行情
新闻
分析
用户
快讯
财经日历
学习
数据
- 名称
- 最新值
- 前值
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
公:--
预: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
公:--
预: --
--
预: --
前: --
公:--
预: --
--
预: --
前: --
公:--
预: --
公:--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
无匹配数据
最新观点
最新观点
最近更新
港股投资的风险预警
尽管香港法律体系和监管框架相对健全,但港股市场仍然存在一些特定的风险和挑战,如港币与美元挂钩,外地投资者可能会面临汇率波动;中国内地的政策变化和经济状况对港股的影响等。
投资港股费用结构与税务
港股市场的交易成本包括总投资成本为买卖股票的交易费用、印花税、结算费用等,对于外地投资者,可能会涉及兑换港币所产生汇率转换费用,以及按照所在地的相关法规需缴纳的税款。
港股行业分析:非必需消费行业
港股市场非必需消费行业覆盖汽车、教育、旅游、餐饮、服装等多个领域,在643家上市公司中35%为中国内地公司,占总市值的65%,因此受中国经济影响深远。
港股行业分析:地产建筑业
地产建筑业在港股指数中的份额近年已明显下降,但截2022年,它依然在市场上占有约10%的份额。包含了房地产开发、建筑工程、房地产投资和物业管理等各个方面。
中国·香港
越南·胡志明
阿联酋·迪拜
尼日利亚·拉各斯
埃及·开罗
查看所有搜索结果
暂无数据
Liên tục phát hành trái phiếu khủng: Nhu cầu vốn của các ngân hàng có thật sự lớn đến thế?
Động lực phát hành trái phiếu lớn nhất của các ngân hàng có lẽ đến từ nhu cầu tài trợ cho các trái phiếu đến hạn thanh toán, cũng như cơ cấu lại kỳ hạn của các trái phiếu.
Động thái liên tục phát hành trái phiếu khủng của ACB chỉ là một trong những nét chấm phá phác họa bức tranh chung rộng hơn của ngành ngân hàng trong thời gian qua. Điều gì thúc đẩy các ngân hàng liên tục phát hành trái phiếu với giá trị lớn như thế?
Từ điểm phác họa ACB
Sau đợt phát hành trái phiếu riêng lẻ lần 1 và lần 2 năm 2024 với quy mô phát hành tối đa mỗi đợt là 15.000 tỉ đồng trong chín tháng đầu năm, mới đây Hội đồng quản trị Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu (ACB) thông qua phương án phát hành trái phiếu riêng lẻ lần 3 năm 2024 với quy mô tối đa 15.000 tỉ đồng. Như vậy, dự kiến trong năm 2024, ACB sẽ phát hành lượng trái phiếu lên tới 45.000 tỉ đồng - mức cao kỷ lục trong lịch sử hoạt động của ngân hàng này.
Phải chăng ACB đang có nhu cầu vốn lớn đến thế để đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh doanh trong năm nay cũng như giai đoạn tới? Báo cáo tài chính hợp nhất quí 3-2024 cho thấy ACB đạt mức tăng trưởng tín dụng khá cao - lên tới 14% trong chín tháng đầu năm 2024, hiện quy mô dư nợ đã lên tới 554.908 tỉ đồng. Ở hoạt động đầu tư, danh mục chứng khoán mà ACB đang nắm giữ (chủ yếu là trái phiếu) cũng tăng hơn 37%, lên 100.862 tỉ đồng. Đây là hai khoản mục chiếm tỷ trọng lớn nhất bên sử dụng vốn của ngân hàng.
Khoản mục lớn thứ 3, tiền gửi và cho vay trên thị trường liên ngân hàng của ACB có giá trị 92.090 tỉ đồng, giảm 22.784 tỉ đồng, tương ứng giảm 20% so với cuối năm 2023. Tuy nhiên, phần nhận tiền gửi và vay của các tổ chức tín dụng khác cũng giảm 15.987 tỉ đồng, tương ứng giảm 18% trong cùng khoảng thời gian, xuống còn 73.519 tỉ đồng tính đến ngày 30-9-2024. Chênh lệch giữa tiền gửi/cho vay và nhận tiền gửi/đi vay của ACB là 18.571 tỉ đồng, cho thấy ngân hàng này vẫn đang thừa vốn để mang kinh doanh trên thị trường 2.
Ở phần nguồn vốn đầu vào, tiền gửi khách hàng của ACB đến ngày 30-9-2024 là hơn 512.123 tỉ đồng, chỉ tăng 6% so với đầu năm, thấp hơn dư nợ cho vay cả về tốc độ tăng lẫn quy mô tuyệt đối. Trong khi đó, nguồn vốn chủ sở hữu là 78.854 tỉ đồng, cũng thấp hơn giá trị đầu tư. Theo đó, phần chênh lệch giữa dư nợ và tiền gửi khách hàng, chênh lệch giữa nguồn vốn chủ sở hữu và chứng khoán đầu tư, chênh lệch giữa sử dụng vốn và nguồn vốn trên thị trường 2, cũng như phần vốn sử dụng cho các tài sản khác, đang được tài trợ bởi lượng giấy tờ có giá (GTCG) ACB đã phát hành.
Tính đến ngày 30-9-2024, lượng GTCG này của ACB là 90.366 tỉ đồng, tăng mạnh 37.956 tỉ đồng so với cuối năm 2023. Con số này cao hơn nhiều lượng trái phiếu mà ACB đã phát hành trong chín tháng đầu năm là xấp xỉ 30.000 tỉ đồng. Tuy nhiên, nếu đi sâu vào chi tiết sẽ thấy mức tăng trưởng của GTCG chủ yếu đến từ chứng chỉ tiền gửi kỳ hạn dưới một năm, trong khi lượng trái phiếu chỉ tăng rất nhẹ.
Cụ thể, trái phiếu mà ACB đã phát hành là 40.649 tỉ đồng, tăng 1.989 tỉ đồng, tương đương tăng 5,1% so với đầu năm; còn chứng chỉ tiền gửi gần 49.717 tỉ đồng, chiếm 55% tổng GTCG và tăng mạnh 35.967 tỉ đồng, tương đương tăng hơn 2,6 lần. Đáng chú ý, lượng trái phiếu kỳ hạn từ 1-2 năm là 31.899 tỉ đồng, chiếm tỷ trọng 78% danh mục trái phiếu và 35% tổng giá trị GTCG. So với đầu năm, trái phiếu kỳ hạn 1-2 năm tăng 8.350 tỉ đồng, tương đương tăng hơn 35%, trong khi các kỳ hạn 3 năm giảm 9.130 tỉ đồng, 5 năm tăng 2.767 tỉ đồng và 10 năm tăng nhẹ 3 tỉ đồng.
Đến bức tranh rộng hơn của ngành ngân hàng
Động thái liên tục phát hành trái phiếu khủng của ACB chỉ là một trong những nét chấm phá phác họa bức tranh chung rộng hơn của ngành ngân hàng trong thời gian qua, khi nhóm này đã tăng cường đa dạng hóa nguồn vốn đầu vào và tích cực huy động vốn qua kênh trái phiếu.
Theo báo cáo của Công ty Chứng khoán MB (MBS), tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp phát hành thành công riêng trong tháng 9 của ngành ngân hàng ước đạt khoảng 60.000 tỉ đồng.
Tính lũy kế từ đầu năm 2024, ngân hàng cũng là nhóm ngành có giá trị phát hành trái phiếu nhiều nhất với khoảng 245.400 tỉ đồng, tăng 188% so với cùng kỳ năm 2023 và chiếm tỷ trọng 74% toàn thị trường, lãi suất bình quân gia quyền là 5,6%/năm, kỳ hạn bình quân 5,3 năm. Các ngân hàng phát hành trái phiếu có giá trị lớn nhất từ đầu năm đến nay gồm: ACB (29.800 tỉ đồng), Techcombank (26.700 tỉ đồng), OCB (24.700 tỉ đồng)...
Với lãi suất huy động đã thiết lập xu hướng đi lên trở lại và có thể còn tiếp tục leo cao hơn, việc các ngân hàng tận dụng giai đoạn vừa qua để tăng cường phát hành trái phiếu là điều có thể hiểu được, nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào tiền gửi khách hàng trên thị trường dân cư, vốn rất nhạy cảm với sự biến động của lãi suất. Ngược lại, nguồn vốn huy động từ kênh trái phiếu có kỳ hạn dài hơn nên cũng mang tính bền vững hơn.
Tuy nhiên, động lực phát hành trái phiếu lớn nhất của các ngân hàng có lẽ đến từ nhu cầu tài trợ cho các trái phiếu đến hạn thanh toán, cũng như cơ cấu lại kỳ hạn của các trái phiếu. Nhìn vào cơ cấu trái phiếu của ACB nói riêng và nhiều ngân hàng khác nói chung, các trái phiếu kỳ hạn ngắn chiếm tỷ trọng lớn, điều này xuất phát từ việc các ngân hàng đã tích cực phát hành trái phiếu kỳ hạn 1-2 năm trong những năm qua. Do đó, các ngân hàng này phải phát hành trái phiếu thay thế liên tục để cân đối nguồn vốn khi các trái phiếu trên lần lượt đến hạn.
Bên cạnh đó, với các trái phiếu kỳ hạn dài từ năm năm trở lên, những năm về sau các ngân hàng cũng có nhu cầu mua lại trước hạn các trái phiếu này và phát hành các trái phiếu kỳ hạn dài tương đương để thay thế. Theo quy định hiện nay, các trái phiếu có kỳ hạn còn lại trên năm năm sẽ được tính vào vốn tự có cấp 2 để tính toán hệ số an toàn vốn (CAR), do đó nhu cầu thay thế các trái phiếu có kỳ hạn còn lại dưới năm năm thường xuyên phát sinh.
Ngoài ra, vốn điều lệ của các ngân hàng đã liên tục tăng trong những năm qua. Nguồn lợi nhuận giữ lại khá lớn nhờ kinh doanh hiệu quả. Những điều này giúp vốn tự có cấp 1 tăng mạnh, từ đó đã tạo điều kiện cho các ngân hàng phát hành trái phiếu với quy mô ngày càng lớn hơn, vì theo quy định, vốn tự có cấp 2 (chủ yếu là trái phiếu kỳ hạn dài) tối đa bằng 100% vốn tự có cấp 1.
Cuối cùng, nợ xấu vẫn đang tăng lên từng ngày, trong khi các ngân hàng phải liên tục cơ cấu lại nợ cho khách hàng, từ những khách hàng gặp khó khăn đáp ứng điều kiện theo Thông tư 06/2024/TT-NHNN cho đến những khách hàng bị ảnh hưởng bởi cơn bão Yagi vừa qua. Điều này khiến nhu cầu vốn trung và dài hạn của các ngân hàng tăng, nhằm giữ vững tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn theo quy định. Do đó, tăng cường phát hành trái phiếu là một lựa chọn tất yếu.
Đại biểu Quốc hội kiến nghị cho phép ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước chủ động tăng vốn điều lệ
Đại biểu Quốc hội cho rằng cần có các quy định thông thoáng hơn cho phép các ngân hàng thương mại do Nhà nước chi phối vốn (big4) được chủ động tăng vốn điều lệ từ nguồn lợi nhuận giữ lại bởi đây là kênh cung ứng vốn chủ lực cho nền kinh tế...
Dự kiến ngày 30/11/2024, Quốc hội sẽ biểu quyết thông qua Nghị quyết Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, trong đó có nội dung về: chủ trương đầu tư bổ sung vốn nhà nước tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (VCB).
Trước đó, ngày 23/10/2024, Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc đã thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày trước Quốc hội Tờ trình về chủ trương đầu tư bổ sung vốn nhà nước tại Vietcombank.
Theo đó, ở thời điểm này, Chính phủ đề xuất cho phép được sử dụng lợi nhuận còn lại sau thuế, sau trích lập để tăng vốn điều lệ thông qua hình thức trả cổ tức bằng cổ phiếu. Với phương án này, phần lợi nhuận được chia cho cổ đông Nhà nước bằng cổ phiếu là 20.695 tỷ đồng (làm tròn). Đây được xem là phần đầu tư bổ sung vốn nhà nước vào Vietcombank.
Tại phiên thảo luận ở tổ trong khuôn khổ Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, đại biểu Hoàng Văn Cường (đoàn Đại biểu Quốc hội TP. Hà Nội) nhất trí với chủ trương đầu tư bổ sung vốn nhà nước tại Vietcombank theo tờ trình của Chính phủ để đảm bảo hệ số an toàn vốn (CAR) cho ngân hàng.
Theo ông Cường, CAR = Vốn tự có/(Tổng tài sản Có rủi ro) x 100%. Trong đó, vốn tự có bao gồm vốn điều lệ và lợi nhuận còn lại sau thuế, sau trích lập dự phòng.
“Phần lợi nhuận sau thuế có thể chia ngay cho cổ đông trong đó có cổ đông Nhà nước nhưng chia thì cổ đông hưởng, không chia mà chuyển thành vốn điều lệ thì trở thành vốn cố định của ngân hàng. Hiện nay, hơn một nửa vốn tự có của Vietcombank không nằm ở vốn cố định mà nằm ở phần lợi nhuận tích luỹ. Như vậy, CAR của ngân hàng không bền vững. Nếu không chuyển lợi nhuận tích luỹ thành vốn cố định thì sang năm ngân sách cần lại huy động số tiền đó, như vậy CAR sụt giảm”, đại biểu Hoàng Văn Cường nói.
Đại biểu Phạm Đức Ấn (đoàn Đại biểu Quốc hội TP. Hà Nội) cho biết thêm "tổng tài sản Có" rủi ro chính là tổng dư nợ tín dụng của mỗi ngân hàng. Theo thông lệ quốc tế, phần vốn điều lệ phải chiếm đa số vốn tự có của các ngân hàng thì bộ đệm vốn (CAR) mới đảm bảo.
Hiện nay, dư nợ tại 4 ngân hàng do Nhà nước chi phối vốn (big4) đang chiếm gần 45% tổng dư nợ toàn hệ thống nhưng vốn điều lệ lại thấp hơn nhiều so với các ngân hàng thương mại cổ phần có dư nợ chỉ bằng một nửa.
“Vietcombank là 1 trong 4 ngân hàng thương mại do Nhà nước chi phối vốn. Dư nợ của 4 ngân hàng này chiếm gần 45% tổng dư nợ toàn hệ thống; có vai trò dẫn dắt, luôn đi đầu trong thực thi chủ trương của Đảng và chính sách mà Chính phủ đề ra; là công cụ rất quan trọng của Ngân hàng Nhà nước trong điều tiết thị trường tiền tệ nhưng vốn điều lệ lại thấp hơn các thương mại cố phần có dư nợ nhỏ hơn rất nhiều”, ông Ấn nói và nêu ví dụ VPBank hiện nay có vốn điều lệ lên tới 79,4 nghìn tỷ đồng; cao nhất hệ thống còn Techcombank đứng thứ 2 với vốn điều lệ khoảng 70,4 nghìn tỷ đồng.
“Như Agribank là ngân hàng 100% vốn Nhà nước thì cứ có lợi nhuận là hàng quý nộp luôn vào ngân sách còn ngân hàng cổ phần thì họ được giữ lại lợi nhuận chưa chia. Ví dụ, hiện nay dư nợ của mỗi ngân hàng thuộc nhóm big 4 đạt khoảng trên dưới 1,5 triệu tỷ đồng, nếu mỗi năm tăng trưởng 10-15% thì năm nào cũng phải tăng vốn. Mà theo quy định hiện nay, cứ đầu tư vốn Nhà nước trên 10.000 tỷ đồng thì phải trình Chính phủ, Quốc hội thảo luận và thông qua mất rất nhiều thời gian”, ông Ấn cho biết và đề xuất nên hình thành cơ chế nếu ngân hàng hoạt động hiệu quả thì cho phép chủ động tăng vốn điều lệ để đảm bảo an toàn.
Đại biểu Hoàng Văn Cường đồng tình với đại biểu Phạm Đức Ấn nên cân nhắc và xem xét lại quy định hiện nay đối với trường hợp ngân hàng nói riêng và doanh nghiệp Nhà nước nói chung phải xin tăng vốn điều lệ từ nguồn lợi nhuận tích luỹ.
“Tiền của doanh nghiệp làm ăn có lãi thì họ quyết định tăng vốn dựa trên Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông. Tới đây, sửa Luật Đầu tư vốn Nhà nước vào doanh nghiệp (Luật 69 – PV) phải nghiên cứu sửa đổi quy định này”, đại biểu Hoàng Văn Cường khuyến nghị và cho rằng nếu mỗi lần ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước tăng vốn trên 10.000 tỷ đồng lại phải làm thủ tục như hiện nay thì quá rườm rà, gây lãng phí thời gian và nguồn lực
Khi nào ngành ngân hàng Việt Nam có "sếu đầu đàn" ở khu vực?
Từ 2012 đến nay, trong các đề án tái cơ cấu hệ thống và chiến lược phát triển của ngành ngân hàng ở từng thời kỳ, mục tiêu “đưa ngân hàng Việt Nam lọt top 100 ngân hàng lớn nhất châu Á” luôn được nhắc đến như một phần không thể tách rời. Tuy nhiên, điều này vẫn chưa thể hiện thực hoá, lý do thì nhiều nhưng yếu tố quan trọng nhất vẫn là bài toán tăng vốn điều lệ, đặc biệt là với ngân hàng cổ đông nhà nước chi phối vốn...
Hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam hiện có khoảng trên 30 ngân hàng, đảm nhận phần lớn nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Trong những thời điểm thị trường tài chính bất ổn, đặc biệt là trái phiếu, bảo hiểm khủng hoảng như mấy năm gần đây, áp lực vốn lời đòi nhiều hơn về phía các ngân hàng. Vốn mong khẩn cấp mở rộng quy mô gánh trên vai trách nhiệm nặng nề nhưng năng lực tài chính ngân hàng Việt Nam so với khu vực rất khiêm tốn, nguyên nhân chủ yếu là vốn điều lệ (pháp định) hạn chế. Bởi lẽ, khi vốn điều lệ thấp, trong bối cảnh buộc phải thực hiện các chuẩn mực an toàn theo Basel III, ví dụ như chỉ số CAR (tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu), các ngân hàng Việt Nam càng không thể mở rộng quy mô tổng tài sản.
Về tình hình thị trường, chuyên gia nhận định rằng nhóm ngân hàng cổ đông nhà nước chịu áp lực lớn vì phải vừa cấp tín dụng cho tăng trưởng, vừa chịu trách nhiệm tài trợ cho các dự án chính phủ và các nhiệm vụ an sinh xã hội, nhất là trong các thời điểm khó khăn như thảm họa dịch bệnh. Tuy nhiên, do vốn điều lệ hạn chế nên không thể mở rộng hoạt động như mong muốn. Do đó, việc tăng vốn điều lệ như trường hợp của Vietcombank sẽ giúp ngân hàng phát triển hơn.
Tuy nhiên, vấn đề vốn từ cơ (gồm vốn điều lệ hoặc vốn được cấp công với các quỹ dự trữ và một số loại tài sản nợ khác theo quy định của NHNN) của hệ thống ngân hàng hiện nay đang gặp phải tình trạng bất hợp lý giữa năng lực vốn từ cơ và nhiệm vụ mở rộng tổng tài sản để cấp tín dụng cho nền kinh tế. Chính sách tài khoản 45 điều 4 thông tư 41/2016/TT-NHNN ghi ro: vốn từ cơ và tài sản có rủi ro là cơ sở để xác định hệ số CAR.
Trong bối cảnh này, việc tăng vốn để duy trì hoạt động và phát triển của ngân hàng là vô cùng quan trọng, đặc biệt với ngân hàng có sự chi phối của cổ đông nhà nước.
Cổ phiếu chủ hệ thống giáo dục kỹ năng sống Cara lên sàn HNX
Ngày 16/09, CTCP Tập đoàn Giáo dục Trí Việt (UPCoM: CAR) nhận quyết định chấp thuận niêm yết hơn 5 triệu cp lên sàn HNX từ Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội.
Một trong các trung tâm giáo dục của CAR. Nguồn: CAR
Kế hoạch niêm yết cổ phiếu được cổ đông CAR thông qua tại ĐHĐCĐ thường niên 2023 nhưng chưa thể thực hiện do thời gian hoàn tất thủ tục phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ kéo dài hơn dự kiến.
CAR cũng vừa đăng ký và được chấp thuận giao dịch bổ sung 1.2 triệu cp trong đợt chào bán thêm ra công chúng, diễn ra từ tháng 1-4/2024; nâng số lượng cổ phiếu được tự do chuyển nhượng từ ngày 16/07/2024 lên hơn 5 triệu đơn vị, bao gồm đợt phát hành 640 ngàn cp để trả cổ tức.
Công ty chào bán 3.2 triệu cp với giá 10,000 đồng/cp nhưng chỉ phân phối được hơn 1.2 triệu đơn vị cho 23 cổ đông. Phần 1.98 triệu cp còn lại được hủy bỏ sau khi hết thời gian gia hạn ngày 03/04/2024.
Với chỉ khoảng 12 tỷ đồng thu được, CAR điều chỉnh kế hoạch sử dụng vốn. Trong đó, đầu tư 4 tỷ đồng hợp tác liên kết một khu giáo dục trải nghiệm, thay vì 2 như trước; dành 8.1 tỷ đồng mua sắm giáo cụ, học liệu để tổ chức các hoạt động trải nghiệm tại các tỉnh.
Cổ phiếu CAR lên sàn UPCoM từ tháng 7/2022 với giá khởi điểm 11,000 đồng/cp. Thị giá đạt đỉnh quanh 23,500 đồng/cp cách đây khoảng 4 tháng trước khi rớt liên tục về 19,500 đồng/cp. Thanh khoản cũng thu hẹp dần, chỉ khoảng vài chục cổ phiếu mỗi phiên; trong khi trung bình giai đoạn 1.5 năm trước đó khoảng 5.8 ngàn đơn vị.
CAR được thành lập từ năm 2013 với vốn điều lệ chỉ hơn 1.65 tỷ đồng. Công ty hoạt động kinh doanh chuyên về đầu tư vào các dự án đào tạo, nghiên cứu, xây dựng và phát triển các sản phẩm, dịch vụ đào tạo về kỹ năng sống, kỹ năng mềm, STEM, robotics, giáo dục trải nghiệm…
Năm 2020, vốn điều lệ CAR lên 32 tỷ đồng sau 2 đợt phát hành năm cho cổ đông hiện hữu năm 2017 (lên 3.5 tỷ đồng) và năm 2018.
Bản cáo bạch năm 2021 của Công ty cho thấy các cổ đông sáng lập đều đã thoái sạch vốn gồm CTCP Đào tạo Việt Á, CTCP Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ ARD và CTCP Đào tạo Trẻ tài năng Việt Nam; chỉ còn cá nhân ông Nguyễn Trường Giang giữ 1.2%.
Cuối năm 2021, Chủ tịch HĐQT Nguyễn Thùy Thương cùng các thành viên trong gia đình từng sở hữu 67.9% vốn CAR, riêng bà Thương giữ 34.5%. Cùng với đó, CTCP Đầu tư và Tư vấn Kim Cương giảm từ 61.5% về 0%. Năm 2022, bà Thương thoát bớt vốn, về mức 25.14%; đồng thời, CTCP Fibo Invest và CTCP Đầu tư & Tư vấn IB Plus trở thành cổ đông sau khi tăng cổ phần nắm giữ lên lần lượt 24% và 14.2%.
Nửa đầu năm 2024, bà Nguyễn Thùy Thương mua thêm cổ phần trong đợt phát hành cho cổ đông hiện hữu nhưng bán ra sau đó, còn giữ 15.9% thời điểm cuối tháng 6. Phiên 03/05 ghi nhận lượng giao dịch thỏa thuận bằng tổng lượng bán ra của vị Chủ tịch và Kế toán trưởng Đào Thị Thanh Hà. Tổng giá trị giao dịch khoảng 22.3 tỷ đồng, tương đương 19,900 đồng/cp, thấp hơn khoảng 14% so với giá đóng cửa cùng ngày.
Giao dịch bán của bà Nguyễn Thùy Thương và Kế toán trưởng Đào Thị Thanh Hà thực hiện nửa đầu năm 2024. Nguồn: CAR
CAR có trụ sở chính tại tòa nhà Home City, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội; do bà Nguyễn Thùy Thương làm Chủ tịch HĐQT (từ năm 2017) kiêm đại diện pháp luật.
Ngoài chức Chủ tịch CAR, bà Nguyễn Thùy Thương còn đang là cổ đông lớn tại một số công ty như CTCP Fibo Invest và CTCP Đầu tư và Tư vấn IB Plus. Tháng 5/2024, IB Plus thông báo không còn là tổ chức liên quan đến bà Thương cũng như với các thành viên khác của Công ty.
Bà Nguyễn Thùy Thương từng ngồi ghế Thành viên HĐQT Dược phẩm Cửu Long (HOSE: DCL), Thành viên HĐQT Đầu tư và Phát triển Đa Quốc Gia - IDI (HOSE: IDI) giai đoạn 2015-2018; Trưởng phòng IB của Chứng khoán MB giai đoạn 2006-2015.
Bà Nguyễn Thùy Thương tại buổi lễ khai trương giao dịch cổ phiếu CAR năm 2022
Người đại diện pháp luật khác là Tổng Giám đốc Phạm Thị Lam Hồng, người vừa được bổ nhiệm thay thế vai trò của ông Nguyễn Thành Đồng trước đó. Bà Lam Hồng đang là Tổng Giám đốc Công ty TNHH Giáo dục SMB VN và từng làm Giám đốc Tuân thủ tại Lotte Mart Việt Nam giai đoạn 2018-2020, cũng như Giám đốc Tổ chức tại Big C Việt Nam giai đoạn 2003-2016.
Kết quả kinh doanh của CAR tăng bằng lần trong 6 năm qua. Doanh thu năm 2023 ghi nhận hơn 40 tỷ đồng, gấp 3.3 lần năm 2018, toàn bộ thu từ cung cấp dịch vụ đào tạo. Lãi ròng 2023 đạt 3.6 tỷ đồng. Công ty đặt mục tiêu doanh thu năm 2024 đạt 50.5 tỷ đồng cùng lãi sau thuế 5.2 tỷ đồng.
Theo bản cáo bạch năm 2022, CAR từng chi hơn 13 tỷ đồng đầu tư vào 13 trái phiếu mã APAXHOLDINGS_BOND2020 của CTCP Đầu tư Apax Holdings (UPCoM: IBC) trong năm 2021, công ty do ông Nguyễn Ngọc Thủy (Shark Thủy) làm Chủ tịch HĐQT - người đã bị khởi tố, bắt tạm giam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vào tháng 3 năm nay. Lô trái phiếu phát hành ngày 01/10/2020, kỳ hạn 3 năm và trả lãi 12.5%/năm nhưng đã được Công ty bán ra trong cùng năm.
Kết thúc 6 tháng đầu năm 2024, lợi nhuận trước thuế của SHB đạt hơn 6,860 tỷ đồng, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước, hoàn thành 61% kế hoạch năm, tiếp tục giữ CIR thấp nhất ngành.
Ngân hàng Sài Gòn – Hà Nội công bố báo cáo tài chính hợp nhất quý 2/2024, ghi nhận tổng tài sản tại ngày 30/06/2024 ở mức 659,767 tỷ đồng và vốn điều lệ đạt 36,629 tỷ đồng, giữ vị trí TOP 5 ngân hàng tư nhân lớn nhất Việt Nam.
Huy động vốn thị trường I của SHB đạt 500,177 tỷ đồng. Nhiều năm qua, SHB luôn nằm trong nhóm tăng trưởng huy động cao hơn bình quân ngành, là điểm đến tin cậy của người dân, doanh nghiệp và khách hàng gửi tiết kiệm, thanh toán sử dụng các dịch vụ, giải pháp tài chính.
Dư nợ tín dụng đạt 475,267 tỷ đồng, thuộc nhóm đầu các ngân hàng cung ứng dòng vốn ra thị trường. Trước bối cảnh nhu cầu vốn của nền kinh tế cải thiện, toàn hệ thống SHB đã tích cực thực hiện có hiệu quả chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN), chủ động làm việc trực tiếp với khách hàng, cùng tìm cách tháo gỡ vướng mắc trong tiếp cận vốn, đáp ứng kịp thời nguồn vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế.
Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024, lợi nhuận trước thuế của SHB đạt 6,860 tỷ đồng, tăng 13% so với cùng kỳ năm 2023, thực hiện 61% kế hoạch năm. Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) ở mức 25.91%. SHB tiếp tục là ngân hàng có chỉ số chi phí trên thu nhập (CIR) thấp nhất hệ thống ở mức 22.25%, với đóng góp từ chuyển đổi số, tự động hóa quy trình vận hành.
Các chỉ tiêu về an toàn hoạt động tiếp tục được ngân hàng củng cố, quản trị rủi ro theo Basel II và Basel III. Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của SHB ở mức 12.32%, cao hơn so với quy định của NHNN, tỷ lệ nợ xấu kiểm soát dưới 3%. Trong bối cảnh nợ xấu toàn ngành có xu hướng tăng trong 6 tháng đầu năm, SHB đang tập trung cao độ công tác giám sát và xử lý nợ xấu. Ngân hàng đã thành lập các tổ từ hội sở đến chi nhánh/phòng giao dịch, trực tiếp làm rõ và đưa ra các giải pháp phù hợp thu hồi nợ xấu, hỗ trợ khách hàng tháo gỡ/vượt qua khó khăn.
Chuẩn bị chi trả cổ tức bằng tiền và cổ phiếu, nâng vốn điều lệ lên 40,658 tỷ đồng
Vừa qua, SHB đã chốt danh sách cổ đông ngày 19/7 để chi trả cổ tức 2023 bằng tiền mặt với tỷ lệ 5%, thời gian thực hiện tại ngày 6/8. Ngân hàng cũng đang hoàn thiện hồ sơ trình cơ quan quản lý, thực hiện thủ tục phát hành cổ tức 2023 bằng cổ phiếu với tỷ lệ 11% trong quý 3/2024, dự kiến nâng vốn điều lệ lên 40,658 tỷ đồng.
SHB luôn đảm bảo quyền lợi cổ đông, chi trả cổ tức bằng cổ phiếu hằng năm với tỷ lệ 9.9 - 18% trong 5 năm qua (riêng cổ tức 2023 chi trả bằng hình thức tiền mặt và cổ phiếu). Ngân hàng liên tục nâng cao nền tảng vốn, các hệ số an toàn vốn, quản trị rủi ro luôn tuân thủ tốt hơn so với quy định của NHNN. SHB kiên định với định hướng phát triển bền vững, an toàn và hiệu quả, liên tục nâng cao năng lực quản trị theo chuẩn quốc tế, mô hình hiện đại.
Năm 2024 là năm bản lề của chiến lược chuyển đổi 2024-2028 của SHB. Ngân hàng đang tập trung nguồn lực để triển khai Chiến lược Chuyển đổi mạnh mẽ, toàn diện dựa trên 4 trụ cột: Cải cách cơ chế, chính sách, quy định, quy trình; Con người là chủ thể; Lấy khách hàng và thị trường làm trung tâm; Hiện đại hóa công nghệ thông tin và chuyển đổi số và kiên định theo 6 giá trị văn hóa cốt lõi “Tâm – Tin – Tín –Tri – Trí – Tầm”.
SHB đặt mục tiêu chiến lược trở thành Ngân hàng TOP 1 về hiệu quả; Ngân hàng Số được yêu thích nhất; Ngân hàng Bán lẻ tốt nhất, đồng thời là Ngân hàng TOP đầu cung ứng nguồn vốn, sản phẩm tài chính dịch vụ với khách hàng doanh nghiệp chiến lược tư nhân và Nhà nước, có chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị, hệ sinh thái, phát triển xanh.
FILI
Ngày 22/07/2024, Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank, HOSE: TCB) công bố kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm 2024, với kết quả ấn tượng ở những hạng mục kinh doanh cốt lõi, giúp lợi nhuận trước thuế tăng hơn 30% so với cùng kỳ, đạt 15.6 nghìn tỷ đồng. Kết quả kinh doanh ấn tượng đã đưa Techcombank trở thành ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam nhận hat-trick giải thưởng danh giá “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam” từ 3 tổ chức uy tín hàng đầu thế giới là Euromoney, FinanceAsia và Global Finance.
Tăng trưởng tín dụng lành mạnh
Trong 6 tháng đầu năm 2024, thu nhập lãi thuần (NII) tăng lên 18.0 nghìn tỷ đồng, ghi nhận mức tăng trưởng 40.2% so với cùng kỳ năm ngoái. Riêng quý 2 NII đạt 9.5 nghìn tỷ đồng, tăng 11.5% so với quý trước (tương đương mức tăng 50.6% so với quý 2 năm 2023). Kết quả này được dẫn dắt bởi tăng trưởng tín dụng lành mạnh và chi phí vốn tiếp tục giảm xuống mức 3.2%. Nhờ vậy, biên lãi thuần (NIM) theo quý cải thiện lên mức 4.6%.
Phí dịch vụ ngân hàng đầu tư đạt 1,792 tỷ đồng, tăng 199.0% so với cùng kỳ năm. Trong quý 2, Techcombank ghi nhận phí dịch vụ ngân hàng đầu tư đạt kỷ lục 1,000 tỷ đồng, cao hơn mức thu nhập của giai đoạn 2021-6 tháng đầu năm 2022, trước khi thị trường trái phiếu doanh nghiệp gặp nhiều thách thức.
Thu phí từ dịch vụ thẻ đạt 1,022 tỷ đồng, tăng 2.7% so với cùng kỳ năm trước. Thu từ phí dịch vụ bảo hiểm đạt 384.5 tỷ đồng, tăng 32.5% so với cùng kỳ năm trước, đưa Techcombank lên vị trí Top 2 về phí bảo hiểm quy năm (APE) trong quý 2/2024, và vị trí Top 3 trong 6 tháng đầu năm 2024.
Ngân hàng cũng ghi nhận 1,420 tỷ đồng thu nhập từ các hoạt động khác, với mức tăng trưởng cao 33.8%, chủ yếu đến từ lãi từ hoạt động kinh doanh trái phiếu. Thu nhập tăng trưởng tích cực tạo tiền đề để Ngân hàng duy trì tỷ lệ chi phí/thu nhập ở mức 28.0% trong nửa đầu 2024, giảm mạnh so với mức 32.3% cùng kỳ năm trước.
Chi phí dự phòng ghi nhận ở mức 2,855 tỷ đồng, tăng 112.8% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ bao phủ ở mức lành mạnh 101% tại cuối quý 2/2024. Tỷ lệ nợ xấu được kiểm soát dưới mức 1.3%, và tỷ lệ an toàn vốn tăng lên mức 14.5%.
Vị thế vốn của Ngân hàng vẫn được duy trì mạnh mẽ, với tỷ lệ cho vay trên tiền gửi (LDR) là 79.6% tại 30/6/2024, tuân thủ mức trần 80% theo quy định của NHNN. Tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn ở mức 24.2%, thấp hơn mức 25.1% tại ngày 31/3/2024. Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) theo Basel II của Ngân hàng lên mức 14.5% tại 30/6/2024, sau khi Ngân hàng đã hoàn tất chi trả cổ tức bằng tiền mặt, với tổng giá trị lên tới 5 nghìn tỷ đồng. Tỷ lệ an toàn vốn tiếp tục nằm trong ngưỡng mục tiêu 14-15%, đồng thời thể hiện khả năng sinh lời vượt trội trên vốn tự có của Ngân hàng.
Tổng dư nợ cần chú ý (SM) và nợ xấu (NPL) giảm nhẹ xuống 12.1 nghìn tỷ đồng, từ mức 12.4 nghìn tỷ đồng tại cuối quý 1, nhờ tốc độ hình thành nợ cần chú ý giảm và thành công trong thu hồi nợ. Tỷ lệ nợ xấu (NPL) được kiểm soát ở mức dưới 1.3%, trong đó tỷ lệ NPL của riêng ngân hàng chỉ ở mức 1.08%.
Tỷ lệ CASA đạt 37.4%, số dư CASA tiếp tục ở mức cao kỷ lục của Ngân hàng
Tại cuối quý 2/2024, tổng tài sản của Techcombank tăng 6.9% so với đầu năm, và 24 % so với cùng kỳ năm trước, lên mức 908.3 nghìn tỷ đồng. Tính riêng Ngân hàng, tín dụng tăng trưởng 11.6% so với đầu năm lên ngưỡng 591.6 nghìn tỷ, phù hợp với hạn mức tín dụng được cấp bởi Ngân hàng Nhà nước (NHNN).
Trên cơ sở hợp nhất, nhu cầu tín dụng trong nửa đầu 2024 đồng đều ở cả nhóm khách hàng doanh nghiệp và cá nhân, trong đó tín dụng khách hàng cá nhân ghi nhận mức tăng trưởng tích cực hơn trong quý 2. Cụ thể, dư nợ tín dụng khách hàng doanh nghiệp tăng 4.3% so với cùng kỳ quý trong quý 2, thấp hơn mức tăng 7.0% của dư nợ khách hàng cá nhân.
Dư nợ cho vay mua nhà phục hồi lên mức 181.7 nghìn tỷ đồng, tăng 6.3% so với đầu năm và 9.1% so với cùng kỳ. Giải ngân cho vay mua nhà tiếp tục đà tăng trưởng tốt, đạt 31.2 nghìn tỷ trong quý 2/2024, quay trở lại mức trung bình/quý trước khi thị trường bất động sản gặp khó khăn trong giai đoạn nửa sau năm 2022 đến quý 3/2023.
Tiền gửi của khách hàng đạt 481.9 nghìn tỷ đồng, tăng 6 % so với đầu năm và 26.2% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ CASA đạt 37.4%, trong lúc số dư CASA vẫn giữ ở mức cao nhất trong lịch sử, ở mức hơn 180 nghìn tỷ đồng. Tổng số dư tại các tài khoản “Sinh lời tự động” đạt khoảng hơn 14 nghìn tỷ đồng, tính đến ngày 30/6/2024.
Techcombank kết thúc nửa đầu năm 2024 với khoảng 14.4 triệu khách hàng, bổ sung thêm khoảng gần 1 triệu khách hàng mới trong kỳ. Có đến 55% khách hàng cá nhân gia nhập thông qua nền tảng số và 44% từ kênh chi nhánh, đặc biệt nhờ chương trình mở rộng nhóm khách hàng nhà bán lẻ (merchant).
Số lượng giao dịch của khách hàng cá nhân qua các kênh ngân hàng điện tử đạt 780.8 triệu giao dịch trong quý 2 năm 2024, tăng 14.6% so với cùng quý và 56.3% so với cùng năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm, tổng số lượng giao dịch đạt 1.5 tỷ giao dịch, tăng 57.4% so với cùng năm. Tổng giá trị giao dịch qua kênh ngân hàng điện tử trong quý 2 đạt 2.9 triệu tỷ đồng, lũy kế 6 tháng đầu năm đạt hơn 5.5 triệu tỷ đồng, tăng 25.5% so với cùng kỳ năm trước.
Sau 12 tháng triển khai các đề xuất giá trị được cá nhân hóa cho các nhà bán lẻ, Techcombank đã ghi nhận phản hồi đặc biệt tích cực từ hơn 600,000 nhà bán lẻ trên toàn quốc, đặc biệt với nhiều kết quả cao trong nửa đầu 2024. Số dư CASA/khách hàng cải thiện ~20% (so với trước khi triển khai giải pháp). Số lượng giao dịch thông qua QR của khách hàng là nhà bán lẻ đạt trung bình 17.5 triệu/ tháng, cao hơn 80% so với đầu năm.
Hat-trick giải thưởng “Ngân hàng xuất sắc nhất” từ Euromoney, FinanceAsia và Global Finance
Theo Tổng Giám đốc Jens Lottner, chiến lược vượt trội của Techcombank đã được các tổ chức quốc tế uy tín hàng đầu ghi nhận, đánh dấu Techcombank trở thành ngân hàng Việt Nam đầu tiên được cả ba tổ chức danh giá Euromoney, FinanceAsia và Global Finance vinh danh là “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam”, và đặc biệttrong cùng một năm 2024.
Techcombank được Euromoney vinh danh là “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam” lần thứ 5 kể từ năm 2010. Với giải thưởng này, được trao vào quý 2/2024, Techcombank đã trở thành ngân hàng Việt Nam duy nhất vinh dự nhận cú hat-trick với 3 giải thưởng từ các tổ chức uy tín hàng đầu trên thế giới là Euromoney, Global Finance và FinanceAsia. Sự kiện này ghi nhận kết quả kinh doanh tích cực, khả năng sinh lời, cũng như khẳng định chất lượng tài sản, mô hình quản trị rủi ro vượt trội và sức mạnh của bảng cân đối kế toán.
Giải thưởng trên cũng khẳng định chiến lược “Khách hàng là trọng tâm” và vai trò dẫn dắt hành trình chuyển đổi số, kiến tạo các giải pháp dựa trên nền tảng số hóa cho khách hàng cá nhân, doanh nghiệp và định chế. Chất lượng của các dịch vụ quản lý thanh khoản, ngân quỹ và ngoại hối dành cho khách hàng doanh nghiệp là tiền đề giúp Ngân hàng đồng thời được Euromoney vinh doanh với giải thưởng “Ngân hàng tốt nhất dành cho Doanh nghiệp”.
FILI
MSB được chấp thuận tăng vốn điều lệ thêm 6.000 tỷ đồng
Cũng trong tháng 6, MSB ghi nhận cột mốc quan trọng khi lọt vào bảng xếp hạng FORTUNE Southeast Asia 500 – danh sách 500 doanh nghiệp quy mô lớn nhất Đông Nam Á
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vừa thông báo chấp thuận cho MSB tăng vốn điều lệ thêm 6.000 tỷ đồng thông qua phát hành cổ phiếu trả cổ tức tỷ lệ 30%.
Theo đó, MSB sẽ tăng vốn theo hình thức phát hành cổ phiếu để trả cổ tức từ nguồn lợi nhuận để lại tính theo báo cáo tài chính kiểm toán tại 31/12/2023 sau khi trích các quỹ theo luật định. Tỷ lệ phát hành là 30% trên tổng số cổ phần đang lưu hành, tương đương phát hành thêm 600 triệu cổ phiếu. Sau khi tăng vốn, tổng số lượng cổ phiếu lưu hành dự kiến sẽ là 2,6 tỷ cổ phiếu, tương ứng với vốn điều lệ mới đạt 26.000 tỷ đồng.
Sau hơn 3 năm niêm yết cổ phiếu trên Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, MSB đã đạt mức vốn điều lệ hơn 1 tỷ USD. Việc tăng vốn điều lệ trong năm 2024 tiếp tục tạo động lực nâng vị thế cạnh tranh của ngân hàng theo quy mô, hỗ trợ bộ đệm vốn, giữ hệ số an toàn vốn CAR ở mức cao đồng thời góp phần thúc đẩy dòng chảy tín dụng.
Cũng trong tháng 6, MSB ghi nhận cột mốc quan trọng khi lọt vào bảng xếp hạng FORTUNE Southeast Asia 500 – danh sách 500 doanh nghiệp quy mô lớn nhất Đông Nam Á, khẳng định vị thế mạnh mẽ và tiềm năng phát triển của ngân hàng trong khu vực. Đây là đánh giá uy tín từ Tạp chí kinh tế hàng đầu của Mỹ với số liệu thu thập từ 7 quốc gia gồm Indonesia, Thái Lan, Singapore, Malaysia, Việt Nam, Philippines và Campuchia, dựa trên tiêu chí tổng doanh thu năm tài chính 2023.
Với tổng doanh thu hơn 1 tỷ USD, MSB là một trong 70 doanh nghiệp Việt được vinh danh. Kết quả này không chỉ minh chứng cho sự phát triển của MSB mà còn phản ánh vị thế cạnh tranh trên quy mô quốc tế cũng như sự tin tưởng ngày càng cao của khách hàng đối với ngân hàng.
Bên cạnh giải thưởng danh giá dưa trên kết quả kinh doanh, tháng 6 vừa qua cũng là thời điểm MSB công bố Báo cáo Phát triển bền vững (PTBV) năm thứ hai, thể hiện cam kết của ngân hàng trong chặng đường tăng trưởng kinh tế có cân nhắc đến các tiêu chí bền vững. Thông qua báo cáo này, MSB hướng đến sự minh bạch thông tin, nâng tầm công tác quản trị, xem xét và cân nhắc toàn diện về các tác động từ hoạt động kinh doanh của mình đến môi trường, xã hội với các bên quan tâm.
Điều này giúp ngân hàng định hướng các chiến lược phát triển có tính toán và tập trung cho mục tiêu phát triển bền vững, đồng thời cân bằng lợi ích của các bên liên quan. Trong những năm tới, MSB kì vọng Báo cáo Phát triển bền vững của ngân hàng có thể cung cấp thông tin đầy đủ và toàn diện hơn, theo các chuẩn mực quốc tế cao cấp nhằm phản ánh chi tiết hơn nữa các tác động của ngân hàng tới môi trường xã hội cũng như đánh giá được ảnh hưởng của biến đổi khí hậu với danh mục cho vay dựa trên dự báo và phân tích kịch bản.
Đại diện MSB cho biết: “Báo cáo PTBV là một trong những yếu tố quan trọng trong quá trình nâng cao vị thế ngân hàng trên thị trường nội địa và quốc tế. MSB nỗ lực hướng tới việc tích hợp tối ưu các tiêu chí phát triển bền vững (ESG) vào quy trình hoạt động; dịch chuyển cấu trúc nguồn vốn/tài sản theo tỷ trọng gia tăng của tiêu chí “xanh” và “phát triển bền vững”; đầu tư cho xây dựng sản phẩm, dịch vụ, mở rộng tệp khách hàng của ngân hàng theo xu thế này; coi khó khăn trong dịch chuyển “xanh” là cơ hội, đồng thời đảm bảo tuân thủ, minh bạch trong quản trị doanh nghiệp.
Trên cơ sở này, cùng với cam kết đồng hành cùng Chính phủ Việt Nam trong tiến trình giảm phát thải ròng carbon về mức 0 vào năm 2050, MSB sẽ vận hành kinh doanh đảm bảo sự lành mạnh và tăng trưởng bền vững, hướng tới lợi ích cam kết với cổ đông, lấy khách hàng làm trọng tâm, theo tôn chỉ “nhân văn” trong việc đóng góp trách nhiệm cộng đồng”.
交易股票、货币、商品、期货、债券、基金等金融工具或加密货币属高风险行为,这些风险包括损失您的部分或全部投资金额,所以交易并非适合所有投资者。
做出任何财务决定时,应该进行自己的尽职调查,运用自己的判断力,并咨询合格的顾问。本网站的内容并非直接针对您,我们也未考虑您的财务状况或需求。本网站所含信息不一定是实时提供的,也不一定是准确的。本站提供的价格可能由做市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他财务决定均应完全由您负责,并且您不得依赖通过网站提供的任何信息。我们不对网站中的任何信息提供任何保证,并且对因使用网站中的任何信息而可能造成的任何交易损失不承担任何责任。
未经本站书面许可,禁止使用、存储、复制、展现、修改、传播或分发本网站所含数据。提供本网站所含数据的供应商及交易所保留其所有知识产权。