行情
新闻
分析
用户
快讯
财经日历
学习
数据
- 名称
- 最新值
- 前值
公:--
预: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
--
预: --
前: --
无匹配数据
最新观点
最新观点
最近更新
港股投资的风险预警
尽管香港法律体系和监管框架相对健全,但港股市场仍然存在一些特定的风险和挑战,如港币与美元挂钩,外地投资者可能会面临汇率波动;中国内地的政策变化和经济状况对港股的影响等。
投资港股费用结构与税务
港股市场的交易成本包括总投资成本为买卖股票的交易费用、印花税、结算费用等,对于外地投资者,可能会涉及兑换港币所产生汇率转换费用,以及按照所在地的相关法规需缴纳的税款。
港股行业分析:非必需消费行业
港股市场非必需消费行业覆盖汽车、教育、旅游、餐饮、服装等多个领域,在643家上市公司中35%为中国内地公司,占总市值的65%,因此受中国经济影响深远。
港股行业分析:地产建筑业
地产建筑业在港股指数中的份额近年已明显下降,但截2022年,它依然在市场上占有约10%的份额。包含了房地产开发、建筑工程、房地产投资和物业管理等各个方面。
中国·香港
越南·胡志明
阿联酋·迪拜
尼日利亚·拉各斯
埃及·开罗
查看所有搜索结果
暂无数据
Rủi ro tài sản được kiểm soát, rủi ro thanh khoản ngân hàng gia tăng
Ngân hàng SOB và ngân hàng lớn ít rủi ro tài sản vì dư nợ cho vay khu vực ảnh hưởng bão; song các ngân hàng nhỏ chịu tác động vốn và chi phí tín dụng.
Rủi ro thanh khoản đang gia tăng khi các ngân hàng ngày càng phụ thuộc vào nguồn vốn thị trường ngắn hạn và lãi suất liên ngân hàng tăng mạnh.
Tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn (CASA) của toàn ngành duy trì ổn định ở mức 19% tổng dư nợ cho vay khách hàng trong 9 tháng 2024. OCB ghi nhận mức tăng lớn nhất, 3% QoQ, nhờ các nỗ lực chuyển đổi số. Tỷ lệ cho vay trên tiền gửi (LDR) toàn ngành vẫn ở mức cao, đạt 106%, ông Phan Duy Hưng, CFA, MBA, Giám đốc Phân tích cao cấp của VIS Rating cùng các cộng sự cập nhật trong báo cáo về ngân hàng 9 tháng 2024.
Theo các chuyên gia của VIS, các ngân hàng nhỏ và vừa (ví dụ: BVB, ABB, LPB, NAB, MSB) tăng chi phí huy động vốn cao hơn để duy trì tiền gửi và tăng cường vay liên ngân hàng ngắn hạn.
Cập nhật diễn biến thị trường cũng phản ánh từ giữa tháng 10 năm 2024, lãi suất liên ngân hàng qua đêm đã tăng 3.5%, lên mức trung bình 6% sau những áp lực tỷ giá và thanh khoản thị trường thắt chặt hơn. "Lãi suất liên ngân hàng nếu tiếp tục duy trì ở mức cao trong thời gian tới sẽ làm tăng rủi ro thanh khoản đối với các ngân hàng nhỏ và vừa", các chuyên gia VIS Rating nhận định.
Lãi suất liên ngân hàng thực tế sau nhiều động thái can thiệp của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), đến 20/11, vẫn đang neo ở mức cao. Tại 20/11, lãi suất bình quân liên ngân hàng kỳ hạn qua đêm ghi nhận áp dụng 19/11 là 5,31%; 1 tuần là 5,34%, 2 tuần là 5,60% và 3 tháng là 5,40%. Trước đó, lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng đã vọt lên mức 5,5% vào đầu tháng 11/2024, cao nhất kể từ tháng 4/2023 và có thời điểm dâng cao 6%, khiến NHNN đã phải phát hành gần 100 nghìn tỷ đồng tín phiếu, bơm hơn 200 nghìn tỷ đồng qua thị trường mở (OMO). Qua đó, để đưa lãi suất liên ngân hàng tạm thời về mức như hiện tại.
Rủi ro lãi suất liên ngân hàng có thể dâng trở lại, theo giới chuyên môn, vẫn có thể lặp lại nếu tỷ giá vẫn tiếp tục gặp các biến động và rủi ro, theo sát những biến động của DXY và các thay đổi trên thị trường quốc tế sau hơn 2 tuần nước Mỹ có kết quả bầu cử Tổng thống.
Tuy nhiên, trong trường hợp áp lực tỷ giá hạ nhiệt, lãi suất liên ngân hàng cũng sẽ giảm rủi ro tăng lên. Điều kiện "đồng hành" là nguồn vốn của các TCTD có thể cải thiện tốt hơn ngoài phụ thuộc vốn ngắn hạn như hiện tại, một chuyên gia lưu ý.
Bên cạnh vấn đề về rủi ro thanh khoản của các ngân hàng và lưu ý nguồn vốn, chi phí vốn của các ngân hàng quy mô nhỏ, một tín hiệu tích cực của hệ thống, theo đánh giá của ông Phan Duy Hưng và các cộng sự, là rủi ro tài sản của các ngân hàng duy trì ổn định trong 9 tháng đầu năm 2024. Trong đó, rủi ro tài sản của các ngân hàng được kiểm soát nhờ quy mô cho vay hạn chế với khu vực bị ảnh hưởng bởi bão. Điều này khác với dự báo của nhiều tổ chức trước đó khi cho rằng dù dư nợ khu vực bị ảnh hưởng bởi bão Yagi không quá lớn, song các ngân hàng quốc doanh (SOB) và các ngân hàng lớn cũng sẽ vẫn sẽ bị ảnh hưởng ngắn hạn.
Theo VIS Rating, tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân (ROAA) của toàn ngành giảm nhẹ xuống 1,5% trong 9 tháng 2024 so với 1,6% trong 6 tháng 2024, với các ngân hàng nhỏ chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ biên lãi ròng (NIM) thu hẹp và chi phí tín dụng cao hơn.
"Đến cuối năm 2024, chúng tôi kỳ vọng việc cải thiện tăng trưởng cho vay mua nhà lợi tức cao và nợ quá hạn phát sinh mới chậm lại sẽ góp phần ổn định lợi nhuận và chất lượng tài sản cho các ngân hàng.
Phần lớn các ngân hàng ít chịu tổn thất liên quan đến bão nhờ quy mô cho vay hạn chế ở các tỉnh phía Bắc bị ảnh hưởng. Tổng dư nợ tín dụng cho các khách hàng bị ảnh hưởng bởi bão chiếm khoảng 1% tổng dư nợ toàn ngành, chủ yếu thuộc về các SOB có hoạt động tại các tỉnh bị ảnh hưởng. Các biện pháp hỗ trợ của NHNN như tái cơ cấu nợ và cung cấp các khoản vay lãi suất thấp cho các khách hàng vay bị ảnh hưởng sẽ góp phần giảm bớt gánh nặng trả nợ cho khách hàng", chuyên gia đánh giá.
Nhìn chung, theo dữ liệu BCTC, tỷ lệ nợ có vấn đề toàn ngành duy trì ổn định so với quý trước ở mức 2,4%. Các ngân hàng lớn, bao gồm SOB, ghi nhận tốc độ các khoản nợ quá hạn phát sinh mới chậm lại, nhờ sự cải thiện của một khoản nợ xấu lớn (ví dụ: CTG) cũng như siết chặt tiêu chuẩn cấp tín dụng, đặc biệt đối với các khoản vay tiêu dùng mới (ví dụ: VPB). Mặt khác, các khoản nợ quá hạn vẫn tiếp tục tăng tại các ngân hàng tập trung vào khách hàng cá nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) (ví dụ: PGB, SGB, VIB, OCB, LPB).
"Chúng tôi đánh giá khoảng 30% ngân hàng có hồ sơ rủi ro tài sản ở mức yếu, tăng từ mức 22% năm 2023. Trong cả năm 2024, chúng tôi kỳ vọng tỷ lệ nợ xấu toàn ngành sẽ ổn định ở mức 2,3-2,4% khi các ngân hàng hoàn tất việc xóa nợ trong quý 4".
Tăng trưởng lợi nhuận toàn ngành chậm lại do NIM thu hẹp, và các ngân hàng nhỏ chịu thêm ảnh hưởng bởi chi phí tín dụng cao. Phần lớn các ngân hàng ghi nhận ROAA và NIM giảm theo quý (QoQ); các ngân hàng nhỏ chịu mức giảm lợi nhuận đáng kể nhất do chi phí huy động tiền gửi tăng cao trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt. Các ngân hàng này và một số ngân hàng quy mô vừa (ví dụ: VIB, OCB) ghi nhận sự suy giảm chất lượng tài sản và chi phí tín dụng cao. Xu hướng lợi nhuận của các ngân hàng lớn có sự phân hóa; một số ngân hàng (ví dụ: TCB, MBB, ACB) bị ảnh hưởng bởi thu nhập từ dịch vụ bảo hiểm, ngoại hối (FX) và đầu tư chứng khoán giảm, trong khi một số ngân hàng khác hưởng lợi từ nỗ lực giảm rủi ro trước đó đã giảm mạnh chi phí tín dụng (ví dụ: VPB) và tăng lợi nhuận thu hồi nợ (ví dụ: CTG, VCB).
"Chúng tôi kỳ vọng phần lớn trong số 25 ngân hàng trong phân tích của chúng tôi sẽ đạt được mục tiêu lợi nhuận cả năm, đặc biệt là các SOB và các ngân hàng lớn có sự tăng trưởng cho vay doanh nghiệp mạnh mẽ. Với tốc độ tăng trưởng tín dụng tiếp tục được cải thiện, chúng tôi kỳ vọng ROAA toàn ngành sẽ cải thiện lên 1,6% cho cả năm 2024 từ mức 1.5% trong năm trước", VIS Rating phân tích.
Đáng chú ý, các chuyên gia cũng lưu ý bộ đệm rủi ro vẫn ở mức yếu. Tính đến 9 tháng 2024, tỷ lệ vốn chủ sở hữu hữu hình trên tổng tài sản hữu hình (TCE/TA) toàn ngành không thay đổi QoQ, ở mức 8,8% do tăng trưởng lợi nhuận chậm lại.
Được biết, có gần 20% ngân hàng trong đánh giá của VIS Rating có hồ sơ an toàn vốn yếu, bao gồm các ngân hàng nhỏ với lợi nhuận mỏng và một số SOB bị hạn chế trong việc tăng vốn mới. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLCR) toàn ngành tăng nhẹ 1% QoQ, đạt 83% vào cuối 9 tháng 2024, dẫn dắt bởi CTG do tăng mức trích lập dự phòng và giảm nợ có vấn đề. LLCR của MBB giảm xuống mức thấp nhất trong 5 năm, còn 69%, do khoản vay của doanh nghiệp bất động sản lớn trở thành nợ xấu.
Phần lớn các ngân hàng nhỏ và vừa tiếp tục có LLCR dưới mức trung bình của ngành. Một số ngân hàng (ví dụ: CTG, VCB) đang chờ phê duyệt từ cơ quan quản lý để hoàn thành việc chi trả cổ tức bằng cổ phiếu, điều này sẽ giúp các ngân hàng giữ lại vốn.
Việc chất lượng tài sản các ngân hàng suy giảm nhẹ, tuy nhiên, vẫn được kỳ vọng sẽ có sự thay đổi vào kỳ "chốt số" cuối năm, khi đây được xem là thời điểm tăng trưởng tín dụng đột biến, giúp các ngân hàng có cơ sở bù đắp LLCR và gia tăng lợi nhuận.
Hàng chục triệu cổ phiếu MSB, LPB được sang tay thỏa thuận giá cao
Phiên giao dịch sáng ghi nhận hàng chục triệu cổ phiếu MSB và LPB được sang tay qua phương thức thỏa thuận, với tổng giá trị gần 600 tỷ đồng.
Cụ thể, hơn 6,4 triệu cổ phiếu LPBank được trao tay tại giá 33.000 đồng/cổ phiếu, tổng giá trị 268 tỷ đồng.
Đáng chú ý, gần 25 triệu cổ phiếu MSB được giao dịch thỏa thuận ở mức 12.300 đồng/cổ phiếu, tương ứng hơn 305 tỷ đồng.
Trái ngược với giao dịch thỏa thuận, khối lượng khớp lệnh trên thị trường thấp hơn đáng kể. MSB ghi nhận 1,6 triệu cổ phiếu khớp lệnh, giảm 0,9% về mức 11.600 đồng/cổ phiếu.
Tương tự, LPB giảm 0,6% còn 31.600 đồng/cổ phiếu, thấp hơn 4,2% so với giá giao dịch thỏa thuận, với khối lượng khớp lệnh chỉ 220.000 đơn vị. Xu hướng giảm khối lượng khớp lệnh của LPB kéo dài suốt ba tháng qua.
Tín dụng tăng 14%, lãi trước thuế 9 tháng MSB giảm 7% do tăng dự phòng
BCTC hợp nhất quý 3/2024 cho thấy Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam (HOSE: MSB) lãi trước thuế gần 4,902 tỷ đồng, giảm 6% so với cùng kỳ năm trước, do tăng chi phí dự phòng.
Trong 9 tháng đầu năm 2024, thu nhập lãi thuần của MSB đạt hơn 7,104 tỷ đồng, tăng 4% so với cùng kỳ.
Tuy nhiên, các nguồn thu ngoài lãi lại sụt giảm như lãi từ dịch vụ giảm 21% (còn 1,041 tỷ đồng), lãi từ kinh doanh ngoại hối giảm 18% (còn 846 tỷ đồng), lãi từ chứng khoán đầu tư giảm 33% (còn 153 tỷ đồng).
Đáng chú ý, lãi từ hoạt động khác đạt hơn 821 tỷ đồng, gấp 4 lần cùng kỳ. Tổng thu nhập hoạt động (TOI) 9 tháng nâng lên 9,970 tỷ đồng.
Chi phí hoạt động tăng 10% lên 3,339 tỷ đồng, do tăng chi cho nhân viên và hoạt động quản lý công vụ, chi về tài sản.
Thêm vào đó, Ngân hàng dùng 1,724 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, tăng 31% so với cùng kỳ, do đó lãi trước thuế giảm 6% còn 4,902 tỷ đồng. Như vậy, MSB thực hiện được 72% mục tiêu 6,800 tỷ đồng lãi trước thuế đề ra cho cả năm sau quý 3.
Kết quả kinh doanh quý 3 và 9 tháng đầu năm 2024 của MSB. Đvt: Tỷ đồng
Nguồn: VietstockFinance
Tính đến cuối quý 3, tổng tài sản Ngân hàng tăng đến 13% so với đầu năm, lên 300,700 tỷ đồng. Trong đó, tiền mặt tăng 21% (1,139 tỷ đồng), tiền gửi tại NHNN giảm 60% (còn 1,871 tỷ đồng).
MSB cho biết động lực tăng tổng tài sản ngoài tăng trưởng tín dụng còn yếu tố chứng khoán đầu tư với gần 62,300 tỷ đồng, tăng 64% so với đầu năm. Danh mục đầu tư này chủ yếu là trái phiếu Chính phủ (tăng khoảng 20,000 tỷ đồng) và chứng khoán của các tổ chức tín dụng (tăng gần 5,000 tỷ đồng).
Riêng cho vay khách hàng cuối quý 3 đạt 170,620 tỷ đồng, phân bổ chính vào một số lĩnh vực như chế biến sản xuất, chế tạo máy móc, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Ở phía nguồn vốn, các khoản nợ Chính phủ và NHNN tăng lên 10,124 tỷ đồng, gấp 10 lần đầu năm, do ghi nhận 9,111 tỷ đồng vay chiết khấu giấy tờ có giá, đầu năm không ghi nhận khoản này.
Tiền gửi khách hàng tăng 12% lên 148,471 tỷ đồng. Trong đó, tiền gửi của cá nhân đạt 79,470 tỷ đồng, tăng 5%. Số dư tiền gửi không kỳ hạn (CASA) gần 36,000 tỷ đồng, đưa tỷ lệ CASA quý 3 giảm nhẹ còn 24.23%.
Tỷ lệ dư nợ tín dụng trên tổng vốn huy động (LDR) đạt 74.68%, tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn (MTLT) ở mức 29.38%. Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) hợp nhất duy trì 12.36%.
Tổng nợ xấu tính đến 30/09/2024 của MSB ghi nhận 4,913 tỷ đồng, tăng 15% so với đầu năm. Tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng nhẹ từ mức 2.87% đầu năm lên 2.88%.
MSB cho biết tỷ lệ nợ xấu riêng lẻ ghi nhận 2.01% với hầu hết các khoản vay được thế chấp bằng tài sản đảm bảo chất lượng, giúp hạn chế tối đa tỷ lệ mất vốn.
Chất lượng nợ vay của MSB tính đến 30/09/2024. Đvt: Tỷ đồng
Nguồn: VietstockFinance
MSB cũng đã hoàn thành tăng vốn điều lệ lên 26,000 tỷ đồng, thông qua phát hành cổ phiếu để trả cổ tức tỷ lệ 30%.
Khi nào ngành ngân hàng Việt Nam có "sếu đầu đàn" ở khu vực?
Từ 2012 đến nay, trong các đề án tái cơ cấu hệ thống và chiến lược phát triển của ngành ngân hàng ở từng thời kỳ, mục tiêu “đưa ngân hàng Việt Nam lọt top 100 ngân hàng lớn nhất châu Á” luôn được nhắc đến như một phần không thể tách rời. Tuy nhiên, điều này vẫn chưa thể hiện thực hoá, lý do thì nhiều nhưng yếu tố quan trọng nhất vẫn là bài toán tăng vốn điều lệ, đặc biệt là với ngân hàng cổ đông nhà nước chi phối vốn...
Hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam hiện có khoảng trên 30 ngân hàng, đảm nhận phần lớn nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Trong những thời điểm thị trường tài chính bất ổn, đặc biệt là trái phiếu, bảo hiểm khủng hoảng như mấy năm gần đây, áp lực vốn lời đòi nhiều hơn về phía các ngân hàng. Vốn mong khẩn cấp mở rộng quy mô gánh trên vai trách nhiệm nặng nề nhưng năng lực tài chính ngân hàng Việt Nam so với khu vực rất khiêm tốn, nguyên nhân chủ yếu là vốn điều lệ (pháp định) hạn chế. Bởi lẽ, khi vốn điều lệ thấp, trong bối cảnh buộc phải thực hiện các chuẩn mực an toàn theo Basel III, ví dụ như chỉ số CAR (tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu), các ngân hàng Việt Nam càng không thể mở rộng quy mô tổng tài sản.
Về tình hình thị trường, chuyên gia nhận định rằng nhóm ngân hàng cổ đông nhà nước chịu áp lực lớn vì phải vừa cấp tín dụng cho tăng trưởng, vừa chịu trách nhiệm tài trợ cho các dự án chính phủ và các nhiệm vụ an sinh xã hội, nhất là trong các thời điểm khó khăn như thảm họa dịch bệnh. Tuy nhiên, do vốn điều lệ hạn chế nên không thể mở rộng hoạt động như mong muốn. Do đó, việc tăng vốn điều lệ như trường hợp của Vietcombank sẽ giúp ngân hàng phát triển hơn.
Tuy nhiên, vấn đề vốn từ cơ (gồm vốn điều lệ hoặc vốn được cấp công với các quỹ dự trữ và một số loại tài sản nợ khác theo quy định của NHNN) của hệ thống ngân hàng hiện nay đang gặp phải tình trạng bất hợp lý giữa năng lực vốn từ cơ và nhiệm vụ mở rộng tổng tài sản để cấp tín dụng cho nền kinh tế. Chính sách tài khoản 45 điều 4 thông tư 41/2016/TT-NHNN ghi ro: vốn từ cơ và tài sản có rủi ro là cơ sở để xác định hệ số CAR.
Trong bối cảnh này, việc tăng vốn để duy trì hoạt động và phát triển của ngân hàng là vô cùng quan trọng, đặc biệt với ngân hàng có sự chi phối của cổ đông nhà nước.
9 cổ đông nắm hơn 33% vốn MSB, hiện diện nhóm thuộc ROX Group
9 cổ đông tổ chức đang nắm giữ 875,8 triệu cổ phiếu, tương ứng 33,69% vốn điều lệ MSB. Trong đó, có nhiều đơn vị thuộc ROX Group của bà Nguyễn Thị Nguyệt Hường.
Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam (Maritime Bank, HoSE: MSB) vừa cập nhật danh sách cổ đông nắm giữ trên 1% vốn điều lệ. Theo đó, 9 cổ đông tổ chức đang nắm giữ 875,8 triệu cổ phiếu, tương ứng 33,69% vốn điều lệ ngân hàng.
So với lần công bố gần nhất, danh sách cổ đông nắm trên 1% vốn lần này không còn ông Nilesh Ratilal Banglorewala và Công ty Cổ phần Đầu tư Tiến An. Bên cạnh đó, tỷ lệ sở hữu cùng với số lượng cổ phiếu của các cổ đông hiện hữu cũng có những thay đổi so với lần cập nhật trước.
Cụ thể, Công ty Cổ phần ROX Key Holdings - tổ chức liên quan ông Trần Xuân Quảng, Thành viên Hội đồng quản trị (HĐQT) MSB, sở hữu 63,2 triệu cổ phiếu, tương đương 2,43% vốn. Người có liên quan đơn vị này sở hữu 0,98% vốn ngân hàng.
Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng ROX Cons sở hữu 48,5 triệu cổ phiếu, tương đương 1,87% vốn. Còn Công ty Cổ phần Đầu tư và Cho thuê Tài sản TNL sở hữu 28,1 triệu cổ phiếu, tương đương 1,08% vốn; ghi nhận 33,1 triệu cổ phiếu sở hữu từ người có liên quan cổ đông, nắm 1,66% vốn MSB.
Cả 3 cổ đông trên đều thuộc ROX Group, đơn vị do bà Nguyễn Thị Nguyệt Hường làm Chủ tịch HĐQT. Bà Hường là vợ ông Trần Anh Tuấn, Chủ tịch MSB. Theo báo cáo quản trị 6 tháng đầu năm 2024, ông Tuấn sở hữu 16,8 triệu cổ phiếu, tương ứng 0,84% vốn MSB; còn vợ ông không giữ cổ phiếu nào.
Ngoài nhóm công ty thuộc ROX Group, danh sách nắm trên 1% vốn MSB ghi nhận Công ty TNHH Khu nghỉ Dưỡng Bãi Dài với 4,96%, Công ty TNHH Thành phố Công nghệ Xanh Hà Nội với 4,97%, Công ty Cổ phần Đầu tư Riconhomes với 4,98% và Công ty TNHH Xây dựng và Kinh doanh Cơ sở Hạ tầng KCN Hà Nội - Đài Tư với 4,98%.
Bên cạnh đó, danh sách cổ đông sở hữu trên 1% vốn của nhà băng tư nhân này còn có quỹ ngoại Buenavista Holdings Limited, với 2,37%. Tập đoàn Bưu chính Viễn thông (VNPT) cũng nắm hơn 6% vốn MSB và đang trong lộ trình thoái vốn khỏi nhà băng này.
Về tình hình kinh doanh, MSB hiện chưa công bố báo cáo tài chính quý III. 6 tháng đầu năm 2024, ngân hàng thu được gần 3.690 tỷ đồng lãi trước thuế, tăng 4% so với cùng kỳ, thực hiện được 54% mục tiêu lợi nhuận năm nay.
Tổng tài sản Ngân hàng tính đến cuối quý 2 đạt 295,537 tỷ đồng, tăng 11% so với đầu năm.
Tổng nợ xấu tính đến 30/06/2024 ghi nhận 5.132 tỷ đồng, tăng 20% so với đầu năm. Tỷ lệ nợ xấu riêng lẻ theo Thông tư 11 được kiểm soát ở mức 2,13%.
Một cổ phiếu tăng mạnh sau cổ phiếu ngân hàng?
Diễn biến cổ phiếu các nhóm ngành:+ Bank nhóm 2 (STB MSB TPB ....) vẫn đang là các cổ hút tiền tốt và đã chia sẻ về điểm mua trading ngắn với mọi người hôm qua. Còn bank nhóm 1 (bank lớn) thì đa số đang về hỗ trợ và vận động biên độ +/- 2% quanh đây.
+ BĐS có phiên thứ 2 dừng chân tại quanh vùng hỗ trợ và cũng rút chân phục hồi lại cuối phiên tạm ổn. Dự kiến sẽ hồi phục về test quanh đường MA20 ngày (PDR DXG DPG ...)
Với vận động như hiện tại kỳ vọng nhịp hồi phục sẽ tiếp diễn vào hôm nay khi phiên hàng lớn về cũng có sự hấp thụ tạm ổn. Còn về xu hướng ngắn hạn vẫn sẽ cân bằng quanh vùng 1265-128x trong thời gian tới.
Lưu ý đây cũng là thời điểm gia báo cáo KQKD quý 3 nên việc giao dịch hay các biến động luôn là khó đoán. NĐT nên lưu ý và mặt tỉ trọng và rà soát lại danh mục cổ phiếu nắm giữ 1 cách kỹ càng
Chi tiết điểm mua xin mời theo dõi trong video:
Cổ phiếu MSB - Có nên mua? Định giá ngân hàng Maritimes Bank 2024 & 2025
Lê Thắng xin chào mọi người, Ngân hàng TMCP hàng hải Việt Nam (mã CK: MSB) được thành lập vào năm 1991, là một trong 3 ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên ở Việt Nam. Hiện nay, chủ tịch hội đồng quản trị là ông Trần Anh Tuấn, một Việt kiều về nước từ Đông Âu có mối quan hệ mật thiết với các tỷ phú Vượng, bà Thảo, ông Hùng Anh và ông Đăng Quang. Năm 2020, MSB chính thức niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE).
Ngân hàng MSB là một trong số hiếm hoi ngân hàng có định giá P/B rẻ dưới 1 và giá cổ phiếu chưa tăng mạnh trong 2 năm trở lại đây.
Câu hỏi mà nhiều A/C nhà đầu tư quan tâm là:
- Kết quả kinh doanh của Maritimes Bank có vấn đề gì mà giá CP chưa tăng?
- Có nên mua cổ phiếu MSB lúc này?
- Định giá cổ phiếu trong năm 2024 & 2025 là bao nhiêu?
Tất cả câu hỏi đó dược Thắng trả lời trong video này.
Mời cả nhà xem video và chia sẻ ý kiến tích cực.
交易股票、货币、商品、期货、债券、基金等金融工具或加密货币属高风险行为,这些风险包括损失您的部分或全部投资金额,所以交易并非适合所有投资者。
做出任何财务决定时,应该进行自己的尽职调查,运用自己的判断力,并咨询合格的顾问。本网站的内容并非直接针对您,我们也未考虑您的财务状况或需求。本网站所含信息不一定是实时提供的,也不一定是准确的。本站提供的价格可能由做市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他财务决定均应完全由您负责,并且您不得依赖通过网站提供的任何信息。我们不对网站中的任何信息提供任何保证,并且对因使用网站中的任何信息而可能造成的任何交易损失不承担任何责任。
未经本站书面许可,禁止使用、存储、复制、展现、修改、传播或分发本网站所含数据。提供本网站所含数据的供应商及交易所保留其所有知识产权。