行情
新闻
分析
用户
快讯
财经日历
学习
数据
- 名称
- 最新值
- 前值
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
公:--
预: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
无匹配数据
最新观点
最新观点
最近更新
港股投资的风险预警
尽管香港法律体系和监管框架相对健全,但港股市场仍然存在一些特定的风险和挑战,如港币与美元挂钩,外地投资者可能会面临汇率波动;中国内地的政策变化和经济状况对港股的影响等。
投资港股费用结构与税务
港股市场的交易成本包括总投资成本为买卖股票的交易费用、印花税、结算费用等,对于外地投资者,可能会涉及兑换港币所产生汇率转换费用,以及按照所在地的相关法规需缴纳的税款。
港股行业分析:非必需消费行业
港股市场非必需消费行业覆盖汽车、教育、旅游、餐饮、服装等多个领域,在643家上市公司中35%为中国内地公司,占总市值的65%,因此受中国经济影响深远。
港股行业分析:地产建筑业
地产建筑业在港股指数中的份额近年已明显下降,但截2022年,它依然在市场上占有约10%的份额。包含了房地产开发、建筑工程、房地产投资和物业管理等各个方面。
中国·香港
越南·胡志明
阿联酋·迪拜
尼日利亚·拉各斯
埃及·开罗
查看所有搜索结果
暂无数据
Quý 2/2024, chi phí vận chuyển của các doanh nghiệp thủy sản tăng thêm hàng chục tỷ đồng so với cùng kỳ, tác động không nhỏ đến kết quả cuối cùng, bất chấp doanh thu khả quan.
Thống kê từ VietstockFinance cho thấy, 19 doanh nghiệp thủy sản trên sàn (HOSE, HNX và UPCoM) đã công bố báo cáo tài chính quý 2/2024 có tổng doanh thu đạt khoảng 18.2 ngàn tỷ đồng, tăng 22%; trong khi lợi nhuận đi lùi 22%, còn 563 tỷ đồng. 14 công ty tăng trưởng doanh thu, nhưng cải thiện về mặt lợi nhuận chỉ có 10 đơn vị.
MPC, ASM, VHC, IDI, FMC và ANV vẫn là những cái tên có doanh thu trên ngàn tỷ. Doanh thu và lãi ròng của 6 doanh nghiệp này chiếm tỷ trọng lần lượt 80% và 96% tổng nguồn thu của ngành.
Chi phí vận chuyển tăng bằng lần
Ở nhóm doanh thu ngàn tỷ, khả quan nhất về lợi nhuận có lẽ là Nam Việt với mức lãi 17.5 tỷ đồng trong khi cùng kỳ lỗ 51 tỷ đồng. Nhờ sản lượng tăng, doanh thu quý 2 lên cao nhất kể từ năm 2022. Kế đó là Tập đoàn Sao Mai , doanh thu và lợi nhuận tăng trở lại sau nhiều quý liên tiếp đi xuống.
Các doanh nghiệp còn lại đều giảm lãi dù doanh thu tăng, do tác động từ chi phí vận chuyển. Ngay cả với ANV, khoản chi này cũng lên hơn 36 tỷ đồng, gấp đôi cùng kỳ.
Lãi giảm sâu nhất là “nữ hoàng” cá tra Vĩnh Hoàn - rơi gần một nửa, còn 314 tỷ đồng; trong khi doanh thu tăng 17%, lên 3.1 ngàn tỷ đồng. Ngoài việc giá bán nhóm sản phẩm cá tra trong kỳ giảm như Doanh nghiệp lý giải, “chi phí vận chuyển, lưu kho và các chi phí” lên 50 tỷ đồng, tăng 38%; lũy kế nửa đầu năm tăng 56%.
Áp lực chi phí cước tàu tăng cao làm lãi ròng Đầu tư và Phát triển Đa Quốc Gia - IDI đi lùi 31%, còn hơn 15 tỷ đồng, trong bối cảnh doanh thu đi ngang ở mức 1.9 ngàn tỷ đồng và lãi vay giảm đáng kể.
Tương tự, do gấp đôi chi phí vận chuyển và không còn khoản hoàn phí thuế chống bán phá giá khiến Thực phẩm Sao Ta giảm lãi 7%, về 66 tỷ đồng; dù xuất khẩu khả quan đưa doanh thu tăng 20%, đạt 1.2 ngàn tỷ đồng.
Chi phí vận chuyển của một số doanh nghiệp thủy sản đầu ngành (Đvt: tỷ đồng)Nguồn: Người viết tổng hợp
Tập đoàn Thủy sản Minh Phú (UPCoM: MPC) có doanh thu và lãi ròng quý 2 tăng 59% và 202% đạt 3.7 ngàn tỷ đồng và 33 tỷ đồng. Theo Doanh nghiệp, kết quả này nhờ hoạt động nuôi tôm giống và tôm thương phẩm bắt đầu có hiệu quả. Tuy nhiên, lãi trước thuế của “vua tôm” vẫn thấp hơn 11% so với quý 2/2023. Chênh lệch giữa chi phí thuế TNDN hoãn lại đã tạo lợi thế về lãi ròng nói trên.
KQKD quý 2 các doanh nghiệp doanh thu trên ngàn tỷ đồng (Đvt: tỷ đồng)Nguồn: VietstockFinance
Phân hóa ở nhóm doanh nghiệp quy mô nhỏ
Ở nhóm quy mô nhỏ hơn, phần lớn có doanh thu tăng trưởng nhưng lợi nhuận phân hóa. THP, SJ1, ABT, KHS và CCA tăng lãi mạnh trong khi CMX, ACL, ICF, JOS, CAD hay AAM đi lùi hay thậm chí lỗ nặng hơn cùng kỳ.
Thuận lợi mọi mặt trong quý 2 có thể kể đến SJ1, ABT và THP. Doanh thu của Thủy sản và Thương mại Thuận Phước (UPCoM: THP) đạt 897 tỷ đồng, tăng 31%; lãi ròng 13.2 tỷ đồng, tăng 110%, lên cao nhất trong nhiều năm.
Lãi ròng của Xuất nhập khẩu Thủy sản Bến Tre A đạt 34 tỷ đồng, tăng 19%, chỉ xếp sau mốc kỷ lục 39 tỷ đồng hồi quý 2/2010. Doanh thu đạt 159 tỷ đồng, tăng 18%. Tương tự, doanh thu và lãi ròng quý 2 của Nông nghiệp Hùng Hậu (HNX: SJ1) đều tăng đột biến, lần lượt đạt 30% và 236% tức 383 tỷ đồng và 9.7 tỷ đồng. SJ1 thu lãi cao nhất từ năm 2019.
Xuất nhập khẩu Thủy sản Cần Thơ (UPCoM: CCA) có lãi trở lại sau 2 quý liên tục báo lỗ, đạt 4.7 tỷ đồng. Doanh thu tăng 38%, đạt 322 tỷ đồng, nhờ nhu cầu cá tra tăng khi nền kinh tế thế giới dần phục hồi.
Nguyên nhân Xuất nhập khẩu Thủy sản An Giang A có lãi trở lại là nhờ nền kinh tế Trung Quốc dần hồi phục sau đại dịch COVID-19, các đơn vị gia công đẩy nhanh lượng hàng xuất khẩu, sản xuất tăng.
Dù vậy, các doanh nghiệp nói trên cũng ít nhiều bị tác động bởi chi phí vận chuyển. Chẳng hạn, mức lãi của THP bị hạn chế rất lớn vì chi phí vận chuyển đường biển; lũy kế nửa đầu năm tăng 140%, từ 19 tỷ đồng lên 45 tỷ đồng và chủ yếu biến động mạnh trong quý 2. Chi phí cước tàu CNF của CCA trong 6 tháng đầu năm đến 30 tỷ đồng, gấp 3 lần cùng thời điểm năm ngoái. ABT cũng “cảm nhận” được mức tăng này, dù nhỏ.
KQKD quý 2 các doanh nghiệp tăng lãi (Đvt: tỷ đồng)Nguồn: VietstockFinance
Ở nhóm giảm lãi, Xuất nhập khẩu Thủy sản Cửu Long An Giang A có doanh thu tăng 150%, đạt 562 tỷ đồng - cao nhất từ trước đến nay; lãi vay giảm một nửa, gần 8 tỷ đồng. Điểm trừ duy nhất là chi phí vận chuyển và phí khác tăng thêm 12 tỷ đồng trong quý 2 và gấp 4 lần cùng kỳ; làm lãi giảm 26%, còn 3.2 tỷ đồng.
Chi phí lãi vay cao đi kèm lỗ tỷ giá là nguyên nhân khiến lãi ròng Camimex Group C trở về mức thấp nhất trong nhiều năm qua, giảm 75%, còn 4.7 tỷ đồng; bất chấp doanh thu tăng 27%, đạt 693 tỷ đồng.
AAM, JOS và CAD là những cái tên đều có doanh thu và lợi nhuận đi lùi. Riêng JOS và CAD tiếp tục lỗ ròng, thậm chí nặng hơn năm ngoái.
Do kinh doanh dưới giá vốn và chi phí lãi vay cao, Chế biến Thủy sản xuất khẩu Minh Hải (UPCoM: JOS) lỗ gần 24 tỷ đồng, tiệm cận mức lịch sử quý 2/2022. JOS đang mất dần doanh thu từ nhiều năm nay, hiện chỉ đạt 11.3 tỷ đồng. Tương tự, Thủy sản MeKong A báo lỗ 1.6 tỷ đồng do giá vốn cao hơn doanh thu và chi phí vận chuyển tăng lên.
KQKD quý 2 các doanh nghiệp giảm lãi (Đvt: tỷ đồng)Nguồn: VietstockFinance
Diễn biến chi phí vận chuyển một số doanh nghiệp quy mô trung bình (Đvt: tỷ đồng)Nguồn: Người viết tổng hợp
Phần lớn chưa đạt mục tiêu về lợi nhuận
Sau nửa đầu năm 2024, khoảng một nửa số doanh nghiệp thủy sản hoàn thành trên 50% kế hoạch doanh thu năm. Đạt hơn 50% mục tiêu lợi nhuận năm chỉ có 3 cái tên đáng chú ý gồm VHC, THP và ABT. Riêng VHC đặt chỉ tiêu đi lùi so với năm 2023.
Ở nhóm doanh thu ngàn tỷ, MPC còn cách rất xa vạch đích, đặc biệt về lợi nhuận khi lãi sau thuế mới chỉ đạt 4% chặng đường cả năm. IDI hay ANV cũng chỉ mới đạt 13-14% lợi nhuận sau thuế kế hoạch.
Tiến độ thực hiện so với kế hoạch sau nửa năm của các doanh nghiệp thủy sảnNguồn: Người viết tổng hợp
Chứng khoán KB (KBS) dự báo ngành thủy sản sẽ phục hồi vào nửa cuối năm 2024, khi ngân hàng trung ương của các thị trường chính phát tín hiệu giảm lãi suất, tác động tích cực đến khả năng tiêu dùng. Tuy nhiên, KBS cho rằng, còn nhiều yếu tố bất định từ ngoại cảnh như mức thuế chống bán phá giá, căng thẳng địa chính trị làm giá cước tăng phi mã, thẻ vàng IUU, cạnh tranh quốc tế.
Ở thị trường Mỹ, tôm Việt Nam đang chờ quyết định chính thức về mức thuế chống trợ cấp và chống bán phá giá; chưa kể đang phải cạnh tranh quyết liệt với tôm Ecuador. Thị trường tôm Nhật Bản sẽ hồi phục chậm hơn, nhưng có thể là điểm đến tiếp theo của các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hiện nay nhờ việc ưa chuộng sản phẩm chế biến sâu.
Ngược lại, KBS đánh giá thị trường Mỹ và châu Âu có nhiều triển vọng đối với cá tra vào nửa cuối năm, đặc biệt hưởng lợi từ sắc lệnh cấm bán cá minh thái từ Nga.
Giá cá tra xuất khẩu được dự báo có khả năng phục hồi nhẹ trong giai đoạn cuối năm 2024, do thiếu hụt nguồn cung. Nguyên nhân bao gồm giá thấp cùng thời tiết bất lợi khiến nhiều hộ nông dân hạn chế thả nuôi mới, nhưng việc giá cước tăng cao khi vận chuyển đến Mỹ và châu Âu sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến lợi nhuận các doanh nghiệp.
Về chi phí vận chuyển, một báo cáo từ Chứng khoán SSI hồi đầu năm nhận định: căng thẳng địa chính trị, đặc biệt leo thang tại khu vực Biển Đỏ có thể khiến giá cước vận chuyển tiếp tục ở mức cao trong năm 2024; một phần do lượng tàu đặt đóng mới hiện tại ở mức thấp nhất lịch sử, chỉ bằng 8% số tàu hiện có.
Tử Kính
FILI
Dự báo xuất khẩu thủy sản sẽ tăng mạnh cuối năm 2024
Chứng khoán Vietcap vừa có báo cáo cập nhật triển vọng ngành thủy sản với điểm nhấn xuất khẩu thủy sản sẽ tăng tốc nửa cuối năm 2024. Theo đó, giá trị xuất khẩu cá tra của Việt Nam đạt 920 triệu USD tăng 5% so với cùng kỳ trong nửa đầu năm 2024...
Dựa trên ước tính từ dữ liệu của AgroMonitor, giá trị xuất khẩu cá tra của Việt Nam tăng 11% đạt 502 triệu USD trong quý 2/2024, chủ yếu được thúc đẩy bởi mức tăng trưởng mạnh về sản lượng 22% một phần bị ảnh hưởng bởi mức giảm 10% trong giá xuất khẩu trung bình. Giá bán trung bình của VHC và IDI lần lượt tăng 20% và 13% vào tháng 7/2024 từ mức đáy vào tháng 12/2023.
Giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam trong nửa đầu năm 2024 cũng tăng 8% đạt 1,6 tỷ USD. Trong quý 2/2024, giá trị xuất khẩu tôm đi ngang ở mức -1% chủ yếu bởi mức tăng trưởng 3% về sản lượng bù đắp cho giá xuất khẩu giảm 4% so với cùng kỳ.
Sản lượng xuất khẩu tăng trưởng mạnh tại các thị trường Mỹ và Trung Quốc và tăng trưởng ở mức một chữ số tại Châu Âu trong quý 2/2024. Trong quý 2/2024, sản lượng xuất khẩu cá tra sang thị trường Mỹ tăng mạnh 40% trong khi sản lượng xuất khẩu sang Trung Quốc tăng 23%. Sản lượng xuất khẩu sang thị trường Châu Âu tăng nhẹ 5%. VASEP dự báo xuất khẩu cá tra của Việt Nam sẽ tiếp tục đà tăng trưởng mạnh mẽ khi các nhà kinh doanh thực phẩm tại các thị trường trọng điểm này đang tăng cường dự trữ cho mùa lễ hội vào cuối quý 3 và quý 4.
Nhận định về triển vọng thủy sản cuối năm, theo Vietcap, tại thị trường Mỹ, chi tiêu tiêu dùng tại Mỹ dự kiến sẽ cải thiện trong nửa cuối năm 2024 mặc dù niềm tin của người tiêu dùng yếu hơn trong quý 2/2024. Trong khi chi tiêu của người tiêu dùng cho thực phẩm đã tăng tạm thời vào tháng 4/2024 trong mùa Chay, mức chi tiêu đã đi ngang trong những tháng tiếp theo do niềm tin của người tiêu dùng giảm.
Theo Hội đồng Hội nghị Mỹ, những lo ngại về sự bất ổn kinh tế vĩ mô trong ngắn hạn đã dẫn đến sự sụt giảm niềm tin, thúc đẩy chi tiêu thận trọng hơn. Xu hướng này trở nên nghiêm trọng hơn do lạm phát, gây áp lực buộc các nhà bán lẻ lớn phải giảm giá trong quý 2/2024.
Tuy nhiên, các nhà bán lẻ Mỹ kỳ vọng chi tiêu của người tiêu dùng sẽ vẫn tiếp tục bền bỉ, với xu hướng chuyển sang phân khúc giá rẻ tiếp diễn trong nửa cuối năm 2024. Do đó, mức tiêu dùng của người tiêu dùng Mỹ sẽ tiếp tục phục hồi so với cùng kỳ trong nửa cuối năm 2024. Tuy nhiên, những lo ngại về bất ổn hiện tại có thể sẽ khiến các nhà xuất khẩu thủy sản Việt Nam gặp khó khăn trong việc đạt được mức tăng trưởng đáng kể so với cùng kỳ về giá bán trung bình trong giai đoạn này.
Tại thị trường Trung Quốc, nhu cầu cá tra sẽ thuận lợi hơn so với nhu cầu tôm yếu tại thị trường Trung Quốc vào năm 2024. Theo dữ liệu của Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc, trong nửa đầu năm 2024, các chỉ số kinh tế vĩ mô của Trung Quốc phản ánh mức tăng trưởng một chữ số trong doanh số bán lẻ và ngành dịch vụ ăn uống, trong khi niềm tin của người tiêu dùng và giá cả bắt đầu giảm từ tháng 2/2024.
Reuters đưa tin rằng các nhà hoạch định chính sách lo ngại về nguy cơ giảm phát trong nửa cuối năm 2024 do nhu cầu trong nước yếu kéo dài và giá thực phẩm giảm trong quý 2/2024.
Ở cấp độ ngành thủy sản, VASEP dự báo sẽ có sự cạnh tranh gia tăng trong xuất khẩu tôm khi Ecuador, Ấn Độ và Indonesia tăng cường xuất khẩu sang Trung Quốc, do Mỹ áp dụng thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp cao. Sự cạnh tranh gia tăng này có thể gây áp lực lên giá xuất khẩu tôm của Việt Nam.
Ngược lại, hành vi chi tiêu thận trọng của người tiêu dùng Trung Quốc có thể có lợi cho các nhà xuất khẩu cá tra Việt Nam, vì cá tra có giá trị kinh tế hơn so với các loài cá thịt trắng khác như cá rô phi và cá chép trên thị trường thủy sản phân mảnh của Trung Quốc.
Tại thị trường EU, các biện pháp kiểm soát chặt chẽ của EU đối với các sản phẩm thủy sản của Nga và Trung Quốc có thể có lợi cho xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU. Quyết định của Hội đồng EU vào tháng 12/2023 về việc loại các sản phẩm thủy sản của Nga khỏi chế độ miễn thuế trong giai đoạn 2024-2026 tạo ra các cơ hội tiềm năng dài hạn cho Việt Nam để tăng sản lượng xuất khẩu các sản phẩm thủy sản, bao gồm tôm và cá tra, sang thị trường EU.
Thị trường Nhật Bản dự kiến sẽ phục hồi mạnh hơn vào nửa cuối năm 2024. Theo VASEP, các nhà sản xuất tôm Việt Nam có lợi thế cạnh tranh và vị thế thị trường mạnh mẽ trong việc xuất khẩu tôm chế biến chất lượng cao sang Nhật Bản so với các nhà xuất khẩu tôm khác. VASEP dự kiến nhu cầu tôm tại thị trường Nhật Bản cải thiện khi nước này bước vào mùa cao điểm nhu cầu về tôm vào nửa cuối năm 2024.
Nhiều giao dịch bán cổ phiếu của loạt lãnh đạo ANV
Trong tháng 7 và 8, hàng loạt lãnh đạo tại CTCP Nam Việt (HOSE: ANV) đã bán hoặc đang trong giai đoạn bán ra cổ phiếu của Công ty.
Cụ thể, Phó Tổng Giám đốc Trần Minh Cảnh đã bán 200 ngàn cp ANV trong giai đoạn 25/07-19/08/2024, thông qua phương thức khớp lệnh và thỏa thuận. Sau giao dịch, ông Cảnh giảm sở hữu tại ANV từ 450 ngàn cp (tỷ lệ 0.34%) xuống còn 250 ngàn cp (tỷ lệ 0.18%). Với giá đóng cửa trung bình khoảng 32,225 đồng/cp trong giai đoạn này, ước tính ông Cảnh có thể thu về khoảng 6.5 tỷ đồng. Ngày 19/08, cổ phiếu ANV xuất hiện giao dịch thỏa thuận đúng 200 ngàn cp, giá trị gần 6.5 tỷ đồng.
Giai đoạn từ 12/07-10/08, Kế toán trưởng Nguyễn Hà Thu Diễm có ý định bán toàn bộ 15 ngàn cp ANV nắm giữ nhưng kết quả lại không hoàn tất giao dịch, với lý do đã sắp xếp được nguồn tài chính.
Trước đó, trong thời gian từ 12-18/07, Phó Tổng Giám đốc Nguyễn Thanh Liêm đã bán khớp lệnh 100 ngàn cp ANV, giảm sở hữu từ 452.5 ngàn cp (tỷ lệ 0.34%) xuống còn 352.5 ngàn cp (tỷ lệ 0.26%).
Gần đây, vì mục đích cá nhân, Thành viên HĐQT Đỗ Thị Thanh Thủy muốn bán toàn bộ 70 ngàn cp ANV nắm giữ, từ ngày 25/07-23/08.
Không chỉ 2 tháng gần đây mà trong những giai đoạn trước đó, các lãnh đạo ANV cũng thường xuyên thực hiện các giao dịch cổ phiếu.
Trong giai đoạn các giao dịch diễn ra, cổ phiếu ANV có nhiều biến động lên xuống nhưng nhìn chung vẫn duy trì xu hướng đi ngang trong vùng giá 30,000-36,000 đồng/cp đã duy trì từ những tháng đầu năm 2024.
Về bức tranh kinh doanh, doanh nghiệp xuất khẩu cá tra thu lãi ròng 17.5 tỷ đồng trong quý 2/2024, xấp xỉ quý 1/2024, trong khi cùng kỳ năm trước lỗ đến 51 tỷ đồng. Dù vậy, lãi ròng 6 tháng chỉ đạt 34 tỷ đồng, thấp hơn mức 41 tỷ đồng cùng kỳ.
Lãnh đạo ANV đặt mục tiêu năm 2024 mang về 5 ngàn tỷ đồng doanh thu và 360 tỷ đồng lãi trước thuế, tăng 13% và gấp gần 6 lần so với thực hiện 2023, nhưng tới nay mới thực hiện lần lượt 46% và 14% kế hoạch.
Kinh doanh giảm sút, một lãnh đạo Navico hoàn tất giảm sở hữu
Sau khi bán thành công 200.000 cổ phiếu ANV, ông Trần Minh Cảnh đã giảm sở hữu tại Navico từ 0,34% xuống còn 0,18%.
Ông Trần Minh Cảnh - Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Nam Việt (Navico - HoSE: ANV) vừa thông báo hoàn tất giao dịch cổ phiếu. Cụ thể, ông Cảnh đã bán thành công 200.000 cổ phiếu ANV từ ngày 25/7 đến ngày 19/8/2024 theo phương thức khớp lệnh hoặc thỏa thuận với mục đích cá nhân.
Sau khi giao dịch hoàn tất, ông Cảnh giảm sở hữu tại Nam Việt từ 450.000 cổ phiếu, tương đương tỉ lệ 0,34%, xuống còn 250.000 cổ phiếu, tương đương tỉ lệ 0,18%.
Tại phiên giao dịch ngày 19/8, cổ phiếu ANV có giá chốt phiên là 32.550 đồng/cổ phiếu. Tạm tính theo mức thị giá này, ông Cảnh dự tính đã thu về khoảng 6,5 tỷ đồng.
Diễn biến thị giá cổ phiếu ANV.
Tại một diễn biến khác, bà Đỗ Thị Thanh Thủy - Thành viên HĐQT Navico cũng đăng ký bán ra toàn bộ 70.000 cổ phiếu ANV đang nắm giữ để giảm lượng cổ phiếu hiện tại về 0.
Trước đó, từ ngày 12/7 đến ngày 18/7, ông Nguyễn Thanh Liêm - Phó Tổng Giám đốc Navico đã bán ra 100.000 cổ phiếu và giảm sở hữu tại ANV về còn 352.500 cổ phiếu, tương ứng tỷ lệ 0,26%.
Động thái trên diễn ra trong bối cảnh tình hình kinh doanh của công ty ghi nhận sự lao dốc trong thời gian gần đây.
Cụ thể, quý II/2024, công ty ghi nhận doanh thu thuần đạt 1.193 tỷ đồng, tăng 11% so với cùng kỳ năm trước. Giá vốn hàng bán tăng cao nhưng chậm hơn mức tăng của doanh thu nên lợi nhuận gộp của Nam Việt trong quý tăng gấp 2,9 lần lên 143 tỷ đồng.
Ở chiều ngược lại, chi phí tài chính của Nam Việt đạt 27 tỷ đồng, giảm 41% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu nhờ tiết giảm chi phí lãi vay. Ngược lại, chi phí bán hàng của Nam Việt lại ghi nhận phát sinh thêm 60% lên 68,7 tỷ đồng.
Quý II/2024 Nam Việt báo lãi 17,5 tỷ đồng, cải thiện đáng kể so với số lỗ 51 tỷ đồng cùng kỳ năm trước.
Trước sự bào mòn trên, sau khi trừ các chi phí, quý II/2024 Nam Việt báo lãi 17,5 tỷ đồng, cải thiện đáng kể so với số lỗ 51 tỷ đồng cùng kỳ năm trước.
Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024, doanh thu thuần của Nam Việt đạt 2.209 tỷ đồng, giảm nhẹ so với nửa đầu năm 2023. Kết quả, doanh nghiệp ngành thủy sản này báo lãi 34 tỷ đồng, giảm 17% so với cùng kỳ năm trước.
Năm 2024, Thủy sản Nam Việt đặt mục tiêu doanh thu đạt 5.000 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế đạt 306 tỷ đồng. Như vậy, kết thúc 2 quý đầu năm, công ty đã hoàn thành 44% kế hoạch doanh thu và vỏn vẹn 11% chỉ tiêu lợi nhuận.
VHC - Kỳ vọng phục hồi rõ nét hơn trong nửa cuối năm 2024
❖ KQKD Q2/2024 gặp nhiều khó khăn: VHC ghi nhận doanh thu đạt 3.196 tỷ đồng (+17% yoy) và LNST đạt 336 tỷ đồng (-26% yoy) trong Q2/2024. Qua đó trong 6 tháng đầu năm, doanh thu VHC đạt 6.074 tỷ đồng (+22% yoy) và LNST đạt 525 tỷ đồng (-26% yoy). Mặc dù vậy lợi nhuận ghi nhận trong quý 2 đã có sự phục hồi mạnh mẽ qua từng quý (+78% qoq) và đây là mức lợi nhuận cao nhất của VHC trong 4 quý gần đây. Ngoài ra, VHC cũng đang ghi nhận khoản lỗ từ danh mục đầu tư chứng khoán với mức tạm lỗ khoảng 19% t
❖ Xuất khẩu cá tra kỳ vọng lấy lại đà tăng trưởng so với cùng kỳ trong 6 tháng cuối năm: Theo VASEP, lũy kế 6 tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất khẩu cá tra cả nước đạt 918 triệu USD, tăng 5% so với cùng kỳ. Thị trường Trung Quốc và Hồng Kông tiếp tục là thị trường lớn nhất, đạt 258 triệu USD. Mỹ sau khi ban hành lệnh cấm với thủy sản Nga, đã nhập khẩu thêm số lượng lớn cá tra phi lê đông lạnh từ Việt Nam, đạt 160 triệu USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm ngoái. Bên cạnh đó, với mức nền thấp của 6 tháng cuối năm 2024, xuất khẩu cá tra cả nước nói chung và xuất khẩu cá tra của Vĩnh Hoàn nói riêng kỳ vọng sẽ tăng trưởng mạnh trở lại so với cùng kỳ nửa cuối 2024
❖ Giá nguyên liệu giảm, giá xuất khẩu cá tra trên đà phục hồi: Tính đến cuối tháng 6, giá cá tra xuất khẩu bình quân sang Mỹ tăng 13% và Trung Quốc tăng 8% so với đầu năm. Với các tín hiệu tích cực của các thị trường lớn, giá cá tra được kỳ vọng sẽ tiếp đà phục hồi vào giai đoạn cuối năm. Ngoài ra, chi phí cho thức ăn của cá tra giảm nhờ tình hình thời tiết thuận lợi hơn so với 2023, cũng góp phần làm tăng biên lợi nhuận
❖ Mở rộng mảng Collagen và Gelatin giúp đa dạng hóa danh mục sản phẩm: VHC đã nâng cấp thêm 1 dây chuyền sản xuất Gelatin đã đi vào hoạt động từ T4/2024 qua đó giúp tăng thêm 50% công suất mảng này trong năm nay. Đây là mảng có biên lợi nhuận cao và đem lại KQKD ổn định cho doanh nghiệp.
Vĩnh Hoàn xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ tăng tới 92%
Nửa đầu năm 2024, Vĩnh Hoàn thu về 6.051 tỷ đồng doanh thu thuần, tăng 22% YoY; lợi nhuận sau thuế đạt 524,9 tỷ đồng, giảm 23% YoY.
Tháng 7/2024, ngoại trừ thị trường Trung Quốc ghi nhận kết quả giảm so với cùng kỳ năm trước, các thị trường xuất khẩu còn lại của Vĩnh Hoàn đều tăng trưởng cao về doanh thu.
Thông tin từ CTCP Vĩnh Hoàn (mã VHC), tháng 7/2024 doanh nghiệp đạt 1.120 tỷ đồng doanh thu, tăng 30% so với cùng kỳ năm trước (YoY).
Sản phẩm cá tra của Vĩnh Hoàn có đà tăng trưởng tới 54% YoY, từ mức 394 tỷ đồng cùng kỳ năm trước lên 608 tỷ đồng trong tháng 7/2024. Các mặt hàng như sản phẩm hỗn hợp cũng tăng 24% YoY, đạt 173 tỷ đồng; sản phẩm chăm sóc sức khỏe đạt 71 tỷ đồng, tăng 7% YoY.
Bánh phồng tôm cũng mang về 34 tỷ đồng cho doanh nghiệp, tương ứng cao hơn cùng kỳ 67%; mì và bánh tráng đạt 33 tỷ đồng, tăng tới 83% YoY...
Sản phẩm phụ là mặt hàng duy nhất của Vĩnh Hoàn có doanh thu giảm so với cùng kỳ năm trước với -10%, còn 188 tỷ đồng.
Về thị trường, Mỹ là thị trường có doanh thu lớn nhất của Vĩnh Hoàn với 384 tỷ đồng, đây cũng là thị trường có mức tăng trưởng cao nhất với +92% YoY. Đứng sau là thị trường nội địa với 301 tỷ đồng, tăng 11% YoY; thị trường châu Âu cũng đem về 159 tỷ đồng cho VHC, tăng nhẹ 4% YoY.
Trái ngược, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng của Vĩnh Hoàn sang Trung Quốc lại giảm 13% so với cùng kỳ, còn 119 tỷ đồng.
Theo báo cáo tài chính hợp nhất, quý 2/2024 VHC giảm 26% lợi nhuận sau thuế hợp nhất so với cùng kỳ năm trước, chỉ đạt mức 335 tỷ đồng. Mức giảm lợi nhuận của doanh nghiệp diễn ra trong bối cảnh doanh thu dù tăng nhưng giá cá tra tiêu thụ của doanh nghiệp giảm, khiến biên lợi nhuận của doanh nghiệp ở mức thấp.
Cụ thể, doanh thu thuần trong quý của Vĩnh Hoàn đạt 3.195 tỷ đồng, tăng 17% YoY. Tuy nhiên biên lợi nhuận gộp của doanh nghiệp chỉ đạt 14,4%.
Nửa đầu năm 2024, Vĩnh Hoàn thu về 6.051 tỷ đồng doanh thu thuần, tăng 22% YoY; lợi nhuận sau thuế đạt 524,9 tỷ đồng, giảm 23% YoY.
Trong năm 2024, Vĩnh Hoàn đặt kế hoạch doanh thu hợp nhất với kế hoạch cơ bản là 10.700 tỷ đồng (tăng 6,6% so với thực hiện năm 2023), kế hoạch cao là 11.500 tỷ đồng (tăng 14%). Lãi ròng hợp nhất với kế hoạch cơ bản là 800 tỷ đồng (giảm 12,9% so với năm 2023), mức cao đạt 1.000 tỷ đồng (tăng 8,8%).
Với kết quả 2 quý đầu năm 2024, VHC đã hoàn thành 65% kế hoạch lãi ròng cơ bản và 52% kế hoạch mức cao trong năm 2024 đối với kinh doanh hợp nhất.
Biến động của thế giới có mang “mùa xuân” đến sớm với doanh nghiệp xuất khẩu Việt?
Các doanh nghiệp xuất khẩu đang đón nhận nhiều cơ hội tích cực trong ngắn hạn. Song các chuyên gia cũng dự báo về một số rủi ro sẽ phải đối mặt như biến động tỷ giá, phụ thuộc nguyên phụ liệu đầu vào, chi phí vận tải biển leo thang...
Thông tin từ tọa đàm “Xuất khẩu khởi sắc - Có tiếng liệu có miếng", tổng kim ngạch xuất khẩu 7 tháng đầu năm 2024 đạt mức 227 tỷ USD (tăng 15,7% so với cùng kỳ). Dự kiến ngành xuất khẩu Việt Nam những tháng còn lại của năm 2024 vẫn sẽ tiếp tục tăng trưởng tốt so với mức thấp của năm 2023 khi các thị trường xuất khẩu chính đang tích cực nhập hàng hóa dự trữ cho mùa mua sắm cuối năm đang cận kề.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp niêm yết trong ngành xuất nhập khẩu đã công bố kết quả kinh doanh bán niên. Đây là thời điểm thích hợp cho nhà đầu tư để lựa chọn những doanh nghiệp tận dụng được “sóng ngành”, có chiến lược kinh doanh bài bản, có sức khỏe tài chính ổn định.
BẠO LOẠN BANGLADESH CHỈ MANG ĐẾN TÍCH CỰC NGẮN HẠN
Theo các chuyên gia kinh tế đánh giá, một trong những ngành quan trọng đóng góp tốt vào hoạt động xuất nhập khẩu trong thời gian tới là dệt may. Tuy nhiên, nhiều nhà đầu tư bày tỏ sự quan ngại rằng nhóm ngành này sẽ bị ảnh hưởng bởi bạo loạn tại Bangladesh.
Về vấn đề này, ông Trần Nhật Trung, Giám đốc Phân tích tại Công ty Chứng khoán ACB (ACBS) đánh giá, căng thẳng ở Bangladesh dẫn đến các doanh nghiệp may mặc tại đây đóng cửa trong ngắn hạn, cho nên các doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng để tăng trưởng doanh thu trong thời gian ngắn chứ không duy trì được trong lâu dài.
Ông Trung lý giải, Bangladesh vốn dĩ là một quốc gia có nhiều bất ổn chính trị. Song, quốc gia này vẫn có nhiều lợi thế cạnh tranh các đơn hàng may mặc hơn so với Việt Nam, như lương nhân công thấp, chỉ khoảng 75 - 100 USD so với khoảng 300 USD của Việt Nam, trong khi đó Việt Nam vừa mới tăng lương cơ bản.
Ông Trần Nhật Trung, Giám đốc Phân tích tại Công ty Chứng khoán ACB (ACBS)
“Ngoài ra, do đây là ngành trọng yếu của Bangladesh với việc chiếm khoảng 80% kim ngạch xuất khẩu nên rất được Chính phủ hỗ trợ. Họ có chuỗi cung ứng gần như hoàn thiện từ đầu đến cuối, trong khi Việt Nam chỉ tập trung vào phần may, chưa sản xuất được đầu vào, dẫn đến nhiều nước vẫn ưa chuộng Bangladesh hơn Việt Nam”, vị chuyên gia này phân tích.
Một ý kiến khác, PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân, giảng viên cao cấp Đại học Kinh tế TP.HCM cho biết, trước đây ngành dệt may Việt đã mất một số đơn hàng do họ chuyển sang Bangladesh vì không đáp ứng yêu cầu của các thị trường lớn.
"Một điều cần nhắc đến là chúng ta chậm chuyển đổi xanh, trong khi các nhãn hàng, thị trường lớn đòi chúng ta phải dán nhãn xanh, nhãn carbon. Bangladesh bất ổn nhưng chúng ta không đủ điều kiện xuất khẩu ra những thị trường khó tính thì chúng ta không tận dụng được cơ hội", ông Huân cho biết.
Điều này cũng không có gì bất ngờ khi trước đây, Việt Nam từng chứng kiến xu hướng nhiều dịch chuyển từ Trung Quốc sang các nước lân cận của các doanh nghiệp FDI khi cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung dâng cao.
"Nhiều người nói Việt Nam cơ hội vươn lên phát triển, xuất khẩu tăng trưởng bùng nổ nhưng từ năm 2018 đến nay, xuất khẩu vẫn tăng nhưng không được như kỳ vọng. Vấn đề là có cơ hội nhưng chúng ta có nắm bắt được không?", ông Nguyễn Hữu Huân phân tích.
Vậy, vấn đề đặt ra là liệu các doanh nghiệp Việt có chấp nhận các đơn hàng giá rẻ mà các doanh nghiệp thường trả cho Bangladesh?
Ông Trần Nhật Trung cho rằng: "Việc cạnh tranh với Bangladesh không trực tiếp vì việc phân bổ các đơn hàng phụ thuộc vào doanh nghiệp bán lẻ lớn. Tuy nhiên các đơn hàng Bangladesh thường có biên lợi nhuận thấp hơn các đơn hàng Việt Nam. Vì vậy Bangladesh có vấn đề nhưng chưa chắc Việt Nam được hưởng lợi vì chúng ta đã quen với đơn hàng biên lợi nhuận lớn hơn. Ví dụ như lâu nay các đơn hàng đang có biên lợi nhuận 20% thì liệu chúng ta có nhận đơn hàng chỉ 10%?".
Bổ sung thêm, PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân cho biết dù hiện Việt Nam đã tham gia chuỗi giá trị toàn cầu tuy nhiên vẫn còn khiêm tốn do chủ yếu thiên về gia công, khó chủ động nguồn nguyên vật liệu và thị trường, dễ bị ảnh hưởng bởi biến động chính trị.
"Rõ ràng xuất khẩu đang có điểm sáng của Việt Nam, vấn đề cần xem lại là cấu trúc kinh tế, doanh nghiệp sản xuất... để có thể tối ưu các lợi thế có được", ông Huân nhấn mạnh.
SẢN XUẤT TRUNG QUỐC HỒI PHỤC ẢNH HƯỞNG XẤU ĐẾN NGÀNH TIÊU DÙNG VÀ LOGISTIC
Trong khuôn khổ tọa đàm, các chuyên gia cũng bình luận về tình hình sản xuất của Trung Quốc hiện tại. PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân thông tin, hoạt động sản xuất kinh doanh của Trung Quốc đang có dấu hiệu phục hồi.
Bên cạnh đó Trung Quốc hiện nay cũng xây dựng khá nhiều kho xung quanh khu vực ở biên giới với Việt Nam với mục tiêu chính là xuất hàng qua Việt Nam. Đó là các mặt hàng giá trị nhỏ nhưng lượng tiêu thụ ở Việt Nam tương đối cao. Một vấn đề nữa là hoạt động logistics của họ vào thị trường Việt Nam tương đối tốt.
“Khi chúng ta từ TP.HCM đặt hàng qua Taobao thì chỉ khoảng 2 - 3 ngày là có thể nhận hàng, nếu chậm có thể mất 4 - 5 ngày. Điều này tương đương với những doanh nghiệp logistics trong nước, nhưng hàng hóa của Trung Quốc lại có giá rẻ hơn rất nhiều. Do đó, trong thời gian tới nhiều khả năng thị phần của Trung Quốc sẽ tăng lên thông qua chiến lược này”, ông Huân cho biết.
Theo ông Huân, ngành hàng tiêu dùng chắc chắn bị ảnh hưởng xấu nhất, bởi về chi phí, giá cả, mẫu mã thì các doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam rất khó cạnh tranh với hàng Trung Quốc. Song song với đó, lĩnh vực logistics cũng sẽ ảnh hưởng ít nhiều.
PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân, giảng viên cao cấp Đại học Kinh tế TP.HCM
Đánh giá về tác động lên các ngành xuất khẩu của Việt Nam như dệt may, thủy sản, gỗ, ông Trần Nhật Trung cho rằng đều không sợ bị cạnh tranh bởi Trung Quốc.
Theo Giám đốc Phân tích ACBS, Việt Nam xuất khẩu nhiều nhất là qua Mỹ ở ngành may mặc và gỗ, còn thủy sản thì trong 6 tháng đầu năm xuất sang Trung Quốc tăng tốt.
Nếu nói về cạnh tranh, bản chất doanh nghiệp may mặc không cạnh tranh với doanh nghiệp Trung Quốc, ngay cả Bangladesh cũng không cạnh tranh trực tiếp.Vì việc phân bổ các đơn hàng thường là quyết định ở các doanh nghiệp bán lẻ. Mặt khác, các đơn hàng của Bangladesh thường có biên lợi nhuận thấp hơn của Việt Nam, nên ngay cả khi Bangladesh có vấn đề thì chưa chắc Việt Nam hưởng lợi nhiều.
Còn về thủy sản, chúng ta cũng xuất khẩu sang Trung Quốc, bên cạnh đó mặt hàng xuất khẩu chính là cá tra - mặt hàng mà Việt Nam có chi phí sản xuất rẻ hơn nhiều so với Trung Quốc.
Ông Trung cũng phân tích thêm, doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu cạnh tranh về giá và đó là lợi thế. Do những hàng hóa đặc thù như vậy nên cả ba ngành thủy sản, dệt may, gỗ đều không sợ bị cạnh tranh bởi Trung Quốc.
CẦN NHANH CHÓNG "CHUYỂN ĐỔI KÉP"
Các chuyên gia cũng đưa ra dự báo, doanh nghiệp xuất khẩu trong thời gian tới cũng phải đối mặt với một số rủi ro gia tăng. Cụ thể, biến động tỷ giá, phụ thuộc nguyên phụ liệu đầu vào, chi phí vận tải biển leo thang là những trở ngại cho sự phục hồi sản xuất và xuất khẩu, từ đó tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Giám đốc Phân tích ACBS cảnh báo: "Chi phí logistics tăng cao đã tác động đáng kể đến các doanh nghiệp xuất khẩu. Chịu ảnh hưởng nhiều nhất là ngành thuỷ sản do xuất khẩu nhiều sang thị trường Mỹ. Trong đó có thể kể tới các doanh nghiệp như Vĩnh Hoàn, Nam Việt. Các doanh nghiệp xuất khẩu đi các thị trường châu Á ít ảnh hưởng hơn".
Bên cạnh đó, do phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên phụ liệu từ bên ngoài, nên dù xuất khẩu tăng, nhưng đi kèm theo đó là rủi ro cũng gia tăng khi giá đầu vào biến động. Việt Nam xuất khẩu nhiều nhưng nhập khẩu cũng nhiều, nhất là dệt may, yếu tố gia công còn lớn. Khi tỷ giá neo cao xuất khẩu được lợi, thì chiều nhập khẩu các doanh nghiệp cũng chịu tác động. Do đó lợi thế không quá lớn so với các quốc gia chủ động được nguồn nguyên phụ liệu trong nước.
Mặt khác, trong xu thế các quốc gia nhập khẩu lớn như Mỹ, EU yêu cầu về sản phẩm xanh, sản phẩm dán nhãn carbon, các chuyên gia cho rằng, doanh nghiệp hãy nhanh chóng thực hiện "chuyển đổi kép".
Các doanh nghiệp phải song hành chuyển đổi số lẫn chuyển đổi xanh, bởi đây là xu hướng tất yếu phải theo của doanh nghiệp, nếu không muốn bị loại khỏi chuỗi giá trị.
Các nhóm sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam được dự báo sẽ chịu tác động mạnh nhất từ hàng rào thương mại xanh trong thời gian tới bao gồm sản phẩm điện, điện tử, nông sản, thủy sản, gỗ và sản phẩm từ gỗ, thực phẩm, dệt may, giày dép…
交易股票、货币、商品、期货、债券、基金等金融工具或加密货币属高风险行为,这些风险包括损失您的部分或全部投资金额,所以交易并非适合所有投资者。
做出任何财务决定时,应该进行自己的尽职调查,运用自己的判断力,并咨询合格的顾问。本网站的内容并非直接针对您,我们也未考虑您的财务状况或需求。本网站所含信息不一定是实时提供的,也不一定是准确的。本站提供的价格可能由做市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他财务决定均应完全由您负责,并且您不得依赖通过网站提供的任何信息。我们不对网站中的任何信息提供任何保证,并且对因使用网站中的任何信息而可能造成的任何交易损失不承担任何责任。
未经本站书面许可,禁止使用、存储、复制、展现、修改、传播或分发本网站所含数据。提供本网站所含数据的供应商及交易所保留其所有知识产权。