行情
新闻
分析
用户
快讯
财经日历
学习
数据
- 名称
- 最新值
- 前值
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
公:--
预: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
前: --
公:--
预: --
公:--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
--
预: --
前: --
无匹配数据
最新观点
最新观点
最近更新
港股投资的风险预警
尽管香港法律体系和监管框架相对健全,但港股市场仍然存在一些特定的风险和挑战,如港币与美元挂钩,外地投资者可能会面临汇率波动;中国内地的政策变化和经济状况对港股的影响等。
投资港股费用结构与税务
港股市场的交易成本包括总投资成本为买卖股票的交易费用、印花税、结算费用等,对于外地投资者,可能会涉及兑换港币所产生汇率转换费用,以及按照所在地的相关法规需缴纳的税款。
港股行业分析:非必需消费行业
港股市场非必需消费行业覆盖汽车、教育、旅游、餐饮、服装等多个领域,在643家上市公司中35%为中国内地公司,占总市值的65%,因此受中国经济影响深远。
港股行业分析:地产建筑业
地产建筑业在港股指数中的份额近年已明显下降,但截2022年,它依然在市场上占有约10%的份额。包含了房地产开发、建筑工程、房地产投资和物业管理等各个方面。
中国·香港
越南·胡志明
阿联酋·迪拜
尼日利亚·拉各斯
埃及·开罗
查看所有搜索结果
暂无数据
Liên tiếp hai ngày 27-28/06, HĐQT CTCP Container Việt Nam thông qua hai kế hoạch quan trọng bao gồm nâng tỷ lệ vốn góp lên tối đa 100% tại Cảng Nam Hải Đình Vũ và thoái vốn khỏi khách sạn Hyatt Hải Phòng.
Duyệt chi gần 2,179 tỷ đồng thâu tóm Cảng Nam Hải Đình Vũ
Ngày 28/06, HĐQT CTCP Container Việt Nam thông qua kế hoạch nhận chuyển nhượng vốn góp tại Công ty TNHH Cảng Nam Hải Đình Vũ, nếu thành công, VSC có thể nâng tỷ lệ sở hữu tại đây lên tối đa 100% vốn điều lệ. Bên bán là Công ty TNHH Thương mại và Đầu tư Đoàn Huy (Công ty Đoàn Huy) và Công ty TNHH Thương mại Kim khí Xuất nhập khẩu Huy Hoàng (Công ty Huy Hoàng).
Cụ thể, tỷ lệ chuyển nhượng là tối đa 65% từ hai công ty nêu trên, với 83,800 đồng/phần góp vốn, tương ứng giá trị thương vụ gần 2,179 tỷ đồng. VSC cho biết nguồn vốn thực hiện từ việc phát hành tăng vốn 1:1 cho cổ đông hiện hữu và nguồn vốn vay ngân hàng.
Riêng phần đi vay, VSC dự kiến vay vốn tại Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam - Chi nhánh Hải Phòng (Eximbank CN Hải Phòng) với tổng hạn mức 1,450 tỷ đồng.
Thực tế, kế hoạch nâng sở hữu lên tối đa 100% vốn tại Cảng Nam Hải Đình Vũ đã được ĐHĐCĐ thường niên 2024 lần 2 của VSC thông qua ngày 10/06. Trước đó, VSC đã sở hữu 35% vốn Cảng Nam Hải Đình Vũ sau khi nhận chuyển nhượng từ Gemadept (GMD) trong năm 2023. Bên cạnh VSC, Công ty Đoàn Huy và Công ty Huy Hoàng cũng nhận chuyển nhượng vốn Cảng Nam Hải Đình Vũ từ GMD, qua đó nâng tỷ lệ sở hữu lên lần lượt 36.7% và 28.3%, tổng cộng khoảng 65% như hiện nay.
Tại cuối quý 1/2024, VSC đang ghi nhận giá trị ghi sổ hơn 998 tỷ đồng tại Cảng Nam Hải Đình Vũ. Đồng thời ghi nhận 105 tỷ đồng tiền đặt cọc cho Công ty Huy Hoàng theo hợp đồng ngày 06/04/2023 và Công ty Đoàn Huy theo hợp đồng ngày 21/12/2023, để mua phần vốn góp của hai công ty này tại Cảng Nam Hải Đình Vũ.
Theo điều khoản của các hợp đồng đặt cọc nói trên, VSC được mua đến mức tối đa toàn bộ phần vốn góp của Công ty Đoàn Huy và Công ty Huy Hoàng tại Cảng Nam Hải Đình Vũ với tổng số tỷ lệ phần vốn góp khoảng 65%. Thời hạn hiệu lực của số tiền đặt cọc là 12 tháng kể từ ngày hợp đồng đặt cọc.
Cảng Nam Hải Đình Vũ giai đoạn còn thuộc về Gemadept
Công ty TNHH Cảng Nam Hải Đình Vũ tiền thân là CTCP Cảng Nam Hải Đình Vũ, được thành lập ngày 11/04/2012, vốn điều lệ ban đầu 400 tỷ đồng, do 3 cổ đông sáng lập gồm CTCP Vận tải Xăng dầu Vipco nắm 30%, CTCP Hàng hải Ngân Hà (15%) và CTCP Đại lý Liên hiệp Vận chuyển (54.66%). Công ty có trụ sở tại Km 6 đường Đĩnh Vũ, phường Đông Hải 2, quận Hải An, TP Hải Phòng. Tháng 4/2023, Công ty chuyển đổi mô hình hoạt động thành TNHH.
Hiện tại, Công ty vẫn giữ vốn điều lệ ở mức 400 tỷ đồng, hoạt động chính trong lĩnh vực cảng biển. Sở hữu Cảng Nam Hải Đình Vũ gồm 2 cầu tàu có chiều dài 440m, cho phép tiếp nhận tàu container trọng tải đến 40,000 DWT, vốn đầu tư gần 1,700 tỷ đồng. Cảng chính thức được đưa vào khai thác từ ngày 10/12/2013.
Thoái vốn khỏi khách sạn Hyatt Hải Phòng
Ngày 27/06, HĐQT VSC cũng thông qua một hợp đồng lớn khác nhưng theo chiều ngược lại. Cụ thể, VSC dự định thanh lý hợp đồng hợp tác đầu tư và kinh doanh dự án khách sạn Hyatt Hải Phòng giữa Công ty TNHH MTV Dịch vụ Cảng Xanh (GP), Công ty TNHH MTV Trung tâm Logistics Xanh (GLC) với CTCP Tập đoàn T&D Group. GP và GLC đều là các công ty con thuộc sở hữu 100% của VSC.
Theo báo cáo thường niên 2023, VSC ghi nhận hợp đồng hợp tác kinh doanh và đầu tư dài hạn 813,6 tỷ đồng. Đây là khoản hợp tác với T&D Group để triển khai dự án khách sạn trên.
Để thực hiện dự án, VSC đã phải vay dài dạn thêm 700 tỷ đồng trong quý 2/2023, tại Ngân hàng TMCP Bảo Việt - Chi nhánh Hải Phòng. Đây là khoản vay của hai công ty con GP và GLC, mỗi bên vay 350 tỷ đồng.
Dự án có tổng vốn đầu tư 1,423.6 tỷ đồng, trong đó GLC và GP mỗi bên thực góp 411.8 tỷ đồng và T&D Group góp 600 tỷ đồng. Tiền góp vốn của hai công ty con này được chuyển cho T&D Group để thực hiện dự án đầu tư và sẽ được hoàn trả bởi T&D Group theo lộ trình từ năm 2024 thanh toán tối thiểu 5 tỷ đồng/năm, từ năm 2028 thanh toán tối thiểu 15 tỷ đồng/năm, từ năm 2035 thanh toán tối thiểu 34.25 tỷ đồng/năm.
Ngoài ra, hai công ty con sẽ được phân chia lợi nhuận hàng năm tương ứng với 45% dòng tiền từ lợi nhuận sau thuế và khấu hao của dự án từ T&D Group trong 8 năm đầu tiên. Cho mỗi năm tiếp theo, lợi nhuận sẽ được phân chia hàng năm theo tỷ lệ góp vốn ban đầu của các bên đến khi T&D Group hoàn trả hết toàn bộ phần vốn đã đầu tư của hai công ty con như nêu ở trên. Tỷ lệ góp vốn ban đầu của VSC là 57.8%, mỗi công ty con có tỷ lệ là 28.9%.
Khách sạn Hyatt Palace Hải Phòng là dự án khách sạn 4 sao có tổng diện tích 45,000m2 với hai tòa tháp cao 17 tầng và 25 tầng, gồm 256 phòng. Dự án trước đây là tòa nhà Vipco Tower tại số 37 Phan Bội Châu và tòa nhà Central Tower tại số 43 Quang Trung, cùng thuộc phường Hoàng Văn Thụ, quận Hồng Bàng, TP Hải Phòng.
Phối cảnh dự án Hyatt Palace Hải Phòng
Huy Khải
FILI
Phiên 18/06, cổ phiếu của CTCP Thép Thủ Đức - VNSTEEL bật tăng trần mức 26,400 đồng/cp sau thông tin TDS chốt quyền trả cổ tức bằng tiền năm 2023 với tỷ lệ kỷ lục 70% (7,000 đồng/cp).
Từ cuối tháng 7/2023, giá cổ phiếu TDS đi ngang vùng 10,000 đồng/cp suốt 8 tháng, trước khi bứt phá mạnh mẽ từ đầu tháng 3/2024. Chỉ trong hơn 3 tháng, thị giá TDS đã tăng tới hơn 160% và tăng kịch trần lên mức đỉnh lịch sử 26,400 đồng/cp trong phiên 18/06.
Diễn biến giá cổ phiếu TDS từ đầu năm 2024
Cổ phiếu TDS "tím trần" trong bối cảnh HĐQT Công ty vừa thông báo chốt quyền nhận cổ tức năm 2023 bằng tiền tỷ lệ 70% (sở hữu 1 cp được nhận 7,000 đồng). Ngày giao dịch không hưởng quyền là 27/06/2024.
Với hơn 12.2 triệu cp đang lưu hành, Doanh nghiệp thép cần chi khoảng 85.6 tỷ đồng để trả cổ tức. Ngày thanh toán dự kiến 12/07/2024, tức 2 tuần sau ngày chốt danh sách.
Tại ngày 31/03/2024, cổ đông lớn nhất nắm giữ 65% vốn TDS là Tổng Công ty Thép Việt Nam , dự kiến “bỏ túi” 55.6 tỷ đồng tiền mặt cổ tức. Tiếp đó, CTCP Gemadept và ông Lê Bá Phương - Thành viên HĐQT TDS - lần lượt nắm giữ 10.9% và 7.02% vốn, tương ứng nhận 9.3 tỷ đồng và 6 tỷ đồng.
Thực tế, TDS đã không chia cổ tức trong hai năm liên tiếp 2021-2022, dù trước đó có 10 năm liên tiếp (2011-2020) đều đặn trả cổ tức tiền mặt cho cổ đông, tỷ lệ dao động 5-25%. Cổ tức 7,000 đồng/cp cho năm 2023 cũng là mức cao nhất trong lịch sử hoạt động của Doanh nghiệp, hoàn thành kế hoạch ĐHĐCĐ giao.
Về kết quả kinh doanh, quý 1/2024, doanh thu thuần của TDS đạt gần 339 tỷ đồng và lãi sau thuế khoảng 2.8 tỷ đồng, lần lượt giảm 3% và 37% so với cùng kỳ năm trước.
Lợi nhuận sau thuế hàng quý của TDS giai đoạn 2022-2024
Thế Mạnh
FILI
Công ty TNHH MTV Quản lý quỹ Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (Vietinbank Capital) vừa trở thành cổ đông lớn của CTCP Container Việt Nam (Viconship, HOSE: VSC) khi nâng sở hữu lên 8.25% vốn cổ phần.
Vietinbank Capital báo cáo đã mua 9.2 triệu cp VSC trong ngày 11/06, nâng tỷ lệ sở hữu từ 4.8% lên 8.25% (22 triệu cp) và trở thành cổ đông lớn của Viconship.
Phiên 14/06, có tổng cộng 13.2 triệu cp VSC được giao dịch thỏa thuận, trị giá 308.4 tỷ đồng, trung bình 23,364 đồng/cp, tương đương giá đóng cửa phiên hôm đó. Tạm lấy theo mức giá này, Vietinbank Capital đã chi khoảng 215 tỷ đồng cho thương vụ trên.
Trên thị trường chứng khoán, cổ phiếu VSC có chuỗi giao dịch khá tích cực từ giữa tháng 4, đưa thị giá từ 19,000 đồng/cp lên tiệm cận ngưỡng 24,000 đồng/cp, tương ứng tăng hơn 25% sau 2 tháng; khối lượng khớp lệnh trên 6 triệu cp/ngày.
Diễn biến giá cổ phiếu VSC từ đầu năm 2024
Vietinbank Capital là công ty con 100% vốn của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (Vietinbank), thành lập từ cuối tháng 10/2010, hoạt động trong lĩnh vực lập và quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, và là công ty quản lý quỹ đầu tiên trên thị trường được cấp phép thực hiện nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán.
Ông Lê Duy Hải - Chủ tịch HĐTV Vietinbank Capital
Vốn điều lệ ban đầu là 50 tỷ đồng với chỉ 8 nhân sự, qua một số lần tăng vốn và giảm vốn, đến nay, vốn điều lệ Công ty đạt 300 tỷ đồng với 32 nhân sự. Ông Lê Duy Hải - Chủ tịch HĐTV Công ty đồng thời là Phó Tổng Giám đốc Vietinbank kiêm người đại diện 40% vốn góp của ngân hàng mẹ tại Vietinbank Capital.
Về tình hình kinh doanh, giai đoạn năm 2011-2021, lợi nhuận trước thuế đạt bình quân 50-60 tỷ đồng/năm, riêng năm 2018 Công ty lãi kỷ lục 83 tỷ đồng. Từ năm 2022-2023, lãi giảm xuống 10 tỷ đồng và 12 tỷ đồng.
Quý 1/2024, Vietinbank Capital đạt doanh thu thuần chưa đủ 600 triệu đồng, giảm 25% so với cùng kỳ năm trước. Công ty lỗ sau thuế khoảng 145 triệu đồng, trong khi cùng kỳ lãi 118 triệu đồng.
Tại ngày 31/03/2024, tổng tài sản của Vietinbank Capital đạt gần 415 tỷ đồng. Công ty đem phân nửa tài sản đi đầu tư ngắn hạn (206.5 tỷ đồng), trong đó sở hữu gần 4.4 triệu cp TVN của Tổng Công ty Thép Việt Nam; 290,000 cp OIL của Tổng Công ty Dầu Việt Nam; 43,253 cp CTD của CTCP Xây dựng Coteccons...
Thế Mạnh
FILI
Hàng loạt cổ phiếu ngành vận tải biển và cảng biển bứt tốc nhờ thông tin giá cước vận tải tăng mạnh và gấp đôi cùng kỳ.
Tính đến 13h40 ngày 10/06, nhiều cổ phiếu vận tải container như HAH, VOS, VNA, và MVN tăng trần, trong đó nhiều cổ phiếu tăng tới gần 15% và khối lượng giao dịch cũng tăng đột biến.
Nhóm vận tải dầu khí như VTO, PDV, PVP, và PVT cũng diễn biến tích cực, với mức tăng ít nhất 5%. Sắc xanh cũng lan sang các cổ phiếu cảng biển như GMD, CDN, TCL, và PHP, trong đó PHP tăng mạnh nhất với gần 10%.
Thực tế, các cổ phiếu nhóm này đã bắt đầu tăng tốc mạnh mẽ trong vài tuần gần đây, mang về khoản lãi khủng cho những nhà đầu tư nắm giữ chúng. Từ đầu tháng 5/2024, cổ phiếu VOS bứt phá hơn 90%, VIP vọt 60%, còn MVN, VTP, và PHP đều tăng gần 40%.
Đà tăng của một số cổ phiếu vận tải biển và cảng biển từ đầu tháng 5
Nguồn: VietstockFinanceSự bứt tốc này diễn ra trong bối cảnh gián đoạn thị trường vận tải biển đẩy giá cước tăng chóng mặt. Trong báo cáo mới nhất, công ty môi giới tàu Intermodal cho biết thị trường vận tải đã thay đổi rất nhanh chóng.
"Chỉ cách đây vài tuần, thị trường vận tải container còn khá cân bằng, với cước phí giảm sau đợt tăng đột biến ban đầu do việc chuyển hướng tàu ra khỏi Biển Đỏ vì xung đột trong khu vực. Tuy nhiên, tình hình đã thay đổi đáng kể khi lĩnh vực này hiện đang trải qua sự gián đoạn nghiêm trọng và sự hồi phục mạnh mẽ của cước phí giao ngay trên các tuyến thương mại chính với nhiều yếu tố góp phần vào sự tăng đột biến này," báo cáo cho biết.
Chara Georgousi, chuyên gia tại Intermodal, nhận định việc chuyển hướng tàu ra khỏi Biển Đỏ đã ảnh hưởng đáng kể đến lịch trình vận chuyển. “Tuyến đường thay thế quanh Mũi Hảo Vọng tăng thêm tới hai tuần cho thời gian hành trình, làm gián đoạn kế hoạch và tăng tiêu thụ nhiên liệu cũng như chi phí. Sự chuyển hướng này đã dẫn đến hiệu ứng domino, với các trung tâm trung chuyển lớn ở châu Âu và châu Á trở thành nút thắt cổ chai, làm chậm thêm việc di chuyển hàng hóa. Đáng chú ý, thời gian chờ đậu tại các cảng lớn kéo dài đến 7 ngày, trong khi thời gian lưu trữ hàng hóa tại Thượng Hải đạt mức cao nhất trong 3 năm,” bà chia sẻ về tình hình hiện tại.
Sự tắc nghẽn nghiêm trọng này đã dẫn đến tình trạng nghẽn tàu và buộc một số nhà vận chuyển phải bỏ qua các cảng dự kiến, làm tăng thêm vấn đề tại các cảng hạ nguồn phải xử lý khối lượng hàng hóa bổ sung. Nhìn tổng thể, ước tính tình trạng tắc nghẽn cảng ngày càng xấu đi đã làm giảm hơn 2% nguồn cung tàu container kể từ tháng 3/2024. Ngoài ra, các vấn đề ở kênh đào Panama và Eo biển Hormuz cũng càng làm trầm trọng thêm vấn đề của ngành.
Ở phía cầu, các bên mua hàng lại tăng cường nhập khẩu trước hàng hóa để giảm thiểu các gián đoạn chuỗi cung ứng trong tương lai. "Hành vi này, tương tự như các chiến lược đã thấy trong thời kỳ đại dịch COVID-19, góp phần vào sự tăng vọt hiện tại về nhu cầu,” bà Georgousi nói.
Tác động kết hợp của các yếu tố trên đã dẫn đến sự tăng mạnh của cước phí. Trong tuần kết thúc vào ngày 06/06, chỉ số cước vận tải container của Drewry tăng 12% lên 4,716 USD cho mỗi FEU (container 40ft), tức tăng 181% so với cùng kỳ và cao hơn 232% so với mức trung bình năm 2019.
Cước vận tải container ở một số tuyếnNguồn: Drewy
Ví dụ, cước phí trên tuyến Thượng Hải đến Genoa đạt 6,664 USD mỗi FEU, tăng 213% so với một năm trước. Ngoài ra, cước phí trên tuyến Thượng Hải đến New York gần đây đạt 6,463 USD mỗi FEU, tăng khoảng 142% so với cùng kỳ, trong khi cước phí trên tuyến Thượng Hải đến Los Angeles gần đây đạt 5,975 USD mỗi FEU, tăng khoảng 215% so với cùng kỳ năm trước.
Vũ Hạo
FILI
Theo phân tích của chuyên gia kinh tế thuộc VinaCapital, tình hình xuất khẩu Việt Nam phục hồi đã thúc đẩy giá cổ phiếu ngành logistics; bên cạnh đó, các cổ phiếu ngành khu công nghiệp cũng được hưởng lợi.
Ảnh minh họa
Nhìn tổng thể, việc phục hồi xuất khẩu đã có tác động tích cực đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam. Xuất khẩu sang Mỹ, thị trường lớn nhất của Việt Nam, đã phục hồi từ mức giảm 21% trong quý 1/2023 lên mức tăng 24% trong quý 1/2024.
Tăng trưởng xuất khẩu thúc đẩy khối lượng hàng hóa vận chuyển bằng đường hàng không và đường biển của Việt Nam, ước tính lần lượt tăng 40% và 30% so với cùng kỳ năm trước trong quý 1/2024.
VinaCapital kỳ vọng sự phục hồi xuất khẩu của Việt Nam sẽ tiếp tục sau năm 2024.
Nguồn: VinaCapital
Phục hồi xuất khẩu thúc đẩy cổ phiếu ngành logistics…
Cuối năm 2023, sự phục hồi xuất khẩu của Việt Nam đã bắt đầu khi quá trình giảm tồn kho kết thúc. Đến đầu năm 2024, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam tăng trưởng 15% và doanh thu từ dịch vụ xếp dỡ hàng hóa đường hàng không và đường biển tăng hơn 30% so với cùng kỳ. Đó là một lý do khiến cổ phiếu của các công ty Logistics tăng vọt trong năm nay, thậm chí tăng mạnh hơn VN-Index.
Khoảng 1/3 doanh thu của các công ty logistics tập trung vào thương mại quốc tế (trái ngược với các doanh nghiệp tập trung vào vận chuyển nội địa) có nguồn gốc từ việc vận chuyển hàng hóa. Các hợp đồng được ký trong giai đoạn 2020-2021 hiện sắp kết thúc, vì vậy VinaCapital kỳ vọng mức tăng trưởng doanh thu chung của các công ty đó gần như không đổi trong năm nay, bất chấp hoạt động vận chuyển tăng trưởng mạnh mẽ và phí xử lý cảng cao hơn.
VinaCapital nhấn mạnh: “Các nhà đầu tư đang nhìn xa hơn sự tăng giảm bất thường về giá cước vận chuyển và hào hứng với các yếu tố khác, bao gồm triển vọng tăng thêm phí cảng do Chính phủ quy định và việc tăng công suất, nâng cao hy vọng Việt Nam có thể trở thành trung tâm trung chuyển quốc tế như Singapore".
Về công suất, tại khu phức hợp cảng nước sâu Cái Mép-Thị Vải, cách TPHCM 60km, bao gồm các bến do Gemadept (GMD), Cảng Sài Gòn (SGP) và các công ty logistics khác sở hữu và vận hành, VinaCapital dự báo tăng hơn 10% vào năm 2025. Công suất tại khu phức hợp cảng nước sâu Lạch Huyện gần Hải Phòng do một số doanh nghiệp nhà nước sở hữu và vận hành dự kiến tăng gấp 1.5 lần vào năm 2025, bao gồm việc dự kiến tăng công suất 80% vào cuối năm 2024.
Chính phủ cũng đang xem xét xây dựng một cảng trung chuyển chuyên dụng tại Cần Giờ, gần Cái Mép-Thị Vải. Điều này được VinaCapital nhận định có thể giúp Việt Nam cạnh tranh với Singapore và Hồng Kông (Trung Quốc) về kinh doanh trung chuyển, vì phí xử lý cảng của Việt Nam vẫn thấp hơn khoảng một nửa so với Singapore ngay cả sau khi tăng khoảng 10% phí xử lý cảng.
Ngoài ra, việc xây dựng sân bay Long Thành mới vẫn đang tiến triển với một nhà ga hàng hóa mới dự kiến khởi công vào cuối năm nay. Tất cả đều là một phần trong các kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng của Chính phủ. Chi tiêu cơ sở hạ tầng của Chính phủ đã tăng khoảng 33% lên 24 tỷ USD (hoặc 6% GDP) vào năm ngoái và VinaCapital kỳ vọng mức tương tự trong năm nay.
… và cổ phiếu khu công nghiệp
VinaCapital thống kê giá cổ phiếu của các công ty vận hành khu công nghiệp (KCN) đã tăng khoảng 50% so với cùng kỳ năm trước. Dù việc phục hồi xuất khẩu của Việt Nam không ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng giá này như với các công ty logistics, nhưng đang khuyến khích dòng vốn FDI nhiều hơn.
Cụ thể, FDI đăng ký mới tăng hơn 50% trong 5 tháng đầu năm 2024 lên gần 8 tỷ USD, tương đương 4% GDP và hầu hết doanh nghiệp sản xuất đa quốc gia đều xây dựng nhà máy trong các KCN. Ngoài ra, các doanh nghiệp đa quốc gia sản xuất các sản phẩm công nghệ cao đang đẩy giá thuê khu công nghiệp lên cao, vì họ thường ít bị ảnh hưởng bởi giá thuê khu công nghiệp hơn so với các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm giá trị gia tăng thấp như hàng may mặc hay nội thất.
Thêm vào đó, việc phục hồi xuất khẩu của Việt Nam được thúc đẩy bởi việc gia tăng xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao, vốn thường được vận chuyển bằng đường hàng không. Như đề cập trước đó, tăng trưởng khối lượng hàng hóa vận chuyển bằng đường hàng không của Việt Nam (tăng khoảng 40% so với cùng kỳ) đang vượt xa đường biển (tăng khoảng 30% so với cùng kỳ). Xuất khẩu máy tính xách tay và các sản phẩm điện tử gia dụng khác tăng hơn 30% so với cùng kỳ trong 5 tháng đầu 2024, gấp đôi mức tăng trưởng xuất khẩu tổng thể 15% của cả nước.
Cuối cùng, nguồn cung đất KCN sẵn có còn hạn chế. Tỷ lệ lấp đầy tại các KCN ở phía Bắc, nơi thu hút phần lớn dòng vốn đầu tư FDI công nghệ cao mới, hiện đang ở mức trung bình trên 80% và tỷ lệ lấp đầy tại các KCN ở khu vực TPHCM trên 90%. Sự kết hợp giữa việc ít bị ảnh hưởng bởi giá của các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghệ cao và tỷ lệ lấp đầy cao đã đẩy giá thuê KCN ở phía Bắc và phía Nam tăng lần lượt 35% và 15% vào năm 2023. VinaCapital dự kiến mức giá này sẽ tăng thêm 7-10% trên toàn quốc trong năm 2024.
Huy Khải
FILI
Khái niệm ESG hiện đại được hình thành vào những năm 2000, ban đầu được áp dụng cho phân tích tài chính để xác định rủi ro, đánh giá tác động tích cực của doanh nghiệp với xã hội. Dần dần, nó trở thành công cụ, một kim chỉ nam để đánh giá rủi ro các khoản đầu tư vào doanh nghiệp, để tránh bỏ tiền vào những thương vụ gây tác động xấu và phi đạo đức.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, từ bối cảnh các vấn đề về môi trường và phát triển bền vững được dấy lên không chỉ ở Việt Nam mà ở phạm vi toàn cầu, ESG đã trở thành chủ đề được bàn tán rộng khắp. “Cả thế giới đang quan tâm đến ESG” là nhận định mang tính thực tế, gần như chẳng thể phủ nhận.
Một buổi chiều nắng đẹp, người viết may mắn có dịp trò chuyện cùng 2 nhân vật. Đó là bà Nguyễn Phạm Kim Ngân - Nhà sáng lập, Giám đốc điều hành Nepa Social Enterprise và “GLC Project”, Chuyên gia tư vấn phát triển bền vững và doanh nghiệp tạo tác động; và ông Phạm Nguyễn Hoàng Thịnh - Tổng Giám đốc CTCP Giáo Dục STEMax, điều phối viên chương trình CREST Awards, chương trình giáo dục STEM trọng điểm của Vương Quốc Anh tại Đông Nam Á.
Bà Ngân hoạt động trong mảng tư vấn với các doanh nghiệp tạo tác động xã hội (social impact) và phát triển bền vững. Ông Thịnh là chuyên gia mảng giáo dục, cũng thường xuyên hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu, tìm kiếm giải pháp thực hiện phát triển bền vững. Dưới góc nhìn của 2 chuyên gia, câu chuyện ESG tại Việt Nam có những điều còn trăn trở và cần phải tìm được giải pháp.
Tại COP26, Việt Nam đã cam kết lộ trình đạt Net Zero (trung hòa phát thải) vào năm 2050. Mục tiêu này phù hợp với xu hướng chung trên thế giới. Tuy nhiên, bà Ngân đánh giá Việt Nam còn rất nhiều điều cần làm để đạt được mục tiêu này.
“Việt Nam nằm trong số 50 - 60 quốc gia đầu tiên cam kết đạt Net Zero theo lộ trình này. Nhưng cần biết rằng, Nhật Bản cũng nằm trong số các quốc gia cam kết cùng Việt Nam, mà họ đang khá ngần ngại. Thực tế, Nhật Bản đã đi trước khi phát động các chiến dịch kinh tế xanh từ thập niên 1990” - vị chuyên gia nhận định.
Một trong các giải pháp để đạt được mục tiêu này là yêu cầu các doanh nghiệp hoạt động một cách bền vững, rộng ra là thực hiện ESG.
“Nguồn gốc của ESG bắt nguồn từ SDG (PV: Sustainable Development Goals - các mục tiêu phát triển bền vững). Khung ESG đầu tiên được phát triển tại tổ chức Hội nghị Trái đất đầu tiên tại Rio de Janeiro, còn được gọi là “Earth Summit năm 1992” đồng thời với sự ra đời của các SDG. Trong 17 mục tiêu SDG của Liên hiệp quốc (UN), họ phân biệt bao nhiêu mục tiêu vào E, bao nhiêu vào S, bao nhiêu vào G” - bà Ngân giải thích.
Thông qua các khảo sát, UN đã có các chương trình giúp Việt Nam phát triển các SDG từ năm 2020. 4 năm trôi qua, việc thực hành phát triển bền vững tại các doanh nghiệp cũng đã có thành tựu. Theo báo cáo Phát triển Bền vững Doanh nghiệp năm 2023 của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), tỷ lệ doanh nghiệp thực hành phát triển bền vững tại Việt Nam đang ngày càng tăng. Cụ thể, số doanh nghiệp niêm yết thực hiện báo cáo phát triển bền vững đã tăng từ 60% (năm 2020) lên 70% (năm 2022) và 80% (năm 2023).
Tuy vậy, vị chuyên gia cho rằng những con số vẫn còn khá hạn chế và khiêm tốn. Sự hỗ trợ của UN hiện vẫn đang tập trung vào truyền thông chính sách, du lịch, nông nghiệp, dịch vụ...
“Các mục tiêu Net Zero tại Việt Nam phải được định hình vào năm 2030 - tức còn 6 năm nữa. Việt Nam đã có những ký kết cùng châu Âu (CBAM, EUDR) và Mỹ (Dự thảo cạnh tranh sạch). Việt Nam cam kết thực hiện theo lộ trình đó, nhưng cùng hạn định với Nhật Bản - đất nước đã đi trước chúng ta 30 năm. Có nghĩa, đây là một vấn đề rất khẩn thiết, cấp bách, để đạt được lộ trình ESG và Net Zero” - bà Ngân kết luận.
Theo bà Ngân, Việt Nam vẫn còn tồn tại những vấn đề lớn. Đầu tiên, Việt Nam sở hữu một nền kinh tế thâm dụng tài nguyên thiên nhiên - đất, nước và môi trường, nhưng lại chưa biết cách tận dụng hiệu quả.
“Gần đây có trend trong giới trẻ về việc ‘vất vả quá thì về quê nuôi cá và trồng thêm rau’. Vui thôi, nhưng cũng cho thấy sự thâm dụng tự nhiên đã tồn tại từ suy nghĩ. Có điều, nhận thức về việc tận dụng tự nhiên hiệu quả ra sao thì chưa được cao. Chúng ta bào mòn tự nhiên quá nhiều” - vị chuyên gia nói thêm.
Thứ 2 là nội lực doanh nghiệp trong nước vẫn còn hạn chế. Đơn cử là các ngành công nghiệp phụ trợ hầu hết đều phải nhập khẩu. “Việt Nam còn thiếu các ngành công nghiệp phụ trợ phát triển mạnh như Thái Lan, Philippines hay Indonesia... đang sở hữu” - bà Ngân nhận định.
Tuy vậy, bà tin rằng Việt Nam đang có tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo, nhờ nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào và vị trí địa lý tốt. “Nhìn chung, Việt Nam có tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo nhờ nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào. Trong bối cảnh này, việc thực hành ESG vừa là động lực, vừa là áp lực, vừa là cơ hội cho Việt Nam”.
Bên cạnh đó, là người đã đồng hành nhiều năm cùng các doanh nghiệp tạo tác động xã hội, chuyên gia Kim Ngân cũng thấu hiểu những khó khăn của các doanh nghiệp khi phải thực hiện ESG một cách bài bản.
“Có những doanh nghiệp, bản thân hoạt động đã có lồng ghép các yếu tố phát triển bền vững trong đó. Nhưng ESG hiện tại đã được chuẩn hóa, cần báo cáo theo các chuẩn quy tắc nhất định. Với các doanh nghiệp này, việc ép họ phải báo cáo không được thực tế cho lắm, vì các chi phí phát sinh”.
Dẫu vậy, bà Ngân đánh giá ESG sẽ là xu hướng tất yếu trên thế giới, bởi các tập đoàn, doanh nghiệp lớn đang dần bắt buộc phải báo cáo. Như EU (Liên minh châu Âu) gần đây đã ban hành chính thức việc bắt buộc các doanh nghiệp lớn phải công bố phải công bố báo cáo thẩm định bền vững (CSDD).
“Quan trọng là dù có hay không có ESG, chuyện phát triển bền vững là bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Sớm hay muộn, họ đều cần phải được trang bị kỹ năng, kiến thức về vấn đề này. Nhìn chung, ESG nằm ở cái tâm của doanh nghiệp, vì có những bên họ không cần theo đuổi mà bản chất họ đã định hướng theo bền vững, thậm chí là hơn thế nữa. Tôi cho rằng Chính phủ cần nhận ra và có những chính sách hỗ trợ họ. Còn đối với các doanh nghiệp chỉ theo đuổi lợi nhuận, sẽ cần có những chế tài nhất định” - bà Ngân kết luận.
Đồng tình, chuyên gia Hoàng Thịnh cũng cho rằng, công tác phát triển bền vững tại Việt Nam tồn tại những hạn chế. Nhưng ở góc nhìn của một chuyên gia giáo dục, ông nhận định vấn đề nằm ở “con người”, về cách chúng ta tận dụng các nguồn tài nguyên như thế nào.
“SDG không chỉ là môi trường, mà còn là con người. Bởi một trong các mục tiêu SDG từ UN là Quality Education - chất lượng giáo dục” - trích lời ông Thịnh.
Ông Thịnh chia sẻ, một trong những điều hỗ trợ tăng trưởng bền vững là sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên. Từ chuyện tắt - bật đèn, học online hay offline, cho đến các hoạt động bình thường như sử dụng giấy… đều có ảnh hưởng đến hiệu suất công việc.
“Doanh nghiệp đưa ra bài bài toán kinh doanh, nếu không có phương án kiểm soát nguồn lực, đó sẽ là sự lãng phí về con người, thời gian và tài nguyên. Chẳng hạn với dự án nghiên cứu R&D, nếu có những con người biết cách tận dụng tài nguyên hiệu quả, chỉ cần thời gian ít hơn với số tiền nhỏ hơn. Nhưng chỉ mải mê làm mà không có sự kiểm soát, có thể tốn tới hàng chục tỷ đồng mà chưa chắc hiệu quả”.
Yếu tố con người sẽ là rất quan trọng để biết cách sử dụng tài nguyên hiệu quả và theo chuyên gia Hoàng Thịnh là cần phải được giáo dục: “Tôi có làm việc với một số trường đại học nước ngoài. Các trường như như vậy sẽ liên kết với những tập đoàn bán dẫn, bệnh viện… Các tập đoàn đặt hàng đại học đào tạo để ra được thế hệ nhân viên kế cận đã được tiếp thu về phát triển bền vững và đặc biệt là hiệu suất công việc.
Nhìn chung, câu chuyện phát triển bền vững chính là con người. Tôi cũng mở doanh nghiệp và đôi khi nó rất phí phạm ở cách chúng ta quản lý con người như thế nào”.
Chắc chắn là “Có”, bởi một trong những vấn đề lớn nhất để phổ biến ESG nằm ở chi phí. Tất nhiên, cần phải hiểu chi phí dành cho phát triển bền vững là một khoản đầu tư dài hạn. Việc xây dựng quy trình, chuẩn mực, mô hình phục vụ cho chuyển đổi ESG ban đầu có tốn kém, nhưng về lâu dài sẽ trở về cân bằng và dần dần lợi ích có thể vượt xa. Khi chi phí bỏ ra mang lại lợi ích lớn, đó là hiệu quả đầu tư.
Đây là câu chuyện đã được chứng minh bằng thực tế nghiên cứu. Như Tập đoàn tài chính Fidelity tại Mỹ đã đưa ra phân tích về các khoản đầu tư liên quan đến ESG trên phạm vi toàn cầu, giai đoạn 1970 - 2014, cho thấy hơn 50% các khoản đầu tư này cho hiệu suất tốt hơn các nhóm khác trên thị trường. Hoặc, Công ty Morningstar tại Mỹ cũng có nghiên cứu cho thấy các quỹ đầu tư tập trung vào ESG có biến động thấp hơn, mang lại lợi nhuận đều đặn.
Tuy vậy, thực tế nhãn tiền vẫn là khoản chi phí cần bỏ ra cho ESG là không nhỏ, qua đó trở thành rào cản cho nhiều doanh nghiệp tiếp cận và chuyển đổi. Vấn đề là liệu có cách nào giảm bớt các khoản chi phí?
Về điểm này, chuyên gia Kim Ngân cho biết, Việt Nam đang có các chương trình kêu gọi sự giúp đỡ từ UN, châu Âu, Mỹ... Bản thân Việt Nam đã cam kết theo lộ trình, nghĩa là có quyền kêu gọi giúp đỡ. Những sự giúp đỡ này, nhìn rộng ra, có thể hỗ trợ xây dựng cộng đồng tiêu thụ sản phẩm xanh, giải quyết bài toán đầu ra cho doanh nghiệp. Khi đã có đầu ra ổn định, doanh nghiệp sẽ có thêm động lực để thực hiện.
“Như GLC nơi tôi làm việc có thể hỗ trợ, vì chúng tôi đi từ ý thức cộng đồng. Cộng đồng chính là khách hàng tiêu thụ các sản phẩm xanh. Một khi cộng đồng ý thức được, bài toán đầu ra cho các sản phẩm xanh có thể được giải quyết và bản thân các doanh nghiệp cũng có động lực tiếp tục phát triển bền vững” - trích lời bà Ngân.
“Ngoài ra còn các hợp tác công - tư (PPP). Về cơ bản, thực hành ESG gồm 2 phần: kỹ thuật (technical) và nhận thức. Khi 2 điều này kết hợp, chúng ta mới có hiệu quả bền vững. Các hợp tác công - tư có thể cải thiện công tác quản trị doanh nghiệp, tiết giảm chi phí, tăng nhận thức cho cộng đồng. Khi cộng đồng đã có ý thức, đó mới là điều bền vững nhất. Từ hàng chục năm trước đã có các hợp tác công - tư xuất hiện, nhưng hiệu quả chưa được cao”.
Một vấn đề khác, theo bà Ngân, là Chính phủ cần tạo hành lang để các tổ chức quốc tế tiếp cận, giúp đỡ Việt Nam trong việc thực hành ESG. “Việt Nam hiện đang đi chậm hơn Trung Quốc về mảng này, khi nước bạn đã giảm được 37% lượng phát thải. Chúng ta đã cam kết thực hiện, nhưng còn hạn chế về chi phí, do đó cần kêu gọi giúp đỡ, tạo hành lang để các tổ chức quốc tế tiếp cận, giúp đỡ”.
Trong khi đó, Thạc sĩ Hoàng Thịnh đưa một giải pháp khác để doanh nghiệp có thể làm lớn với nguồn lực nhỏ hơn. Đó là câu chuyện về nền kinh tế chia sẻ - Sharing Economy.
“Nền kinh tế chia sẻ, hiểu đơn giản, là tận dụng các nguồn lực nhàn rỗi, san sẻ vào chuỗi giá trị. Ví dụ như cách Uber hay Airbnb đã làm, dù còn nhiều hạn chế. Ví dụ khác, 1 khu phố có 5 hàng phở, sẽ có hàng bán ế, hàng bán được. Hàng ế sẽ phải đổ đi, đó là sự lãng phí. Thay vào đó, chúng ta không mở hàng phở mà mở nước mía, trà sữa… qua đó tận dụng được nguồn lực tốt hơn.
Nghĩa là thay vì cố gắng ôm đồm phần lớn của một miếng bánh nhỏ, mỗi người hãy ăn phần nhỏ của miếng bánh lớn hơn” - vị chuyên gia đề cập.
Theo ông Thịnh, nhiều startup hiện nay đang rơi vào xu hướng sẵn sàng tiêu tốn nhiều nguồn lực để tăng tính cạnh tranh. Trong khi đó, Sharing Economy có thể xem là từ khóa để tạo ra con đường giúp các doanh nghiệp vẫn có lợi nhuận mà giảm được chi phí, tối ưu được các nguồn tài nguyên. Và việc tối ưu tài nguyên thực chất cũng là một trong những tiêu chuẩn của phát triển bền vững.
Tuy nhiên, Sharing Economy tại Việt Nam vẫn còn đang chậm phát triển, một phần do doanh nghiệp chưa tìm hiểu kỹ về pháp lý, nên còn tồn tại tâm lý lo sợ.
Có một vấn đề cần phải làm rõ, đó là các chuẩn phát triển bền vững không chỉ có một. CSR (Corporate Social Responsibility - trách nhiệm xã hội) sẽ cần nhiều tiền, dành cho các doanh nghiệp lớn và không bắt buộc; SDG (Sustainable Development Goals) thì không tốn tiền, cũng không bắt buộc; còn ESG là bắt buộc và phải tốn tiền. Với nhiều doanh nghiệp, CSR và ESG tương đối khó, nhưng có thể làm SDG vì nó gắn liền với nội tại hoạt động của họ.
2 vị chuyên gia làm việc trong những lĩnh vực khác nhau, nhưng đều có những câu chuyện liên quan đến phát triển bền vững của doanh nghiệp và có lẽ phần nào tạo nên một nguồn cảm hứng cho các doanh nghiệp.
“Tôi từng tư vấn cho 1 doanh nghiệp về mật ong, nuôi ong để bảo vệ rừng nguyên sinh nên sản lượng rất ít. Tôi đồng hành cùng họ hơn 1 năm. Ban đầu, họ xây dựng bộ máy nhân sự, vì đây là một doanh nghiệp tạo tác động xã hội. Để vận hành được, họ cần phải gọi vốn từ các quỹ” - chuyên gia Kim Ngân chia sẻ.
“Họ không phụ thuộc vào việc sản xuất số lượng lớn để lấy lời, mà lồng ghép vào việc nâng nhận thức cho các khu rừng nguyên sinh, để giáo dục cho đồng bào các dân tộc thiểu số trong khu vực hiểu rằng bảo vệ rừng đi liền với sản xuất. Khi họ biết có các chương trình từ nước ngoài quan tâm, họ biết có thể thuyết phục hợp tác xã để nuôi ong theo hướng bảo vệ (không thuốc trừ sâu, không can thiệp nhiều, nhìn chung là hoàn toàn tự nhiên). Chỉ là, doanh nghiệp này không đủ tiền để mang sản phẩm qua nước ngoài (ở đây là Thụy Sĩ) để có chứng nhận.
Gần đây, doanh nghiệp này đã nhận được quỹ khoảng vài trăm ngàn USD để phát triển chương trình của mình. Tôi đánh giá doanh nghiệp này không đặt lợi nhuận lên hàng đầu, mà nuôi dưỡng hệ sinh thái bảo vệ rừng, bảo vệ loài ong không bị tận diệt”.
Ông Hoàng Thịnh tiếp cận ở một góc nhìn khác. Là người làm về giáo dục, mang phương pháp giáo dục STEM (Khoa học - Công nghệ - Kỹ thuật - Toán) về Việt Nam, vị chuyên gia tiếp cận câu chuyện phát triển bền vững dưới góc độ tìm kiếm giải pháp thay thế từ khoa học công nghệ, giảm thiểu chi phí cho doanh nghiệp.
“Một lần, tôi đến diễn đàn phát triển bền vững, có tập đoàn lớn nói rằng họ sẽ sử dụng toàn bộ bao bì 100% là nhựa tái sinh (nhựa tái chế) và nhựa phân hủy.
Lúc này, tôi nghĩ đến một chuyện khác. Chẳng hạn một doanh nghiệp khởi nghiệp sản xuất ra nước uống đóng chai, họ cần cạnh tranh về giá. Nếu họ sử dụng nhựa tái sinh, chi phí sẽ cao hơn, rất khó để kinh doanh. Nếu như có chế tài bắt buộc làm, rất khó để xuất hiện các doanh nghiệp mới, mà họ buộc phải làm dưới doanh nghiệp lớn. Hoặc họ phải đổ số tiền lớn để R&D mà chưa chắc đã kinh doanh được, hoặc họ sẽ phải làm ‘chui’ và lại dẫn đến câu chuyện khó giải đáp về chi phí ESG” - ông Thịnh cho hay.
Theo ông Thịnh, khoa học công nghệ chính là đáp án để giải quyết câu chuyện này.
“Ví dụ như PLA - nhựa phân hủy sinh học, chỉ phân hủy sau vài năm so với hàng trăm năm của nhựa thường. Vấn đề lớn nhất là giá. Mặc dù PLA có giá thành cao hơn các loại nhựa phổ biến hiện nay, nhưng với việc áp dụng khoa học, giá thành của chúng có thể được giảm xuống đáng kể trong tương lai. Ví dụ như nhóm học sinh mà STEMax hướng dẫn đã tạo ra một công thức trộn PLA và bã cà phê mới, không chỉ giúp giảm giá thành nhựa, tận dụng bã cà phê sau sử dụng mà còn làm tăng độ bền của PLA nhưng thay đổi rất ít về thời gian phân hủy. Doanh nghiệp khởi nghiệp có thể sử dụng loại nhựa này”.
Ông Thịnh cho rằng bản chất câu chuyện về khoa học công nghệ với các sản phẩm như vậy không khó. Điều cần thiết là tìm kiếm các nhà đầu tư chịu rót tiền, giúp các công nghệ mới như PLA trở thành nguyên liệu giá rẻ để các startup có thể tiếp cận.
“Như tập đoàn lớn nêu trên, nếu như quy định tất cả các bao bì phải sử dụng nhựa tái sinh hoặc nhựa có nguồn gốc sinh học, các doanh nghiệp nhỏ sẽ khó có cơ hội cạnh tranh về giá. Câu chuyện nhựa và ‘chất thải trắng’ rất tốt về môi trường và tập đoàn cũng đang làm tốt. Tuy nhiên, việc này cũng buộc các doanh nghiệp nhỏ phải đầu tư thêm chi phí, gây khó khăn trong quá trình kinh doanh.
Các doanh nghiệp thực chất không cần quá lo về việc đạt chuẩn được hay không, mà đo lường bằng hiệu quả kinh tế đạt được so với nguồn lực - SDG sẽ nằm trong đó luôn. Với một nguồn lực bỏ ra không nhiều mà mang lại hiệu quả lớn, chỉ số này đo lường được. Đó là hiệu quả chi phí (cost efficiency). Tiền bạc bỏ ra thực chất liên đới với tài nguyên thiên nhiên, dù là người, xe cộ, phương tiện… Nếu bỏ ra ít mà hiệu quả lớn, đó là SDG rồi”.
Xét cho cùng, việc phổ biến hoạt động phát triển bền vững của doanh nghiệp trong bối cảnh hiện nay là điều khẩn thiết. Kết thúc buổi trò chuyện, bà Kim Ngân đã nói một điều khiến người viết không thể quên.
“Khi đưa ra ESG, đó là tiếng chuông cảnh báo cho toàn xã hội và đặt trách nhiệm rất lớn cho doanh nghiệp. Trái đất đã bị tổn thương và không thể phục hồi nếu con người chúng ta không hành động”.
Châu An
Ảnh: Tử Kính
Thiết kế: Tuấn Trần
FILI
CTCP Cảng Dịch vụ Dầu khí Đình Vũ - công ty con của PVS - công bố tài liệu ĐHĐCĐ thường niên 2024 với kế hoạch lãi ròng tăng nhẹ, sau năm 2023 thuộc nhóm dẫn đầu về tăng trưởng lãi ròng ngành cảng biển, logistics. Đồng thời, PSP cũng dự chi 16 tỷ đồng cổ tức năm 2024.
Kế hoạch 2024 tăng nhẹ, sau năm ở nhóm dẫn đầu ngành cảng biển, logistisc
Cụ thể, năm 2024, PSP đặt kế hoạch doanh thu thuần 238 tỷ đồng, đi ngang so với thực hiện năm trước; đóng góp chủ đạo vẫn từ dịch vụ căn cứ cảng gần 170 tỷ đồng, giảm nhẹ 1% và dịch vụ tổng hợp dầu khí, dịch vụ mới hơn 62 tỷ đồng, tăng 5%.
PSP đặt mục tiêu lãi ròng hơn 9 tỷ đồng, tăng nhẹ 5%. Năm 2023, PSP là một trong những Công ty đứng đầu về tăng trưởng lãi ròng của ngành cảng biển, logistics, cụ thể đạt 8.7 tỷ đồng, gấp đến 91 lần năm 2022. Dù tăng trưởng mạnh nhưng PSP vẫn chưa thể hồi phục hồi về mức trước đại dịch COVID-19.
Doanh thu thuần và lãi ròng của PSP giai đoạn 2019-2023
Theo PSP, khó khăn từ cả kinh tế thế giới lẫn trong nước làm lượng hàng hóa qua hệ thống cảng khu vực Hải Phòng khó tăng trưởng mạnh mẽ. Ngoài ra, sự cạnh tranh lớn hơn đến từ các cảng mới tại khu vực Lạch Huyện được đầu tư hiện đại tầm quốc tế và hình thành nhanh chóng, các hãng tàu có xu hướng thành lập các liên minh đưa tàu cỡ lớn vào khu vực cảng nước sâu Lạch Huyện khai thác... Mặt khác, PSP cho biết các quy định của Nhà nước liên quan đến giá dịch vụ, điều kiện kinh doanh cảng biển… ngày càng nhiều và rất khó thực hiện, đặc biệt với những doanh nghiệp có vốn Nhà nước.
Với ngành dịch vụ tổng hợp dầu khí và dịch vụ mới, PSP dự báo hoạt động dầu khí ở khu vực phía Bắc diễn ra hạn chế; giá nhiên liệu trên thị trường biến động cao, ảnh hưởng đến giá thành dịch vụ cho thuê tàu lai, tàu trực; dịch vụ sửa chữa và bảo dưỡng (O&M) thì Công ty chưa có nhiều kinh nghiệm, thiếu nhân sự có năng lực nên việc tham gia sâu rộng rất khó khăn và hiệu quả không cao.
Về kế hoạch đầu tư, PSP dự chi gần 12 tỷ đồng, trong đó gần 6 tỷ đồng cho các dự án chuyển tiếp từ năm 2023, bao gồm đầu tư Checking point xuất, mua sắm 1 bộ khung chụp tự động 40 tấn và xây dựng trạm biến áp 1,250 kVA; hơn 6 tỷ đồng cho các dự án chuẩn bị đầu tư và khởi công mới, bao gồm mua sắm 2 xe đầu kéo Romooc, 2 xe nâng điện 1.8 tấn và đầu tư hệ thống điện năng lượng mặt trời khu nhà văn phòng.
Dự chi 16 tỷ đồng trả cổ tức sau nhiều năm không thực hiện
Tỷ lệ cổ tức 2024 dự kiến là 4%, tương đương mức chi 16 tỷ đồng. Tổng CTCP Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí Việt Nam hưởng lợi lớn nhất nhờ giữ vai trò Công ty mẹ trực tiếp sở hữu 51% vốn, ước tính thu về hơn 8 tỷ đồng. Ngoài ra, 2 cổ đông lớn khác là CTCP Container Việt Nam sở hữu 22% vốn và CTCP Việt Pháp Sản xuất Thức ăn Gia súc (Proconco) sở hữu 5% vốn cũng sẽ thu về lần lượt gần 4 tỷ đồng và gần 1 tỷ đồng.
Dù vậy, thực tế cổ đông PSP có nhận được cổ tức hay không vẫn còn là dấu hỏi. Những năm gần đây, ĐHĐCĐ thường niên PSP đều thông qua kế hoạch chia cổ tức, lần lượt 20 tỷ đồng cho năm 2021 (tỷ lệ 5%), 12 tỷ đồng cho năm 2022 (tỷ lệ 3%) và 8 tỷ đồng cho năm 2023 (tỷ lệ 2%), nhưng đều không thực hiện.
PSP thậm chí còn đang ghi nhận gần 4 tỷ đồng phải trả cổ tức, đồng thời khoản mục lợi nhuận sau thuế chưa phân phối cũng chỉ gần 19 tỷ đồng ở cuối năm 2023, đặt ra dấu hỏi về khả năng thanh toán các khoản cổ tức theo kế hoạch.
Tại ĐHĐCĐ thường niên 2023, trước câu hỏi của cổ đông liên quan đến cổ tức, đại diện PSP chia sẻ: “Do lợi nhuận giữ lại chưa phân phối năm 2022 còn rất ít, việc thực hiện trả cổ tức cho các cổ đông chưa lưu ký còn nhiều phức tạp nên Công ty đề xuất không chia cổ tức theo kế hoạch, phần lợi nhuận này sẽ được chuyển sang năm 2023 và chờ kết quả sản xuất kinh doanh 2023, Công ty sẽ thực hiện phương án phân phối lợi nhuận phù hợp, đảm bảo lợi ích hài hòa giữa cổ đông và Công ty”.
Huy Khải
FILI
交易股票、货币、商品、期货、债券、基金等金融工具或加密货币属高风险行为,这些风险包括损失您的部分或全部投资金额,所以交易并非适合所有投资者。
做出任何财务决定时,应该进行自己的尽职调查,运用自己的判断力,并咨询合格的顾问。本网站的内容并非直接针对您,我们也未考虑您的财务状况或需求。本网站所含信息不一定是实时提供的,也不一定是准确的。本站提供的价格可能由做市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他财务决定均应完全由您负责,并且您不得依赖通过网站提供的任何信息。我们不对网站中的任何信息提供任何保证,并且对因使用网站中的任何信息而可能造成的任何交易损失不承担任何责任。
未经本站书面许可,禁止使用、存储、复制、展现、修改、传播或分发本网站所含数据。提供本网站所含数据的供应商及交易所保留其所有知识产权。