行情
新闻
分析
用户
快讯
财经日历
学习
数据
- 名称
- 最新值
- 前值
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
公:--
预: --
公:--
预: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
无匹配数据
最新观点
最新观点
最近更新
港股投资的风险预警
尽管香港法律体系和监管框架相对健全,但港股市场仍然存在一些特定的风险和挑战,如港币与美元挂钩,外地投资者可能会面临汇率波动;中国内地的政策变化和经济状况对港股的影响等。
投资港股费用结构与税务
港股市场的交易成本包括总投资成本为买卖股票的交易费用、印花税、结算费用等,对于外地投资者,可能会涉及兑换港币所产生汇率转换费用,以及按照所在地的相关法规需缴纳的税款。
港股行业分析:非必需消费行业
港股市场非必需消费行业覆盖汽车、教育、旅游、餐饮、服装等多个领域,在643家上市公司中35%为中国内地公司,占总市值的65%,因此受中国经济影响深远。
港股行业分析:地产建筑业
地产建筑业在港股指数中的份额近年已明显下降,但截2022年,它依然在市场上占有约10%的份额。包含了房地产开发、建筑工程、房地产投资和物业管理等各个方面。
中国·香港
越南·胡志明
阿联酋·迪拜
尼日利亚·拉各斯
埃及·开罗
查看所有搜索结果
暂无数据
Thị trường rơi về vùng giá hấp dẫn, điểm danh hàng loạt cổ phiếu khả năng tạo lợi nhuận tốt
Các cổ phiếu thuộc ngành ngân hàng phần chiếm phần lớn danh mục nhờ tỷ khả năng tạo ra lợi nhuận ổn định. Bên cạnh đó, nhóm bất động sản, vận tải, và bán lẻ là nhóm có tiềm năng tăng trưởng trong trung và dài hạn...
Trong quý 3, nền kinh tế đón nhận nhiều thông tin tích cực đến từ sự nới lỏng dần của thị trường tiền tệ toàn cầu sau khi FED lần đầu tiên giảm 0,5% lãi suất; Tín hiệu vĩ mô khả quan với tăng trưởng GDP quý 3 lên 7,4% so với cùng kỳ cùng với tăng trưởng tín dụng tăng tốc ở mức 9% so với đầu năm; Việc ban hành Thông tư 68 cho phép giao dịch mua cổ phiếu không yêu cầu có đủ tiền khi đặt lệnh của nhà đầu tư tổ chức nước ngoài.
Dù vậy, VN-Index có diễn biến trái chiều trong quý 3, liên tục gặp khó khăn và chưa thể chinh phục mốc 1.300 điểm.
Tính riêng quý 3, VN-Index tăng 3,4% lên mức 1.287 điểm và tăng 13,7% so với đầu năm. Khối lượng giao dịch bình quân quý 3/2024 đạt 646 triệu cổ phiếu giảm hơn 24% so với quý 2/2024. Giá trị giao dịch bình quân quý 3/2024 đạt hơn 16,5 nghìn tỷ, ghi nhận giảm hơn 25% so với quý 2/2024.
Khối ngoại tiếp tục bán ròng hơn 14,1 tỷ đồng trong quý 3/2024 tuy nhiên áp lực bán ròng đã giảm đáng kể so với mức 38,1 nghìn tỷ trong quý 2/2024.
Trong quý 3, nhóm các cổ phiếu ảnh hưởng đến thị trường có sự phân hóa và nhóm có tác động không mấy tích cực đến thị trường có sự biến động mạnh. Dẫn đầu là nhóm Viễn thông với mức giảm hơn 35%, tiếp đến là Du lịch & giải trí và Hàng & dịch vụ công nghiệp lần lượt giảm 16% và 11,6%. Ngược lại, nhóm Ngân hàng, Dịch vụ tài chính dẫn đầu đà tăng với lần lượt tăng 10,4% và 9,1%.
P/E của thị trường đang ở vùng thấp kể từ năm 2023. So với các thị trường chứng khoán khác trong khu vực, VN-Index có mức P/E tương đối hấp dẫn.
Đặc biệt, sau nhịp giảm mạnh kéo dài từ tuần qua đến tuần này, VN-Index lại lùi về sát mốc 1.200 điểm, PE quanh mức 12 lần. Theo thống kê, số lượng cổ phiếu giao dịch ở ngưỡng dưới RSI 30 hiện lên tới 20-30%. Chỉ số RSI (Relative Strength Index) là chỉ báo đo lường mức độ dao động của giá, thể hiện độ mạnh yếu tương đối của chỉ số/cổ phiếu khi được so với với chính nó trong quá khứ. Chỉ báo này dao động từ 0 đến 100. Khi RSI nằm dưới 30 cho thấy giá đang bị bán quá mức, khi RSI trên 70 thì giá đang bị mua quá mức.
Sau giai đoạn vừa qua, Chứng khoán Mirae Asset xây dựng danh mục đầu tư khuyến nghị cho thời gian tới. Danh mục này dựa trên kết quả kinh doanh 9 tháng năm 2024 với trọng tâm là các doanh nghiệp có nền tảng tài chính vững chắc và tiềm năng tăng trưởng bền vững.
Các cổ phiếu trong danh mục được lựa chọn dựa trên các tiêu chí sau: Các doanh nghiệp có vốn hóa thị trường trên 5.000 tỷ đồng; Khối lượng giao dịch trung bình cao hơn 100.000 cổ phiếu, đảm bảo tính thanh khoản; Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) của các cổ phiếu trong danh mục cao hơn ROE của chỉ số VN-Index, chứng tỏ khả năng sinh lời cao và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh.
Doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp trong 9 tháng năm 2024 phải ghi nhận mức tăng trưởng dương, đảm bảo sự ổn định và sức khỏe tài chính tốt.
Sharpe Ratio của danh mục phải ở mức dương, phản ánh khả năng tạo ra lợi nhuận tốt so với mức rủi ro phải chịu. Chỉ số Sharpe Ratio giúp đánh giá hiệu suất điều chỉnh rủi ro, giúp nhà đầu tư không chỉ tập trung vào lợi nhuận mà còn xem xét mức độ rủi ro kèm theo. Chỉ số này tính toán dựa trên chênh lệch lợi nhuận kỳ vọng của danh mục và lãi suất phi rủi ro, chia cho độ lệch chuẩn của lợi nhuận. Sharpe Ratio dương (>0) là tốt, và càng cao càng hiệu quả, trong khi chỉ số âm có thể cho thấy rủi ro quá lớn.
Thông qua sàng lọc, các cổ phiếu thuộc các ngành ngân hàng phần chiếm phần lớn danh mục nhờ tỷ khả năng tạo ra lợi nhuận ổn định. Bên cạnh đó, nhóm bất động sản, vận tải, và bán lẻ là nhóm có tiềm năng tăng trưởng trong trung và dài hạn.
Các cổ phiếu đáp ứng các tiêu chí trên gồm ACB, BID, CTG, HDB, LPB, MBB, NAB, STB, TCB, TPB, VCB, MBS, đây là nhóm tài chính ngân hàng. Ngoài ra là các cổ phiếu nhóm phi tài chính như CTR, NTP, PVT, QNS, DCM, DGW, FPt, VEA, HAH, BCM, SIP, ACV, PNJ, IDC.
Với tình hình vĩ mô tích cực, lợi nhuận doanh nghiệp dần hồi phục và định giá thị trường đang ở mức hấp dẫn, Mirae Asset kỳ vọng những yếu tố này sẽ trở thành động lực thúc đẩy thị trường trong thời gian tới.
Điều gì xảy ra khi thông tư 02 không được gia hạn?
1. Thông tư 02 là gì và ý nghĩa của nóThông tư 02 được ban hành để kế thừa vai trò của Thông tư 01 trong việc hỗ trợ doanh nghiệp và ngân hàng tái cấu trúc tài chính sau dịch. Nội dung chính của Thông tư 02 tập trung vào việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm giúp khách hàng vượt qua khó khăn tài chính. Đây là một biện pháp quan trọng để ổn định hệ thống ngân hàng, tránh nguy cơ đổ vỡ dây chuyền khi nợ xấu gia tăng đột biến.
2. Khi Thông tư 02 không được gia hạn thì sao?
Nếu Thông tư 02 kết thúc vào 31/12/2024 mà không được gia hạn, hệ thống tài chính và doanh nghiệp sẽ đối mặt với nhiều áp lực lớn:
Gia tăng chi phí dự phòng: Các khoản nợ xấu phải trích lập với tỷ lệ cao, từ 5% (nợ N2) lên tới 100% (nợ N5). Điều này tạo ra gánh nặng tài chính cho ngân hàng, làm giảm khả năng sinh lời.
Áp lực thanh khoản: Ngân hàng cần tìm kiếm nguồn vốn mới qua phát hành trái phiếu hoặc các biện pháp khác để cân đối tài chính.
Doanh nghiệp yếu kém bị đào thải: Những doanh nghiệp không đủ khả năng tái cấu trúc sẽ dễ dàng bị loại khỏi thị trường.
3. Tác động đối với hệ thống ngân hàng
Hệ thống ngân hàng nhỏ, đặc biệt là những ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao, sẽ chịu áp lực lớn trong việc duy trì thanh khoản và đáp ứng các yêu cầu quản lý rủi ro. Ngược lại, các ngân hàng lớn, vốn đã tích cực chuẩn bị thông qua phát hành trái phiếu và quản trị rủi ro chặt chẽ, sẽ có lợi thế vượt trội để tiếp tục phát triển.
4. Cơ hội thanh lọc cần thiết
Dù có thể dẫn đến khó khăn tạm thời, việc Thông tư 02 không được gia hạn cũng mang đến cơ hội thanh lọc hệ thống. Những doanh nghiệp và ngân hàng nhỏ, yếu kém sẽ buộc phải tái cơ cấu hoặc rời khỏi thị trường, từ đó nâng cao chất lượng tổng thể của nền kinh tế.
5. Kinh nghiệm từ quá khứ
Giai đoạn 2012-2015, nợ xấu từng là vấn đề lớn nhưng đã được giải quyết hiệu quả nhờ các biện pháp như thành lập VAMC và chính sách quản lý chặt chẽ. Với kinh nghiệm này, hệ thống tài chính Việt Nam hoàn toàn có khả năng ứng phó, miễn là có sự điều chỉnh chính sách phù hợp.
6. Kết luận
Việc không gia hạn Thông tư 02 không 'quá xấu' nếu hệ thống ngân hàng và doanh nghiệp đã chuẩn bị đủ năng lực. Đây là thời điểm để toàn hệ thống bước qua giai đoạn hỗ trợ, tự đứng vững trên đôi chân của mình, hướng đến một thị trường tài chính minh bạch và bền vững hơn.
Vnindex sẽ giảm "gắt hơn" sau khi thủng hỗ trợ 1240?
Những cơ sở cho thấy thị trường sẽ đi xuống với tốc độ nhanh hơn(góc rơi gắt) và biên giảm cũng nhiều hơn sau khi thủng hỗ trợ 1240, sẽ được trình bày ở trong bài viết này:
1.Xu hướng hiện tại của thị trường:
-Xu hướng trung hạn và ngắn hạn của Vnindex đều đang trong trạng thái điều chỉnh, hiện tại đang phản ứng ở đáy ngắn hạn gần nhất, vùng hỗ trợ 1240.
2.Dòng tiền mua vào yếu, xu hướng bán ra đang là chủ đạo
-Phần lớn thời gian thị trường giao dịch với các phiên thanh khoản thấp dưới trung bình 20 phiên. Các phiên thanh khoản cao đột biến trên trung bình 20 phiên lại là vùng phân phối đỉnh gần nhất ở ngưỡng kháng cự 1300.
-Thị trường đã phản ứng lần thứ 2 tại vùng hỗ trợ 1240, tuy nhiên, xu hướng bán ra vẫn đang là chủ đạo khi thị trường có 2 phiên đóng cửa đỏ gần nhất là phiên 11/11 và 12/11.
-Dòng tiền chung trên thị trường đã yếu, nhóm nhà đầu tư nước ngoài lại liên tục bán ròng khối lượng lớn nhiều phiên ở cả giao dịch thỏa thuận và khớp lệnh, trước những lo ngại về tỷ giá USD/VND.
=> Dòng tiền lớn chưa có biểu hiện tham gia mua mạnh tại vùng hỗ trợ 1240, mà chủ yếu vẫn là bán ra, phe bán đang chiếm ưu thế. Không có dòng tiền mua vào mạnh, rất khó tạo ra sự đảo chiều xu hướng từ xuống thành lên trong ngắn hạn( khung ngày), vùng hỗ trợ 1240 sẽ khó giữ.
2.Dòng tiền bán ra nhiều ở các cổ phiếu trụ trong VN30
-Các cổ phiếu trụ trong nhóm VN30 là các cổ phiếu vốn hóa lớn, các cổ phiếu đầu ngành, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp được thẩm định kỹ lưỡng bởi Ủy ban chứng khoán như: HPG, SSI,VCB, BID,MBB, CTG,... cơ bản đủ tiêu chuẩn để các quỹ lớn đẩy tiền to vào.
+Chiếm trọng số lớn trên thị trường, biến động các cổ phiếu này có tác động mạnh đến điểm số của thị trường chung, đặc biệt các mã ngân hàng như VCB, BID,...từ đó, tác động đến tâm lý giao dịch của NĐT trên thị trường.
+Các cổ phiếu trong Vn30 là nơi để quan sát vận động của dòng tiền lớn trên thị trường. Các quỹ đầu tư lớn sẽ dành phần lớn vốn đầu tư cho các cổ phiếu trong VN30, vì cổ phiếu trong VN30 vốn hóa lớn nên thuận tiện để tiền lớn các quỹ mua vào, bán ra.
-Dòng tiền bán mạnh các cổ phiếu trụ, biểu hiện là mức giảm điểm của VN30 lớn hơn hẳn so với chỉ số chung Vnindex
+Phiên 11/11: Vnindex giảm 2.24 điểm, Vn30 giảm lên tới 6.88 điểm.
+Phiên 12/11:Vnindex giảm 5.5 điểm, Vn30 giảm lên tới 8.51 điểm
***Trong các cổ phiếu trụ, đáng chú ý nhất là các cổ phiếu nhóm ngân hàng, ở phần nội dung tiếp theo, chúng ta sẽ cùng phân tích kỹ hơn về nhóm ngân hàng.
3. Cổ phiếu ngân hàng "tiếp tục" thủng đáy, kết thúc sóng tăng giá cuối cùng.
-Nhóm ngân hàng là nhóm có nhiều cổ phiếu nhất trong VN30, chỉ riêng nhóm này đã có tới 13 mã cổ phiếu trong VN30.
-Trước đó, rất nhiều NĐT kỳ vọng vào "sóng ngành ngân hàng" sẽ dẫn dắt Vnindex vượt vùng đi ngang, vượt kháng cự 1300. Giống như giai đoạn cuối 2023, sóng ngân hàng đã kéo Vnindex vượt vùng đi ngang, vượt kháng cự mạnh 1100+/- bước vào pha tăng trung hạn mới.
-Tuy nhiên, nhóm ngân hàng đã thất bại khi Vnindex quay đầu tại 1300. Hiện tại, cổ phiếu ngân hàng đang liên tiếp thủng đáy và phát tín hiệu kết thúc con sóng tăng giá cuối cùng của pha lên dài hạn từ cuối 2022. Ví dụ:
+Cổ phiếu BID ( vốn hóa lớn thứ 2 nhóm ngân hàng): đã xác nhận kết thúc pha tăng trung hạn cuối, pha tăng trung hạn này bị hụt biên độ, gãy xu hướng trước khi về lại đỉnh cũ T3/2024. Điều này sẽ tác động mạnh đến điểm số của Vnindex theo chiều giảm.
**Hiện tượng hụt biên độ như cổ phiếu BID đã được đề cập trong bài nhận định ngày 26/09 "Cận thận với con sóng tăng giá cuối cùng của cổ phiếu ngân hàng"
+Cổ phiếu HDB: pha tăng trung hạn cuối đã hoàn thiện cấu trúc tăng giá với bộ 5 sóng cơ bản-> Thủng đáy ngắn hạn -> phá vỡ cấu trúc tăng giá trong trung hạn hay nói cách khác, pha tăng trung hạn cuối đã kết thúc.
+Hoặc cổ phiếu MBB cũng đã thủng đáy ngắn hạn 2 lần liên tiếp.
=>Điểm tựa cuối cùng của Vnindex là nhóm cổ phiếu ngân hàng( dòng đủ mạnh để dẫn dắt Vnindex vượt 1300) đã không còn -> Vnindex thủng 1240 sẽ rơi tự do.
-Các cổ phiếu trụ khác cũng đang tiếp tục thủng đáy chưa thấy điểm dừng như MSN, MWG, VNM, PLX,..
4.Tổng kết
-Xu hướng thị trường điều chỉnh xuống trong trung và ngắn hạn và dòng tiền vẫn đang bán ra là chủ đạo. Các cổ phiếu trụ tiếp đà giảm, thủng đáy liên tục, đặc biệt là dòng ngân hàng phát tín hiệu kết thúc sóng tăng giá cuối cùng trong pha lên dài hạn.
-> Lực cầu yếu, dòng tiền không mua vào mạnh thì xu hướng xuống vẫn sẽ tiếp diễn trong trung và ngắn hạn. Thị trường thiếu đi điểm tựa, lực đỡ lớn về điểm số từ các cổ phiếu trụ, kịch bản xác suất cao sẽ sớm thủng hỗ trợ 1240.
Khi Vnindex thủng vùng 1240, thị trường sẽ bước vào giai đoạn đi xuống với tốc độ nhanh (góc rơi gắt) và biên giảm lớn hơn; làm nhà đầu tư không kịp trở tay; thậm chí có thể thủng luôn hỗ trợ mạnh 1200(+/-).Hình thái vận động sẽ tương tự như cổ phiếu MWG hay chỉ số Kospi của chứng khoán Hàn Quốc.
-> Thị trường đang tiếp tục củng cố cho kịch bản pha chỉnh C, để sau đó tạo ra một cơ hội lớn mua cổ phiếu giá rẻ ở vùng đáy dài hạn trong giai đoạn cuối 2024 như những nhận định ở các bài viết trước.
***Bài viết chia sẻ góc nhìn, nhận diện dựa trên quan điểm cá nhân, không quyết định đến việc mua bán của NĐT. Chúc quý độc giả đầu tư thành công!
Kiên nhẫn chờ thời | TTCK 11.10.24
Cùng điểm qua một số thông tin đáng chú ý của Thế giới và trong nước:
Tin thế giới:
- Chứng khoán Mỹ đã tiếp tục vượt đỉnh sau thông tin ông Trump đắc cử Tổng thống Mỹ. Trong phiên giao dịch ngày 8/11, chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones tăng 260 điểm, tương đương 0,59% và đóng cửa ở mức 43.989 điểm. Giữa phiên, có lúc chỉ số blue-chip này đã vượt qua mốc 44.000 điểm. Trong khi đó, chỉ số S&P 500 tăng 0,38% và kết thúc với 5.996 điểm. Có lúc, S&P 500 đã vượt mốc 6.000 điểm. Chỉ số thiên về công nghệ Nasdaq Composite chỉ tăng 0,09% lên 19.287 điểm. Cả ba chỉ số chính đều kết thúc tuần với kỷ lục mới. Một số cổ phiếu liên quan tới ông Trump tiếp tục ghi nhận kết quả tích cực. Cổ phiếu Tesla đã tăng 8,2% và ghi nhận phiên tích cực thứ 4 liên tiếp. Kết quả trên đã giúp vốn hóa của nhà sản xuất ô tô này vượt mốc 1.000 tỷ USD
- Ngày 7/11, Fed quyết định tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ. Theo đó, lãi suất tham chiếu của Mỹ về 4,5-4,75%, tức hạ 25 điểm cơ bản (0,25%). Mức này bằng một nửa so với đợt điều chỉnh hồi tháng 9 (0,5%). Quan chức Fed nhận định thị trường việc làm tại Mỹ đã bớt thắt chặt và lạm phát đang hướng về mục tiêu 2%. "Hoạt động kinh tế tăng trưởng với tốc độ ổn định", Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) thuộc Fed nhận định.
- Đồng USD tiếp tục tăng mạnh lên trên ngưỡng 105 trong ngày bầu cử sau đó đã điều chỉnh nhẹ khi FED hạ 0.25% lãi suất trong cuộc họp 8/11, DXY duy trì sự tích cực khi Trump lên làm tổng thống, các chính sách của ông được kỳ vọng sẽ làm nền kinh tế Mỹ phát triển mạnh mẽ khiến giới đầu tư kỳ vọng vào sức mạnh của đồng Đô La.
- LS TPCP Mỹ điều chỉnh nhẹ về mốc 4.297% sau khi đã có nhịp tăng mạnh từ mức 3.6% vào tháng 9/2024.
- Gía cả hàng hóa thế giới trong tuần có diễn biến của giá vàng đáng chú ý khi chạm mức thấp nhất gần ba tuần vào thứ Tư khi đồng USD giữ vững giá trị nhờ sự kỳ vọng Trump sẽ chấm dứt các cuộc xung đột căng thẳng trên thế giới làm cho tài sản trú ẩn như Vàng hạ nhiệt. Sau đó giá có sự hồi phục nhẹ khi FED đã hạ lãi suất 0.25% trong cuộc họp FOMC 8/11.
Tin trong nước:
- Tỷ giá đã hạ nhiệt trong phiên cuối tuần sau khi FED tiến hành hạ lãi suất 0.25% vào 7/11. Tỷ giá VCB và tỷ giá chợ đen đều giảm mạnh so với phiên liền trước.
- Lợi suất trái phiếu 10 năm sau một thời gian đi ngang đã có dấu hiệu bật tăng gần đây, trong phiên 8/11 lợi suất giảm nhẹ và duy trì ở mốc 2.843%.
- Số liệu mới nhất của Tổng cục Thống kê về tình hình kinh tế - xã hội cho biết, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10/2024 tăng 0,33% so với tháng trước. Nguyên nhân chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm tiếp tục tăng do ảnh hưởng bởi mưa bão, giá xăng dầu trong nước tăng theo giá thế giới, giá nhà ở thuê tăng. So với tháng 12/2023, CPI tháng 10 tăng 2,52% và tăng 2,89% so với cùng kỳ năm trước.
- Tính từ đầu tháng 11 đến nay, khối ngoại đã bán ròng 3.780 tỷ. Trong phiên giao dịch 8/11, khối ngoại duy trì bán ròng với áp lực mạnh hơn với giá trị bán 1.161 tỷ trên sàn HSX.
Vĩ mô trong ngắn hạn có sự biến động về các biến số như tỷ giá, lãi suất... cộng với yếu tố bán ròng từ khối ngoại, dòng tiền thị trường yếu, chúng tôi dự báo quý 4 dòng tiền vẫn tiếp tục khó khăn vì vậy LCTV nhận định VNINDEX tiếp tục đi ngang 1245-1290 với độ lệch 20 điểm.
Chi tiết nhận định thị trường và dự báo diễn biến tiếp theo của VN-Index trong thời gian tới, nhận định các mã cổ phiếu mà nhà đầu tư quan tâm đều được chia sẻ trong video: Kiên nhẫn chờ thời / TTCK 11.10.24.
Lưu ý: Những thông tin chia sẻ trong video chỉ mang tính chất tham khảo. Nhà đầu tư thận trọng và cân nhắc rủi ro với quyết định đầu tư của mình.
Vì sao thị trường chưa vượt 1300 | Có sợ sập không ?
Đánh giá thị trường qua 4 biến số quan trọng nhất: vĩ mô nền kinh tế - yếu tố dòng tiền - vĩ mô ngành nghề - nội tại cổ phiếu
Nội dung chính
✔️ Vĩ mô thế giới
✔️ Khối ngoại bán ròng
✔️ Chiến lược đầu tư quý 4/2024
Tôi sẽ liên tục cập nhật xu hướng Vnindex trong thời gian tới để đưa ra chiến lược đầu tư phù hợp cho anh chị và các bạn
Thêm vào đấy, sẽ có những phần phân tích chuyên sâu ngành nghề và doanh nghiệp
Khuyến nghị mua bán, quản trị danh mục đầu tư
👇👇 THEO DÕI TẠI ĐÂY
Toàn cảnh bức tranh nợ xấu ngành ngân hàng sau 9 tháng đầu năm 2024
Thống kê báo cáo tài chính của 29 ngân hàng thương mại trong nước (đã công bố báo cáo tài chính quý 3/2024) cho thấy, hầu hết nợ xấu tại tất cả ngân hàng trong hệ thống đều “phình to” so với thời điểm cuối năm 2023...
Xu hướng tăng tiến của nợ xấu là mối đe dọa lớn đối với chất lượng tài sản ngành ngân hàng. Do đó, các ngân hàng cần phải xây dựng chiến lược quản lý rủi ro chặt chẽ và hiệu quả.
DƯ NỢ XẤU TẠI CÁC NGÂN HÀNG VẪN "PHÌNH TO"
Tổng hợp báo cáo tài chính quý 3 và 9 tháng đầu năm 2024 tại 29 ngân hàng thương mại quốc nội (bao gồm 27 ngân hàng đã niêm yết trên sàn chứng khoán và PVcomBank, BaoViet Bank) cho thấy, nợ xấu toàn ngành ngân hàng tiếp tục tăng mạnh so với quý 1/2024 và quý 2/2024 cũng như cuối năm 2023.
Kết thúc 9 tháng đầu năm nay, số dư nợ xấu các ngân hàng đã tăng thêm 27,9%, tương ứng với 56.485 tỷ đồng so với cuối năm 2023, đạt 259.186 tỷ đồng. So với thời điểm kết thúc quý 2/2024, nợ xấu của 29 ngân hàng đã tăng thêm 21,2%.
Trong tổng số 29 ngân hàng, chỉ có duy nhất ngân hàng OCB ghi nhận số dư nợ xấu giảm so với thời điểm cuối năm ngoái, đạt 6.540 tỷ đồng, tức điều chỉnh 5%. Đáng chú ý, nếu tính theo con số tuyệt đối thì nhóm ngân hàng cổ phần Nhà nước gồm VietinBank và Vietcombank... đang thuộc nhóm có số dư nợ xấu cao nhất ngành.
Trong đó, quán quân lợi nhuận ngành ngân hàng là Vietcombank thường nằm trong nhóm có chất lượng tài sản tốt trong ngành cũng có thêm 4.678 tỷ đồng nợ xấu sau 9 tháng đầu năm, tương đương mức tăng 37,6%, đạt 17.133 tỷ đồng. Tương tự, nợ xấu của VietinBank tăng 6.617 tỷ đồng hay 39,8%, lên 23.225 tỷ đồng. Tuy nhiên, so với thời điểm cuối quý 2, nợ xấu của VietinBank đã giảm gần 5,8%.
Ở nhóm ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân, ngân hàng MB cho biết, nợ xấu sau 3 quý kinh doanh đầu năm đã đạt 15.685 tỷ đồng, tức tăng mạnh 60%. Bám sát MB là ngân hàng Sacombank tăng 18,3% nợ xấu lên mức 12.999 tỷ đồng. Nợ xấu tại ngân hàng VIB cũng tăng thêm 36,8% sau 9 tháng kinh doanh và đạt mức 11.461 tỷ đồng.
Tương tự, những ngân hàng có số dư nợ xấu lớn trong thời gian qua là: ACB (8.275 tỷ đồng); HDBank (7.568 tỷ đồng); Nam A Bank (4.671 tỷ đồng); Eximbank (4.318 tỷ đồng); SeABank (3.686 tỷ đồng); ABBank (3.158 tỷ đồng); Vietbank (3.032 tỷ đồng); BaoVietBank (1.932 tỷ đồng); Bac A Bank (1.375 tỷ đồng)…
Xét về tốc độ tăng trưởng, một số đơn vị tăng trưởng cao gồm ngân hàng MB (60%); Nam A Bank (56,3%); BVBank (55,7%); Bac A Bank (50,1%); Saigonbank (43,5%); ACB (40,6%); VietinBank (39,8%)…
TỶ LỆ NỢ XẤU TIẾP TỤC GIA TĂNG
Cùng chiều với dư nợ xấu, tỷ lệ nợ xấu của toàn ngành ngân hàng trong 9 tháng đầu năm đã tăng 0,3% so với thời điểm cuối năm 2023, đạt 2,27%. So với quý liền kề trước đó, nợ xấu đã nhích thêm 0,04%.
Trong 3 quý đầu năm, hệ thống ngân hàng có đến 25 nhà băng cho biết tỷ lệ nợ xấu tăng. Đồng thời, toàn ngành chỉ ghi nhận 4 tổ chức có tỷ lệ nợ xấu cải thiện là: SeABank (giảm 0,07%); PGBank (giảm 0,23%); MSB (giảm 0,24%); SHB (giảm 0,01%).
So với mục tiêu mà Ngân hàng Nhà nước đề ra là tỷ lệ nợ xấu được kiểm soát dưới 3%, thì hiện tại đã có nhiều ngân hàng vượt ngưỡng. Trong đó có thể kể đến: SHB (3,09%); PGBank (3,19%); BaoViet Bank (4,16%); BVBank (4,65%); VIB (3,85%); ABBank (3,2%); Vietbank (3,3%); OCB (4,14%)…
Ngược lại, 10 ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu thấp nhất trong hệ thống cũng lần lượt lộ diện với nhiều cái tên quen thuộc là: Vietcombank, Techcombank, Bac A Bank, VietinBank, ACB, VietABank, BIDV, SeABank, HDBank, KienlongBank.
Ở bảng xếp hạng mới này, Vietcombank vươn lên dẫn đầu danh sách ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu thấp nhất, ở mức 1,22%, tăng 0,98% so với cuối năm ngoái. So với cuối quý 2, tỷ lệ nợ xấu của Vietcombank chỉ tăng nhẹ 0,02%.
Techcombank xếp ở vị trí thứ hai, với tỷ lệ nợ xấu ở mức 1,29%, tăng nhẹ 0,13%. Ngân hàng Bac A Bank cũng vươn lên vị trí thứ ba với tỷ lệ nợ xấu 1 1,33%, tăng 0,41% so với cuối năm ngoái. Trước đó, Bac A Bank từng tỷ lệ nợ xấu thấp nhất vào cuối quý 1 và cuối năm 2023. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu của Bac A Bank đã giảm 0,15% so với cuối quý 2.
VietinBank vươn lên vị trí thứ 4 với tỷ lệ nợ xấu ở mức 1,45%, còn ACB tụt xuống hạng 4 với tỷ lệ nợ xấu 1,49%. Những vị trí còn lại trong TOP 10 lần lượt thuộc về VietABank (1,7%), BIDV (1,71%), SeABank (1,87%), HDBank (1,9%) và KienlongBank (1,94%). Đáng chú ý, ngân hàng MB lại rời khỏi TOP 10 ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu thấp nhất khi tăng 60% sau 9 tháng.
GIẢI "BÀI TOÁN" NỢ XẤU TỪ NỘI TẠI NGÂN HÀNG
Tại họp báo triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú cho biết, nợ xấu đang có xu hướng tăng là một vấn đề cần lưu ý, mức độ tăng cũng khá cao. Chỉ tính nửa đầu năm nay, tỷ lệ nợ xấu nội bảng đã lên đến gần 5%. Nếu bao gồm nợ tiềm ẩn có khả năng thành nợ xấu, nợ xấu bán cho Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng (VAMC), thì tỷ lệ nợ xấu khoảng 6,9%.
Theo ông Tú, nợ xấu là vấn đề lớn cần quan tâm, bởi đây là hệ quả của cả quá trình. Nhìn chung, đó là những khoản nợ sau 2 năm đại dịch Covid-19 và năm 2023 do yếu tố khách quan khó khăn của nền kinh tế, chứ không phải do sự yếu kém của ngành ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước sẽ có biện pháp xử lý tích cực hơn, đảm bảo chất lượng tín dụng và kiểm soát nợ xấu, trích lập để đảm bảo an toàn cho các ngân hàng.
Mặc dù Ngân hàng Nhà nước gia hạn áp dụng Thông tư 02/2023/TT-NHNN đến hết năm 2024, hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn, nhưng thực trạng nợ xấu của hệ thống tiếp tục tăng so với đầu năm là cảnh báo về rủi ro của hệ thống ngân hàng. Các bên liên quan cần phải quyết liệt tháo gỡ, đồng bộ trong việc xử lý nợ xấu.
Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Huân, Giảng viên Đại học Kinh tế TP.HCM cho rằng, không thể tính chính xác nợ xấu thực tế hiện nay tại các ngân hàng, nhưng chắc chắn cao hơn con số công bố. Theo ông Huân, khi Thông tư 02 hết hiệu lực, nợ xấu sẽ tăng cao, vì thế các ngân hàng phải gia tăng trích dự phòng rủi ro.
Theo điều tra của Ngân hàng Nhà nước, quý 3/2024, tỷ lệ nợ xấu/dư nợ tín dụng bình quân toàn hệ thống chưa đạt được kỳ vọng “giảm nhẹ”, mà có xu hướng “tăng nhẹ”, tuy nhiên xu hướng này có biểu hiệu thu hẹp hơn so với quý 2/2024. Các tổ chức tín dụng kỳ vọng tỷ lệ nợ xấu có thể điều chỉnh giảm trong quý 4/2024.
Bức tranh nợ xấu cuối quý 3 là một tín hiệu cảnh báo rõ ràng. Nếu không có các biện pháp kiểm soát, ngành ngân hàng có thể sẽ phải đối mặt với những rủi ro tài chính đáng kể trong tương lai gần.
Có thể nhìn thấy, Luật Các Tổ chức tín dụng mới 2024 đã mang đến “cơ hội vàng” cho các ngân hàng. Với quy định mới, các ngân hàng được phép chuyển nhượng một phần các dự án bất động sản gắn liền với các khoản nợ xấu và tham gia vào thị trường mua bán nợ. Điều này không chỉ giúp ngân hàng linh hoạt hơn trong việc thu hồi vốn mà còn giúp các khoản nợ xấu nhanh chóng được chuyển ra khỏi bảng cân đối kế toán, giảm thiểu áp lực tài chính.
Trong trường hợp một khoản vay lớn được bảo đảm bằng dự án bất động sản nhưng chủ dự án gặp khó khăn về tài chính, ngân hàng có thể chuyển nhượng một phần dự án này cho một nhà đầu tư khác.
Điều này giúp dự án tiếp tục được triển khai, thu hút dòng vốn mới và ngân hàng cũng có thể thu hồi vốn nhanh chóng mà không cần phải chờ toàn bộ khoản nợ được thanh toán.
Đây thực sự là một bước tiến đột phá khi hiện có tới 70% tài sản bảo đảm trong hệ thống ngân hàng là bất động sản. Việc linh hoạt xử lý các tài sản bảo đảm này sẽ giúp ngân hàng giảm nợ xấu một cách đáng kể và tạo động lực phát triển thị trường bất động sản.
Việc tham gia vào thị trường mua bán nợ cũng giúp ngân hàng nhanh chóng loại bỏ nợ xấu khỏi bảng cân đối kế toán. Các ngân hàng có thể hợp tác với các công ty quản lý nợ hoặc các tổ chức tài chính quốc tế để xử lý những khoản nợ xấu quy mô lớn, cải thiện chất lượng tài sản và giảm áp lực tài chính.
Để tăng cường nguồn lực tài chính, ngân hàng có thể phát hành cổ phiếu nhằm tăng vốn chủ sở hữu. Tăng vốn giúp nâng cao khả năng an toàn vốn, tạo điều kiện phát triển bền vững và cải thiện tỷ lệ bao phủ nợ xấu, đồng thời giảm rủi ro cho toàn bộ hệ thống.
Bên cạnh những giải pháp xử lý nợ xấu, các ngân hàng cần đẩy mạnh nguồn thu phi tín dụng nhằm giảm sự phụ thuộc vào tín dụng truyền thống và tạo ra doanh thu ổn định.
Thông qua các hệ thống quản lý tín dụng thông minh, ngân hàng có thể giám sát và phát hiện sớm các khoản vay rủi ro ngay từ giai đoạn đầu, giúp đưa ra các biện pháp tái cấu trúc khoản vay kịp thời.
Cổ phiếu MBB - Có nên MUA GOM lúc này? Phân tích BCTC và Định giá năm 2024 & 2025
Lê Thắng xin chào cả nhà,
Ngân hàng TMCP Quân Đội, hay còn gọi là MBBank (mã CK: MBB) được thành lập vào ngày 4/11/1994 với số vốn gần 20 tỷ đồng, 25 nhân sự đầu tiên. Sau 30 năm hình thành và phát triển, MBBank đã trở thành một trong những định chế tài chính ngân hàng tư nhân lớn mạnh nhất cả nước. Mạng lưới khách hàng của MBBank chủ yếu là công ty nhà nước thuộc quân đội, công an, cảng sát và doanh nghiệp quốc phòng. Với lợi thế đó, MBBank có thế mạnh về nguồn vốn giá rẻ, CASA dồi dào, lãi suất cho vay ưu đãi và đặc biệt tỷ lệ nợ xấu thấp.
Câu hỏi mà nhiều A/C nhà đầu tư quan tâm nhất lúc này là:
- Kết quả kinh doanh của MBBank cho thấy điều gì phía sau?
- Kỳ vọng gì vào MBBank trong 2 năm tới?
- Có nên mua cổ phiếu MBB lúc này?
- Nếu mua được, định giá của MBB là bao nhiêu?
Tất cả câu hỏi đó được Thắng trả lời trong video này.
Mời mọi người xem video và chia sẻ ý kiến tích cực.
交易股票、货币、商品、期货、债券、基金等金融工具或加密货币属高风险行为,这些风险包括损失您的部分或全部投资金额,所以交易并非适合所有投资者。
做出任何财务决定时,应该进行自己的尽职调查,运用自己的判断力,并咨询合格的顾问。本网站的内容并非直接针对您,我们也未考虑您的财务状况或需求。本网站所含信息不一定是实时提供的,也不一定是准确的。本站提供的价格可能由做市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他财务决定均应完全由您负责,并且您不得依赖通过网站提供的任何信息。我们不对网站中的任何信息提供任何保证,并且对因使用网站中的任何信息而可能造成的任何交易损失不承担任何责任。
未经本站书面许可,禁止使用、存储、复制、展现、修改、传播或分发本网站所含数据。提供本网站所含数据的供应商及交易所保留其所有知识产权。