích nghi với việc kéo dài tuyến ra. Thứ hai, lượng container thông cảng toàn cầu 8 tháng tăng 20% so với cùng kỳ. Ông Trump tái đắc cử có thể làm tăng sản lượng hàng hóa thông quan hơn.
Thứ ba, các hãng tàu cung cấp dịch vụ hàng hải và container có xu hướng tăng đất tàu mới, cùng container toàn cầu có thể tăng 5,5% trong năm 2025. Thương mại hóa toàn cầu trong năm sau được dự báo tăng khoảng 3,1%. Thứ tư, xu hướng thay đổi liên minh các hãng tàu từ tháng 2/2025 làm thay đổi chuyến tàu, lịch trình làm thay đổi thị trường cảng biển. Ông Dương cho rằng xu hướng này làm tăng sự cần cần của cảng nước sâu.
Tuy nhiên, cạnh tranh trong ngành cũng rất lớn, đặc biệt cảng Hải Phòng phải đối mặt với áp lực cạnh tranh từ cảng Cái Mập - Thị Vải. Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp cảng và vận tải biển tập trung vào đầu tư. Gemadept, cảng Hải Phòng và VOSCO đều có kế hoạch mở rộng hoạt động và đầu tư vào tàu biển. PV Trans cũng đang lên kế hoạch mở rộng đội tàu của mình. Đây là những bước quan trọng để tận dụng cơ hội phát triển của ngành trong tương lai.
GMD hoàn tất tăng vốn, tiềm năng tăng trưởng còn tới đâu?
Hội đồng quản trị Công ty CP Gemadept (HOSE: GMD) vừa thông qua nghị quyết kết quả đợt chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng năm 2024.
Theo đó, GMD chào bán thành công 103,4 triệu cổ phiếu, thu về 3.014 tỷ đồng, nâng vốn điều lệ lên 4.139 tỷ đồng. Trong đó, cổ đông hiện hữu mua 102,6 triệu cổ phiếu với giá 29.000 đồng/cổ phiếu, thu về 2.978,2 tỷ đồng. Nhà đầu tư mua cổ phiếu lẻ và số không phân phối hết là 797,2 nghìn cổ phiếu, giá 45.000 đồng/cổ phiếu, thu gần 35,9 tỷ đồng.
Trong quý 3/2024, doanh thu Gemadept đạt 1.264 tỷ đồng, tăng 26,7% so với cùng kỳ năm trước. Lợi nhuận sau thuế đạt 448,3 tỷ đồng, tăng 32,5%. Công ty cho biết, lợi nhuận tăng chủ yếu nhờ hoạt động khai thác cảng, logistics và phần lãi từ các công ty liên doanh, liên kết.
Lũy kế 9 tháng đầu năm 2024, doanh thu của Gemadept đạt 3.420,55 tỷ đồng, tăng 21,6%. Lợi nhuận sau thuế đạt 1.549,46 tỷ đồng. Đáng chú ý, lợi nhuận trước thuế trong giai đoạn này đạt 1.728,38 tỷ đồng, hoàn thành 102,5% kế hoạch năm tài chính 2024 (1.686 tỷ đồng).
Về tài chính, tính đến ngày 30/9/2024, tổng tài sản của GMD tăng 6,1% so với đầu năm, đạt 14.366,4 tỷ đồng. Trong đó, tài sản cố định chiếm 28,3% với 4.062,9 tỷ đồng, đầu tư tài chính dài hạn ghi nhận 3.511,2 tỷ đồng, tiền và đầu tư tài chính ngắn hạn đạt 1.768,1 tỷ đồng. Các tài sản dài hạn khác và tài sản dở dang dài hạn lần lượt là 1.631,2 tỷ đồng và 1.624,4 tỷ đồng.
Dòng tiền kinh doanh chính trong 9 tháng đầu năm 2024 ghi nhận dương 948,9 tỷ đồng. Ngược lại, dòng tiền đầu tư âm 404,3 tỷ đồng, chủ yếu do các khoản đầu tư mở rộng công suất. Dòng tiền tài chính âm 848,97 tỷ đồng, phần lớn do công ty thực hiện trả cổ tức cho cổ đông.
Trong tháng 4/2024, Gemadept hoàn tất thoái toàn bộ cổ phần tại Công ty CP cảng Nam Hải cho Công ty Cổ phần Nhật Việt (Vietsun). Tỷ lệ sở hữu tại cảng Nam Hải giảm từ 99,98% xuống 0%. Đây là cảng đầu tiên của Gemadept tại miền Bắc, thành lập năm 2009 với công suất thiết kế 200.000 TEUs. Dù không còn sở hữu cảng Nam Hải, Gemadept vẫn cung cấp chuỗi dịch vụ logistics khép kín tại khu vực này.
Theo Chứng khoán Vietcombank (VCBS), GMD có triển vọng tích cực nhờ cảng nước sâu Gemalink tại Cái Mép - Thị Vải, một trong những vị trí chiến lược nhất khu vực, cùng xu hướng tàu container lớn ngày càng phổ biến. Tại Hải Phòng, việc nâng cấp luồng kênh Hà Nam cho phép tàu trọng tải 48.000 DWT gia tăng năng lực cạnh tranh của cảng Nam Đình Vũ.
Tuy nhiên, tốc độ mở rộng giai đoạn 2A của cảng Gemalink chậm hơn kế hoạch, dẫn đến điều chỉnh giảm mục tiêu giá cổ phiếu. VCBS dự phóng doanh thu thuần năm 2024 đạt 4.625 tỷ đồng (+20,3% so với 2023), lợi nhuận sau thuế 1.414 tỷ đồng (-36,4%). Năm 2025, doanh thu ước đạt 4.972 tỷ đồng (+7,5%), lợi nhuận sau thuế 1.345 tỷ đồng (-4,9%). Biên lợi nhuận gộp dự kiến duy trì ở mức 44,5% - 45%.
Về mặt định giá cổ phiếu, VCBS áp dụng phương pháp định giá tổng tài sản (SoTP) cho cổ phiếu GMD, bao gồm giá trị kinh doanh cốt lõi từ cảng biển và logistics, phần lợi nhuận từ các công ty liên doanh, liên kết, và các tài sản không thuộc hoạt động chính như cao su. Giá mục tiêu của GMD trong năm 2025 là 66.931 đồng/cổ phiếu.
Nhìn chung, VCBS đánh giá GMD vẫn là lựa chọn tiềm năng trong dài hạn nhờ các yếu tố nền tảng vững chắc, đặc biệt ở lĩnh vực khai thác cảng nước sâu và logistics. Nhà đầu tư được khuyến nghị cân nhắc tích lũy cổ phiếu GMD ở vùng giá hiện tại, đặc biệt trong bối cảnh công ty đang mở rộng công suất và duy trì lợi thế cạnh tranh tại các khu vực chiến lược.
Gemadept phát hành thành công 103,4 triệu cổ phiếu nâng vốn điều lệ lên 4.139 tỷ đồng
Gemadept phát hành thành công 103,4 triệu cổ phiếu nâng vốn điều lệ lên 4.139 tỷ đồng
Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Gemadept (mã chứng khoán: GMD) vừa có nghị quyết thông qua kết quả đợt chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng cho cổ đông hiện hữu năm 2024.
Theo đó, GMD chào bán thành công 103,4 triệu cp, thu về 3.014 tỷ đồng, nâng vốn điều lệ lên 4.139 tỷ đồng. Trong đó, cổ đông hiện hữu mua 102,6 triệu cổ phiếu với giá 29.000/cổ phiếu, số tiền thu được là 2.978,2 tỷ đồng. Nhà đầu tư mua cổ phiếu lẻ và cổ phiếu không phân phối hết là 797,2 nghìn cổ phiếu, giá 45.000/cổ phiếu, thu về gần 35,9 tỷ đồng.
Về tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, trong quý 3/2024, doanh thu Gemadept đạt 1.264 tỷ đồng, tăng 26,7% so với cùng kỳ. Còn lợi nhuận sau thuế của công ty này đạt 448,3 tỷ đồng, tăng 32,5% so với cùng kỳ năm trước.
Lý giải lợi nhuận sau thuế tăng Gemadept cho biết, chủ yếu do lợi nhuận gộp hoạt động khai thác cảng, logistics và phần lãi đến từ công ty liên doanh, liên kết tăng.
Luỹ kế trong 9 tháng đầu năm 2024, Gemadept ghi nhận doanh thu tăng 21,6%, lên 3.420,55 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế đạt 1.549,46 tỷ đồng. Được biết, năm 2024, Gemadept lên kế hoạch doanh thu 4.000 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế dự kiến 1.686 tỷ đồng. Như vậy, kết thúc 9 tháng đầu năm 2024 với lãi trước thuế đạt 1.728,38 tỷ đồng, Gemadept đã hoàn thành tới 102,5% so với kế hoạch năm tài chính 2024.
Tính đến ngày 30/9/2024, tổng tài sản của GMD tăng 6,1% so với đầu năm, đạt 14.366,4 tỷ đồng. Trong đó, chủ yếu là tài sản cố định ghi nhận 4.062,9 tỷ đồng, chiếm 28,3%; đầu tư tài chính dài hạn ghi nhận 3.511,2 tỷ đồng; tiền và đầu tư tài chính ngắn hạn ghi nhận 1.768,1 tỷ đồng; tài sản dài hạn khác ghi nhận 1.631,2 tỷ đồng; tài sản dở dang dài hạn ghi nhận 1.624,4 tỷ đồng…
Về dòng tiền, trong 9 tháng đầu năm 2024, Gemadept ghi nhận dòng tiền kinh doanh chính dương 948,9 tỷ đồng. Còn dòng tiền đầu tư ghi nhận âm 404,3 tỷ đồng và dòng tiền tài chính âm 848,97 tỷ đồng, chủ yếu do công ty thực hiện trả cổ tức cho cổ đông.
Vào tháng 4/2024, Công ty Cổ phần Gemadept đã hoàn tất thoái toàn bộ cổ phần tại Công ty Cổ phần cảng Nam Hải cho đối tác là Công ty Cổ phần Nhật Việt (Vietsun). Theo đó, tỷ lệ sở hữu của Gemadept tại cảng Nam Hải đã giảm từ 99,98% xuống 0%.
Cảng Nam Hải có công suất thiết kế đạt 200.000 teus, là cảng đầu tiên của Gemadept tại miền Bắc. Được thành lập năm 2009, cảng Nam Hải có đầy đủ chức năng cảng, cửa khẩu quốc tế để thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu và hàng hóa nội địa. Ngoài ra, cảng Nam Hải còn cung cấp chuỗi dịch vụ khép kín gồm dịch vụ depot, vận chuyển đa phương thức door to door bằng sà lan, đầu kéo, khai thác kho bãi, hàng rời, dịch vụ hải quan...
Theo Chứng khoán KB Việt Nam (KBSV) dự báo, việc chuyển nhượng vốn cảng Nam Hải và Nam Hải ICD sẽ đem về khoảng 200 tỷ đồng lợi nhuận cho Gemadept, bổ sung nguồn tiền cho công ty tập trung đầu tư phát triển mở rộng các cảng lớn như các dự án mở rộng cảng Nam Đình Vũ và Gemalink.
Công ty cũng đang tìm kiếm đối tác để chuyển nhượng dự án cao su ở Campuchia và các dự án bất động sản Saigon Gem, Gemadept Vientiane, mục tiêu dồn toàn lực tập trung vào hoạt động cốt lõi. Ngày 14/3 vừa qua, Gemadept thông báo nhận được thông báo hoàn tất giải thể chi nhánh Gemadept tại Campuchia.
Sau khi thoái vốn khỏi cảng Nam Hải, ở khu vực phía Bắc, Gemadept còn sở hữu hai cảng là Nam Đình Vũ và ICD Nam Hải. Tại phía Nam, Gemadept còn có hai cảng container là Gemalink, cảng nước sâu lớn nhất Việt Nam, có khả năng đón được các siêu tàu lớn nhất hiện nay và 1 cảng ICD Phước Long. Ngoài ra cảng Dung Quất là cảng hàng rời duy nhất trong hệ thống cảng của Gemadept.
Thị giá cổ phiếu GMD thời gian qua
Trên thị trường chứng khoán, kết phiên giao dịch ngày 17/12, cổ phiếu GMD ở mức 65.500 đồng/cổ phiếu. Theo đó, vốn hoá của doanh nghiệp này trên thị trường đạt khoảng 27.115 tỷ đồng.
Cổ phiếu cảng biển Việt Nam: Lựa chọn đầu tư trong kỷ nguyên mới ?
Ngành cảng biển Việt Nam đang trở thành trung tâm trong chuỗi cung ứng toàn cầu, nhờ vào những bước nhảy về hạ tầng, dòng vốn FDI bền vững và sự gia tăng sản lượng hàng hóa. Tuy nhiên, trong bối cảnh cạnh tranh khu vực mạnh mẽ và biến động quốc tế, liệu đây có phải là thời điểm “vàng” cho nhà đầu tư?
Theo đánh giá của VNDirect, ngành cảng biển Việt Nam đang ghi nhận những kết quả đáng khích lệ trong năm 2024, khi sản lượng container qua các cảng tăng hơn 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Đà tăng trưởng này được dẫn dắt bởi một số yếu tố chính, trong đó nổi bật nhất là đòn bẩy từ dòng vốn FDI. Đây là động lực giúp Việt Nam duy trì vị thế quan trọng trong chuỗi cung ứng quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh các chuỗi cung ứng chuyển hướng từ Trung Quốc sang Đông Nam Á.
Với kim ngạch xuất khẩu năm 2024 tăng khoảng 15% so với năm ngoái, nhu cầu logistics và khai thác cảng tiếp tục gia tăng. Nhờ vào chiến lược đầu tư và cải thiện hạ tầng, nhiều dự án lớn như Cái Mép Hạ và Cần Giờ đang mở ra những triển vọng đối với nhà đầu tư.
Gemadept (GMD), một trong những doanh nghiệp dẫn đầu ngành, đang từng bước khẳng định vị thế nhờ vào cảng nước sâu Gemalink. Công suất Gemalink dự kiến tăng gấp đôi, từ 1,5 triệu TEU lên 3 triệu TEU vào năm 2028, góp phần đảm bảo sản lượng hàng hóa đổ vào đều đặn trong tương lai.
Trong khi đó, cảng Lạch Huyện đang trở thành trung tâm khai thác mới nhờ vào hai dự án bến 3-4 và bến 5-6, dự kiến hoàn thiện trong Quý I/2025. Khi đi vào hoạt động, các bến này sẽ tăng công suất thêm 2 triệu TEU, giúp đáp ứng nhu cầu gia tăng từ các tuyến quốc tế.
Dự án Cảng Trung chuyển Quốc tế Cần Giờ, với tổng vốn đầu tư 6 tỷ USD, hứa hẹn trở thành trung tâm logistics khu vực nhờ vào lợi thế chi phí cạnh tranh so với Singapore. Chi phí xếp dỡ tại Cần Giờ chỉ bằng 40-60% so với Singapore, mở ra động lực hợp tác với các hãng tàu quốc tế. Ngoài ra, dự án này còn được kỳ vọng đóng vai trò quan trọng trong việc giảm tải cho các cụm cảng phía Nam, đồng thời thúc đẩy sự kết nối với thị trường quốc tế.
Bên cạnh những lợi thế trên, cụm cảng Cái Mép - Thị Vải (CM-TV) cũng đóng góp vai trò quan trọng khi được xếp hạng trong top 7 cảng container hiệu quả nhất thế giới. Với tổng cộng 33 tuyến quốc tế, CM-TV có khả năng tiếp nhận tàu trọng tải lớn lên tới 232.000 DWT. Dự án Cái Mép Hạ, với tổng vốn đầu tư 50.800 tỷ đồng, đang được triển khai để nâng cao năng lực xử lý hàng hóa. Giai đoạn 1 của dự án này, dự kiến hoàn thành vào năm 2030, sẽ tăng cường khả năng khai thác hàng hóa tại khu vực phía Nam.
Dù có nhiều tiềm năng, ngành cảng biển Việt Nam cũng đối mặt với không ít rủi ro và thách thức. Đầu tiên, các chính sách thương mại quốc tế, đặc biệt là từ Mỹ, có thể tạo áp lực cho nhóm hàng xuất khẩu chủ lực như dệt may, sắt thép. Việc áp thuế nhập khẩu 10-20% lên hàng hóa Việt Nam là một yếu tố đáng lo ngại, làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nội địa.
Ngoài ra, sự cạnh tranh khu vực cũng là một yếu tố không thể bỏ qua. Các quốc gia như Thái Lan và Malaysia đang đầu tư mạnh vào hạ tầng cảng biển với mục tiêu thu hút các tuyến vận tải quốc tế. Điều này đặt ra yêu cầu cấp bách về nâng cao hiệu suất hoạt động và khả năng cạnh tranh của các cảng biển Việt Nam.
Cuối cùng, sự tái cấu trúc trong các liên minh vận tải biển toàn cầu cũng mang lại những thách thức mới. Việc MSC tách khỏi liên minh 2M để hoạt động độc lập sẽ làm thay đổi đáng kể cấu trúc tuyến vận tải, ảnh hưởng trực tiếp đến lưu lượng hàng hóa qua các cảng Việt Nam.
Các chuyên gia chứng khoán cho rằng, ngành cảng biển Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa phát triển vượt bậc, với sự hỗ trợ từ các dự án chiến lược, dòng vốn FDI ổn định và sự gia tăng nhu cầu logistics. Các nhà đầu tư dài hạn có thể cân nhắc các cổ phiếu như GMD và VSC, những doanh nghiệp đang có vị thế tốt và triển vọng tích cực trong tương lai. Tuy nhiên, để đạt được lợi ích tối đa, cần theo dõi sát sao các yếu tố rủi ro như chính sách thương mại quốc tế, cạnh tranh khu vực và biến động trong cấu trúc vận tải biển toàn cầu.
Gemadept (GMD) vừa phát hành thành công 103,7 triệu cổ phiếu, huy động gần 3.000 tỷ đồng
CTCP Gemadept (mã GMD - sàn HOSE) đã thực hiện chào bán gần như toàn bộ cổ phiếu đăng ký và sẽ tiếp tục chào bán 797.286 cổ phiếu còn lại cho hai nhà đầu tư.
Từ ngày 31/10 đến ngày 21/11, Gemadept đã phát hành thành công 102.698.366 cổ phiếu với giá 29.000 đồng/cổ phiếu để huy động 2.978,25 tỷ đồng (tổng đăng ký chào bán 103.495.652 cổ phiếu), đạt tỷ lệ hơn 99,2%.
Gemadept cho biết sẽ chào bán tiếp 797.286 cổ phiếu giá 45.000 đồng/cổ phiếu, thời gian chào bán từ ngày 7/12 đến ngày 12/12 và cổ phiếu này sẽ bị hạn chế chuyển nhượng trong vòng 1 năm. Trong đó, Công ty cổ phần Chứng khoán Agribank dự kiến mua 297.286 cổ phiếu và ông Phan Văn Tuấn sẽ mua 500.000 cổ phiếu.
Được biết, theo kế hoạch chào bán cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu ban đầu, số tiền huy động, Gemadept dự kiến dùng để mua sắm tài sản cố định, trả nợ vay ngân hàng và tăng vốn góp vào Công ty cổ phần Cảng Nam Đình Vũ (Gemadept sở hữu 60% vốn điều lệ) để triển khai các hoạt động sản xuất kinh doanh và trả nợ vay.
Xét về hoạt động kinh doanh, trong quý III/2024, Gemadept ghi nhận doanh thu đạt 1.264,11 tỷ đồng, tăng 26,7% so với cùng kỳ, lợi nhuận sau thuế đạt 448,38 tỷ đồng, tăng 32,5% so với cùng kỳ năm trước.
Trong kỳ, lợi nhuận gộp tăng 25,1% so với cùng kỳ, tương ứng tăng thêm 116,58 tỷ đồng, lên 581,33 tỷ đồng; doanh thu tài chính giảm 85,9%, tương ứng giảm 28,24 tỷ đồng, về 4,63 tỷ đồng; chi phí tài chính giảm 2,7%, tương ứng giảm 1,4 tỷ đồng, về 49,66 tỷ đồng; lãi công ty liên doanh, liên kết tăng 324,7%, tương ứng tăng thêm 169,58 tỷ đồng, lên 221,81 tỷ đồng; chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp tăng 78,7%, tương ứng tăng thêm 80,2 tỷ đồng, lên 182,06 tỷ đồng và các hoạt động khác biến động không đáng kể.
Lý giải lợi nhuận tăng trong quý III, Gemadept cho biết chủ yếu do lợi nhuận gộp hoạt động khai thác cảng, logistics và phần lãi đến từ công ty liên doanh, liên kết tăng.
Luỹ kế trong 9 tháng đầu năm 2024, Gemadept ghi nhận doanh thu tăng 21,6%, lên 3.420,55 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế đạt 1.549,46 tỷ đồng.
Năm 2024, Gemadept lên kế hoạch doanh thu 4.000 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế dự kiến 1.686 tỷ đồng.
Như vậy, kết thúc 9 tháng đầu năm 2024 với lãi trước thuế đạt 1.728,38 tỷ đồng, Gemadept đã hoàn thành tới 102,5% so với kế hoạch năm tài chính 2024.
Đóng cửa phiên giao dịch ngày 9/12, cổ phiếu GMD giảm 100 đồng về 67.300 đồng/cổ phiếu.
Ngành vận tải cảng biển: Tiếp tục đà tăng năm 2024?
Chào mừng các anh chị nhà đầu tư đã quay lại với Wealth9 – Tài Chính Hiệu Quả! Trong bài viết hôm nay, chúng ta sẽ đi sâu vào phân tích ngành cảng biển, một ngành có tầm ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Việt Nam. Như mọi người đã biết, ngành cảng biển chịu tác động trực tiếp từ sự biến động của xuất nhập khẩu, và trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng khám phá các yếu tố vĩ mô tác động đến ngành này, đặc biệt là sự phục hồi mạnh mẽ trong quý 3 năm 2024.
1. Tình Hình Xuất Nhập Khẩu: Dấu Hiệu Phục Hồi Sau Khó Khăn
Một trong những yếu tố vĩ mô quan trọng nhất ảnh hưởng đến ngành cảng biển là tình hình xuất nhập khẩu. Như chúng ta đã thấy trong các tháng trước, xuất nhập khẩu gặp phải nhiều khó khăn do những yếu tố tác động tiêu cực từ môi trường bên ngoài, đặc biệt là các yếu tố thời tiết như bão YAGI. Tháng 9 vừa qua, số liệu xuất nhập khẩu đã ghi nhận sự sụt giảm nhẹ so với tháng trước, chủ yếu do ảnh hưởng của cơn bão. Tuy nhiên, nhìn chung, trong quý 3 năm 2024, tình hình xuất nhập khẩu đã có những tín hiệu tích cực, giúp vực dậy nền kinh tế.
Một điểm sáng nổi bật trong quý 3 là thặng dư xuất siêu của Việt Nam đạt mức 20,79 tỷ USD, con số này cho thấy một sự phục hồi mạnh mẽ từ xuất khẩu, đặc biệt là sau những tác động từ cơn bão. Và điều quan trọng là các chuyên gia nhận định rằng, trong ba tháng cuối năm 2024, tình hình xuất khẩu sẽ tiếp tục phục hồi mạnh mẽ sau khi các yếu tố tạm thời đã qua đi.
2. Sự Phục Hồi Xuất Khẩu và Tăng Trưởng Kim Ngạch Tháng 10
Vào tháng 10 năm 2024, xuất khẩu hàng hóa đã đạt khoảng 35,6 tỷ USD, tăng 4,4% so với tháng trước. Đây là một tín hiệu đáng mừng, vì cho thấy các hoạt động xuất khẩu đang hồi phục rõ rệt. Bên cạnh đó, kim ngạch nhập khẩu trong tháng 10 cũng đã tăng lên, đạt khoảng 33,6 tỷ USD, tăng 5,8% so với tháng trước. Các nhóm hàng chủ lực như dệt may, gỗ, thủy sản vẫn duy trì được tốc độ xuất khẩu ổn định, điều này có nghĩa là nhu cầu vận chuyển hàng hóa qua các cảng biển vẫn duy trì ở mức cao.
Cả xuất khẩu và nhập khẩu đều có sự phục hồi mạnh mẽ trong tháng 10, cho thấy nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phục hồi và tăng trưởng trở lại, bất chấp những khó khăn trước đó. Những yếu tố này tác động trực tiếp đến ngành cảng biển, khi nhu cầu vận chuyển hàng hóa qua cảng sẽ tăng cao hơn trong thời gian tới.
3. Tốc Độ Tăng Trưởng Xuất Khẩu Từ Các Thị Trường Chủ Lực
Một yếu tố quan trọng nữa trong việc phân tích sự phục hồi của ngành cảng biển chính là tốc độ tăng trưởng xuất khẩu từ các thị trường chủ lực. Các thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong tháng 10, bao gồm Hoa Kỳ và Trung Quốc, đều ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ.
Hoa Kỳ: Xuất khẩu sang Hoa Kỳ trong tháng 10 đã tăng 24% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức tăng trưởng ấn tượng, cho thấy thị trường Hoa Kỳ vẫn duy trì nhu cầu lớn đối với các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là nhóm hàng điện tử, dệt may và thủy sản.
Trung Quốc: Xuất khẩu sang Trung Quốc cũng có sự phục hồi mạnh mẽ, cho thấy nền kinh tế Trung Quốc đang dần phục hồi và nhu cầu đối với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam đang tăng trưởng trở lại. Điều này mở ra cơ hội lớn cho các cảng biển Việt Nam trong việc xử lý lượng hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc.
Ngoài Hoa Kỳ và Trung Quốc, các thị trường khác như Liên minh châu Âu (EU) và ASEAN cũng ghi nhận sự phục hồi trong xuất khẩu, tuy không mạnh mẽ như hai thị trường lớn trên nhưng vẫn có đóng góp quan trọng vào tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
4. Tác Động Của Tăng Trưởng Xuất Nhập Khẩu Đến Ngành Cảng Biển
Với tình hình xuất nhập khẩu phục hồi, ngành cảng biển cũng sẽ được hưởng lợi từ sự gia tăng khối lượng hàng hóa thông quan. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đều tăng trưởng tốt, đặc biệt là các mặt hàng có giá trị gia tăng cao như dệt may, thủy sản, và gỗ. Những mặt hàng này không chỉ xuất khẩu sang các thị trường lớn mà còn đòi hỏi quy trình vận chuyển qua cảng biển rất lớn, từ đó tạo ra nhu cầu cao đối với các dịch vụ cảng biển.
Hơn nữa, trong bối cảnh các doanh nghiệp sản xuất trong nước đang chuẩn bị cho một mùa kinh doanh mới vào năm 2025, nhu cầu nhập khẩu nguyên vật liệu để phục vụ sản xuất sẽ tiếp tục gia tăng. Điều này cũng góp phần thúc đẩy nhu cầu vận chuyển hàng hóa qua các cảng biển. Các doanh nghiệp cảng biển sẽ có cơ hội tăng trưởng lợi nhuận khi lượng hàng hóa thông qua cảng tiếp tục gia tăng.
5. Chuỗi Giá Trị Ngành Cảng Biển: Hệ Sinh Thái Hoàn Chỉnh và Vai Trò Từng Phân Đoạn
Để hiểu rõ hơn về ngành cảng biển, chúng ta cần phân tích chuỗi giá trị ngành, bao gồm các hoạt động chính tạo nên hệ sinh thái vận tải biển hoàn chỉnh. Chuỗi giá trị này có thể được chia thành ba nhóm cơ bản, mỗi nhóm đóng vai trò quan trọng trong việc tối ưu hóa vận chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất đến tay người tiêu dùng.
Thứ nhất là Vận Tải Biển
Đây là bước đầu tiên và quan trọng trong chuỗi giá trị ngành, liên quan đến việc vận chuyển hàng hóa trên biển qua các loại hình khác nhau:
- Vận tải container: Là phân khúc quan trọng trong chuỗi giá trị, bao gồm vận chuyển nội địa và quốc tế. Loại hình này phục vụ cho việc vận chuyển hàng hóa đa quốc gia, đảm bảo hiệu quả và linh hoạt cho các chuỗi cung ứng toàn cầu.
- Vận tải dầu, hóa chất: Được đảm nhận bởi các công ty như PVT, VTO, và VIP, đây là phân khúc tập trung vào việc vận chuyển các sản phẩm năng lượng và hóa chất qua các tuyến quốc tế và nội địa.
- Vận tải hàng rời: Chủ yếu xử lý các loại hàng hóa không đóng gói như quặng, than, và nông sản. Các công ty tiêu biểu trong phân khúc này là HAH và VOS, đảm bảo khả năng chuyên chở khối lượng lớn.
Thứ 2 là Dịch Vụ Tại Cảng Biển
Các dịch vụ tại cảng biển đóng vai trò trung gian, hỗ trợ quá trình luân chuyển hàng hóa giữa vận tải biển và các kênh phân phối khác. Chúng bao gồm:
- Lưu kho và thông quan hàng hóa (Depot, ICD): Bao gồm việc lưu trữ hàng hóa và thực hiện các thủ tục hải quan cần thiết, chuẩn bị cho các quá trình vận tải tiếp theo. Dịch vụ này đảm bảo tính liên tục trong chuỗi cung ứng, giảm thiểu thời gian và chi phí cho doanh nghiệp.
- Xếp dỡ hàng hóa: Đây là khâu đầu tiên khi hàng hóa cập cảng, được thực hiện bởi các công ty như GMD, VSC, PHP, DVP, CCL, và SGP. Quá trình này đảm bảo hàng hóa được vận chuyển an toàn từ tàu xuống cảng và ngược lại.
Cuối cùng là Giao Nhận Hàng Hóa và Vận Tải Đường Bộ
Đây là bước cuối cùng trong chuỗi giá trị, đảm bảo hàng hóa được vận chuyển từ cảng đến tay người tiêu dùng hoặc các điểm đích khác:
- Vận tải đường bộ: Đây là một mắt xích không thể thiếu, giúp vận chuyển hàng hóa từ cảng biển đến các địa điểm đích bằng đường bộ. Nó đảm bảo tính hoàn chỉnh của chuỗi cung ứng và hỗ trợ phân phối nội địa hiệu quả.
- Bưu cục: Các công ty như VTP, TCL, và TMS cung cấp các dịch vụ giao nhận hàng hóa, đảm bảo quá trình chuyển phát nhanh chóng và chính xác.
Chuỗi giá trị này thể hiện một hệ sinh thái vận tải biển hoàn chỉnh từ vận tải hàng hải, xếp dỡ tại cảng cho đến giao nhận cuối cùng thông qua các dịch vụ logistics và vận tải đường bộ để đến tay người tiêu dùng.
Trong chuỗi giá trị này, hai phân đoạn quan trọng nhất mà chúng ta cần quan tâm là vận tải biển và dịch vụ tại cảng. Đây là những bước chịu ảnh hưởng lớn từ các yếu tố vĩ mô như tăng trưởng xuất nhập khẩu, giá cước vận tải, và chi phí logistics. Việc phân tích sâu hơn chỉ số giá và hiệu suất hoạt động tại hai bước này sẽ giúp chúng ta có cái nhìn rõ ràng hơn về tiềm năng phát triển và các cơ hội đầu tư trong ngành cảng biển.
6. Triển Vọng Ngành Cảng Biển Từ Sự Phục Hồi Kinh Tế
Với sự phục hồi mạnh mẽ của xuất nhập khẩu, triển vọng của ngành cảng biển trong những tháng cuối năm 2024 và năm 2025 là rất tích cực. Các cảng biển sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển hàng hóa quốc tế, phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu ngày càng tăng và chuẩn bị cho sự phục hồi sản xuất trong nước.
Ngoài ra, ngành cảng biển còn được hỗ trợ bởi các chính sách của Chính phủ nhằm nâng cao năng lực cảng biển, cải thiện hạ tầng giao thông và logistics. Các dự án nâng cấp cảng biển, cảng hàng hóa quốc tế và cảng hậu cần cũng sẽ giúp tăng khả năng tiếp nhận hàng hóa lớn hơn, giúp các cảng biển Việt Nam cạnh tranh mạnh mẽ hơn trên thị trường quốc tế.
Kết Luận
Tổng kết lại, ngành cảng biển của Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội lớn nhờ vào sự phục hồi của nền kinh tế và sự tăng trưởng xuất nhập khẩu. Dự báo rằng trong thời gian tới, ngành này sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ khi cả xuất khẩu lẫn nhập khẩu đều có xu hướng tăng trưởng ổn định. Các nhà đầu tư trong ngành cảng biển có thể kỳ vọng vào một tương lai tươi sáng, khi nhu cầu vận chuyển hàng hóa sẽ tiếp tục gia tăng trong bối cảnh nền kinh tế phục hồi.
Các anh chị nhà đầu tư hãy theo dõi sát sao các chỉ số kinh tế vĩ mô và tình hình xuất nhập khẩu để đưa ra những quyết định đầu tư chính xác trong thời gian tới.
Wealth9 cam kết đồng hành cùng anh chị trên hành trình đầu tư hiệu quả, mang lại giá trị lâu dài và bền vững. Nếu anh chị cần tư vấn chuyên sâu hoặc tham gia cộng đồng đầu tư của chúng tôi, đừng ngần ngại liên hệ để được hỗ trợ tốt nhất. Chúc anh chị đầu tư thành công!
Nhóm Quỹ KIM Việt Nam lại mua vào hơn 7,3 triệu cổ phiếu GMD
Trong ngày 21/11/2024, nhóm cổ đông đại diện bởi Công ty TNHH Quản lý Quỹ KIM Việt Nam đã mua vào tổng cộng 7.379.064 cổ phiếu GMD.
Cụ thể: trong ngày 21/11/2024, nhóm cổ đông đại diện bởi Công ty TNHH Quản lý Quỹ KIM Việt Nam đã mua vào tổng cộng 7.379.064 cổ phiếu GMD. Qua đó, nâng số lượng sở hữu từ hơn 21,5 triệu cổ phiếu, chiếm 6,93% lên gần 28,9 triệu cổ phiếu, chiếm 9,31% vốn tại GMD.
Trong đó, có 6/10 thành viên trong nhóm mua thêm cổ phiếu GMD, nhiều nhất là KIM Vietnam Growth Equity Fund mua hơn 3,6 triệu cổ phiếu và TMAM Vietnam Equity Mother Fund gần 2,5 triệu cổ phiếu....
Trước đó vào ngày 08/11, 3 thành viên nhóm KIM gồm KIM Vietnam Growth Equity Fund, KITMC Worldwide Vietnam RSP Balanced Fund và KIM Investment Funds - KIM Vietnam Growth Fund đã bán ra lần lượt 300.000 cổ phiếu, 275.100 cổ phiếu và 100.000 cổ phiếu GMD, tổng cộng 675.100 cổ phiếu, giảm sở hữu cả nhóm về 6,69% vốn tại GMD.
Theo dữ liệu trên HOSE, sau khi đạt mốc cao nhất trong 52 tuần qua đạt 86.900 đồng/cổ phiếu (chốt phiên ngày 10/6) thì chốt phiên ngày 22/10, giá cổ phiếu này rơi xuống mốc thấp nhất trong 52 tuần qua là 62.800 đồng và các giao dịch của quỹ ngoại này diễn ra trong bối cảnh giá cổ phiếu GMD đang trong đợt điều chỉnh nhẹ, sau xu hướng tăng kéo dài từ tháng 11/2022.
Trong phiên ngày 21/11 không có giao dịch
Được biết, Công ty TNHH SSJ Consulting (Việt Nam) - cổ đông lớn tại GMD đã bán toàn bộ 29.692.496 quyền mua cổ phiếu GMD, tương ứng gần 9,9 triệu cổ phiếu GMD từ ngày 7-8/11/2024. Giao dịch thực hiện thông qua Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ
Đây là quyền mua phát sinh trong đợt chào bán gần 104 triệu cổ phiếu ra công chúng của GMD, tương ứng tỷ lệ 3:1 (1 cổ phiếu được hưởng 1 quyền mua và 3 quyền mua được mua 1 cổ phiếu mới). Đáng chú ý, SSJ từ bỏ quyền mua trong khi GMD chỉ chào bán với giá 29,000 đồng/cổ phiếu, thấp hơn đáng kể so với thị giá.
GMD cho biết số tiền thu được khoảng hơn 3.001 tỷ đồng, được sử dụng để phục vụ hoạt động kinh doanh của công ty. Trong đó, gần 558 tỷ đồng để tăng vốn góp vào CTcổ phiếu Cảng Nam Đình Vũ (công ty con do GMD sở hữu 60% vốn), sử dụng 2.213 tỷ đồng để mua sắm tài sản cố định, bao gồm 3 tàu biển trọng tải khoảng 1,800 TEU (giá trị 1.350 tỷ đồng); 2 cẩu STS sức nâng 85 tấn (giá trị 654,5 tỷ đồng) và 7 sà lan sức chở 248 TEU (giá trị 208,5 tỷ đồng).
Còn lại, Công ty dùng gần 231 tỷ đồng trả một phần nợ vay gốc (bao gồm đến hạn và trước hạn) cho Ngân hàng TNHH MTV Shinhan Việt Nam và Ngân hàng TMcổ phiếu Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV).
Thời gian giải ngân nguồn vốn thu được từ chào bán dự kiến trong quý 4/2024 và quý 1/2025.
交易股票、货币、商品、期货、债券、基金等金融工具或加密货币属高风险行为,这些风险包括损失您的部分或全部投资金额,所以交易并非适合所有投资者。
做出任何财务决定时,应该进行自己的尽职调查,运用自己的判断力,并咨询合格的顾问。本网站的内容并非直接针对您,我们也未考虑您的财务状况或需求。本网站所含信息不一定是实时提供的,也不一定是准确的。本站提供的价格可能由做市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他财务决定均应完全由您负责,并且您不得依赖通过网站提供的任何信息。我们不对网站中的任何信息提供任何保证,并且对因使用网站中的任何信息而可能造成的任何交易损失不承担任何责任。
未经本站书面许可,禁止使用、存储、复制、展现、修改、传播或分发本网站所含数据。提供本网站所含数据的供应商及交易所保留其所有知识产权。